Khóa luận Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam

MỤC LỤC

 

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ

 

A.Khái niệm và tiêu chí xác định DNVVN

1.Khái niệm ở một số nước trên thể giói .

2.KHÁI NIỆM Ở VIỆT NAM .

B.Đặc điểm của DNVVN

1.Tính tất yếu của việc tồn tại các DNVVN trong nền kinh tế

2.Đặc điểm chung của các DNVVN . .

 

C.Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân

 

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA LOẠI HÌNH DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ TẠI VIỆT NAM

 

A.Quá trình hình thành, phát triển các DNVVN ỏ Việt nam

1.Các DNVVN trong lĩnh vực công nghiệp . .

2.Các DNVVN trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ

3.Các DNVVN ở khu vực nông thôn .

B. Tác động của các chính sách vĩ mô đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ

1.Chính sách thương mại. . .

2.Chính sách tài chính, tiền tệ, tín dụng. . . .

3.Chính sách đất đai . . .

3.Chính sách về công nghệ, giáo dục đào tạo .

5.Chính sách hợp tác quốc tế . . .

C.Thực trạng các và những tồn tại của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam

1.Tình hình vốn . .

2.Tình hình thiết bị công nghệ . .

3.Tình hình nhân lực, lao động quản lí .

4.Tình hình khả năng cạnh tranh về sản phẩm, thị trường .

Chương III: Các giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam.

A.Định hướng phát triển

B.Các giải pháp phát triển

1. Nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện môi trường pháp lý và hiệu quả quản lí nhà nước đối với các DNVVN. . . .

2.Nhóm giải pháp hỗ trợ kinh doanh về nguồn vốn, thông tin, thị trường

3.Nhóm giải pháp xây dựng năng lực cạnh tranh cho các DNVVN về nhân lực, công nghệ. . . . .

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

doc107 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1396 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và một số giải pháp nhằm phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ị đã qua sử dụng. Đành rằng là cần tránh tình trạng biến Việt nam thành bãi rác công nghệ những nếu quy định qúa khắc nghiệt thì cũng rất khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc tiếp cận công nghệ mới. Trong tình trạng như vậy thì hoạt động cho thuê tài chính (leasing)-một hình thức tài trợ có mức độ an toàn cao, linh hoạt trong kinh doanh-có thể được xem như cứu cánh cho vấn đề công nghệ của các DNVVN, tuy vậy việc xúc tiến hoạt động này chưa phát triển lắm. Nghị định số 64/CP ngày 9/10/1995 đã được Chính phủ ban hành về Qui chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của các công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam nhằm mở đường cho các công ty cho thuê tài chính tiến hành hoạt động, tạo một kênh dẫn vốn trung và dài hạn cho các DNVVN, nhưng kết qủa vẫn chưa thu được bao nhiêu. Cho thuê tài chính ở Việt nam vẫn còn là một cái gì đó xa lạ. Về giáo dục đào tạo, Những năm gần đây, Chính phủ cũng đã có rất nhiều cố gắng nỗ lực để tạo cho các doanh nghiệp nói chung và các DNVVN nói riêng một đội ngũ nhân lực có tay nghề và trình độ. Ngành giáo dục đào tạo và nhiều cơ quan của các ngành đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp theo các khoá, trường lớp với nhiều hình thức, phương thức đào tạo khác nhau. Mặc dù đó mới chỉ ban đầu hình thành do nhu cầu bức thiết của các DNVVN nhưng nó đã giúp cho việc đào tạo đội ngũ nhân lực trong khu vực DNVVN tích cực và thiết thực. Hàng nghìn lớp học ngắn hạn và các hội thảo đã được tổ chức ở khắp nơi trên cả nước. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp như vậy còn chưa được thực hiện đúng mức, chương trình còn nghèo nàn, nội dung còn hạn chế, chưa đáp ứng được các yêu cầu cho loại đối tượng này. Bên cạnh đó, cũng đã có một số trung tâm xúc tiến, hỗ trợ DNVVN được thành lập và thực hiện các hoạt động đào tạo và các hoạt động khác do các nguồn quỹ quốc tế tài trợ. Có thể kể đến trong số đó là Trung tâm dịch vụ và hỗ trợ doanh nghiệp (BPSC) hình thành trên khuôn khổ dự án hợp tác giữa Liên minh Hợp tác xã Việt nam (VCA) và tổ chức hợp tác kỹ thuật Đức (GTZ), trung tâm liên tục tổ chức các lớp học trong đó bao gồm cả những lớp học đào tạo giảng viên. Ngoài ra còn có các lớp học liên tục được tổ chức tại Trung tâm hỗ trợ DNVVN của VCCI-SME PC với sự hỗ trợ của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các lớp học của Trung tâm hỗ trợ DNVVN của Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng( SMEDEC). Tuy nhiên các trung tâm này không đủ để đáp ứng việc đào tạo hướng nghiệp và các dịch vụ tư vấn ở quy mô các DNVVN yêu cầu. Vấn đề là có một cơ quan Chính phủ ủng hộ hoạt động của các trung tâm này cũng như sự ủng hộ của các tổ chức quốc tế, như vậy các trung tâm đó mới thực sự phát huy vai trò hỗ trợ các DNVVN. 5.Tác động của chính sách hợp tác quốc tế về các DNVVN. Việt nam đang trong tiến trình hộp nhập kinh tế khu vực và nền kinh tế toàn cầu, thành công của tiến trình này phụ thuộc rất lớn vào sự phát triển của khu vực doanh nghiệp mà chủ yếu là các DNVVN. Khu vực này chỉ thực sự phát triển được nếu có sự hỗ trợ kịp thời, có những điều kiện ưu đãi thích hợp, không chỉ từ phía đối nội mà còn cần nhiều những hỗ trợ quý báu từ bên ngoài về nguồn vốn viện trợ phát triển, về các kinh nghiệm trong việc phát triển các DNVVN. Quan hệ hợp tác của Việt nam với nhiều nước, nhiều tổ chức, nhiều định chế tài chính vì vậy mà không ngừng được tăng cường và phát triển, dưói đây là một vài thành quả điển hình. Cùng chung một mục tiêu thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp thông qua những dịch vụ hỗ trợ phát triển kinh doanh cho các DNVVN. Phòng thương mại và công nghiệp Việt nam(VCCI) và Tổ chức hỗ trợ kỹ thuật Đức(GTZ-German Technican Corporation) cùng hợp tác và xây dựng và phát triển những dịch vụ thông tin cập nhật với chất lượng cao. Văn bản hợp tác giữa VCCI và GTZ kí vào 10/2001, kế đó việc phát triển hướng đi của SMEnet( Small and Medium Enterprises) được ghi nhận và thông qua vào 11/2001 và kinh phí được hỗ trợ vào 12/2001. Sau đó SMEnet được thử nghiệm vào 3/2002 và chính thức hoạt động từ 4/2002. SMEnet-thành quả đầu tiên là trang Web vào tháng 4/2002, đây thực sự là một bước tiến lớn lao khi mà các DNVVN có thể tiếp cận được rất nhiều nguồn thông tin quý báu về hoạt động kinh doanh của mình, khi mà các thông tin về DNVVN được công bố công khai. Tại đó, các DNVVN có thể có những thông tin cập nhật về thị trường, sản phẩm, bạn hàng, đối tác, các thông tin về tư vấn pháp luật, khởi sự doanh nghiệp, và nhiều thông tin hữu ích khác qua đó các DNVVN Việt nam có thể tăng sức cạnh tranh của mình.Tuy mới hoạt động nhưng trang Web này thực sự đã là công cụ hiệu qủa cho phát triển DNVVN. Cũng theo kế hoạch hợp tác giữa VCCI và GTZ, Dự án thúc đẩy phát triển DNVVN sẽ dần dần chuyển giao SMEnet cho Trung tâm thông tin VCCI quản lí, trong quá trình chuyển giao đó, hai bên sẽ cùng hợp tác phát triển SMEnet như một cổng thông tin về kinh tế cho các DNVVN. Phía Việt nam cũng đã có sự hợp tác với Italia về phát triển các DNVVN, hai bên đã ký “Biên bản ghi nhớ về sự hợp tác về các DNVVN Việt nam- Italia” giữa Bộ công nghiệp, thương mại và thủ công nghiệp nước Cộng hoà Italia và Bộ công nghiệp nước công hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam vào 5/10/1999. Italia cũng đã cụ thể hoá bằng nhiều chương trình hợp tác hỗ trợ, cụ thể là “Hội thảo DNVVN trong công nghiệp- kinh nghiệm của Italy và Việt nam” do bộ công nghiệp Việt nam, Đại sứ quán Italy tổ chức ngày 22/5/2002. Hay là dự án hỗ trợ kỹ thuật cho các DNVVN việt nam trong công nghiệp đá ốp lát, và nhiều hoạt động khác. Việt nam cũng luôn tham gia và thậm chí trực tiếp tổ chức các hội nghị quốc tế về phát triển các DNVVN. Điều này thể hiện quyết tâm thực sự của Chính phủ trong phát triển các DNVVN. Tại Bắc Kinh, việt nam tham gia Hội nghị cấp bộ trưởng APEC về các DNVVN ngày1/9/2001 với sự tham gia của 21 quốc gia APEC, hội nghị đã thông qua tuyên bố chung về phát triển các DNVVN. Tại Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 8/10/2002 đã diễn ra “Hội nghị lần 7 các thành phố đối tác khu vực châu á-Thái Bình Dương về chính sách hỗ trợ DNVVN”. Hội nghị cũng thông qua chương trình hành động TP Hồ Chí Minh về phát triển DNVVN. C.Thực trạng và những tồn tại của các DNVVN tại Việt nam. 1.Vốn của các DNVVN. Hiện nay các DNVVN gặp phải tình trạng khó khăn về vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh. Thị trường cung ứng vốn cho các DNVVN chủ yếu là thị trường tài chính phi chính thức. Các chủ doanh nghiệp thường vay vốn của thân nhân, bạn bè, và vay của những người cho vay lấy lãi. Hầu như các DNVVN, nhất là các DNVVN ngoài quốc doanh, không tiếp cận được với nguồn tín dụng chính thức của ngân hàng. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân như: Hệ thống ngân hàng, chủ yếu dành các khoản tín dụng cho các doanh nghiệp Nhà nước; các DNVVN không đáp ứng được các đòi hỏi của ngân hàng về các thủ tục như lập dự án khả thi, thủ tục thế chấp và mức lãi suất. Hiện nay, các thủ tục vay vốn tín dụng của các ngân hàng và các tổ chức tín dụng còn rất phức tạp, dẫn đến chí phí giao dịch cao làm cho những khoản tín dụng này trở nên quá đắt đối với các DNVVN. Thủ tục phức tạp và chi phí giao dịch cao lại cũng làm cho các ngân hàng không muốn cho các DNVVN vay. Bởi vì dưới góc độ của các ngân hàng, thủ tục cho vay các khoản vốn nhỏ cũng không kém phần phức tạp so với các khoản vốn lớn mà lợi nhuận lại ít và các quy định quá khắt khe về tài sản thế chấp và dự án khả thi cũng đội các chi phí lên cao. Chính vì thế ngân hàng thì nhận được ít lợi nhuận đi còn các DNVVN thì lại không đáp ứng được các điều kiện vay vốn, cho nên các ngân hàng không muốn cho họ vay. Trong khi đó, các DNNN thì lại vay vốn mà không cần phải thế chấp tài sản. Đây là một trong những phân biệt đối xử lớn hiện nay. Ngoài ra, còn có một số nguyên nhân khác như các phương pháp định giá tài sản thế chấp còn không rõ ràng, thường đánh giá rất thấp giá trị của các tài sản thế chấp so với giá trị thực của nó, và các quy định của các ngân hàng về vấn đề này còn rất tuỳ tiện. Bên cạnh đó, một số chủ doanh nghiệp ngoài quốc doanh không muốn vay ngân hàng vì như vậy khó trốn tránh nghĩa vụ nộp thuế. Các khoản hỗ trợ, viện trợ từ bên ngoài của các quốc gia, các tổ chức, các dự án là rất hiệu quả nhưng chưa thấm tháp vào đâu với nhu cầu của các DNVVN. Các chính sách tài chính tín dụng chưa được tiến hành đồng bộ và thực thi hiệu quả nên tác động chưa thật tốt đến nhu cầu bức xúc về vốn của các DNVVN hiện nay. 2.Tình hình thiết bị công nghệ Trình độ thiết bị, công nghệ trong các DNVVN rất lạc hậu. Chỉ trừ một số ít các doanh nghiệp mới thành lập, còn phần lớn sử dụng thiết bị lạc hậu tới 20-50 năm so với các nước trong khu vực. Năng lực công nghệ và kỹ thuật hạn chế, trang bị vốn thấp ( chỉ bằng 3%) mức trang bị kỹ thuật trong các doanh nghiệp công nghiệp lớn. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị thấp. Nếu lấy thành phố Hồ Chí Minh- trung tâm công nghệ cao nhất cả nước làm ví dụ thì tỷ lệ này cũng chỉ là khoảng 10% một năm tính theo vốn đầu tư. Trong khi đó, nhiều sản phẩm công nghệ hiện nay như các sản phẩm điện tử, viễn thông, hóa thực phẩm có chu kỳ sống rất ngắn. Với tốc độ đổi mới máy móc thiết bị như trên thì không tránh khỏi tụt hậu; do đó mà năng suất thấp, giá thành cao, rất khó cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Có thể thấy tình hình tại thành phố Hồ Chí Minh như sau: Bảng 9 : Trình độ công nghệ, máy móc thiết bị đang sử dụng tại các DNVVN ở TP Hồ Chí Minh so với trình độ chung của thế giới Loại doanh nghiệp Trình độ công nghệ, máy móc, thiết bị (%) Hiện đại Trung bình Quá lạc hậu, lạc hậu 1. Quốc doanh 11,4 53,1 35,5 2. Ngoài quốc doanh 6,7 27 66,3 -Cổ phần, TNHH 19,4 54,8 25,8 -DNTN 30,0 30,3 50,0 -HTX 16,7 33,3 50,0 -Tổ hợp, cá thể 3,6 22,8 73,6 Tính chung 10 38 52 Nguồn: Báo cáo định hướng chiến lược và khuyến nghị chính sách phát triển DNVVN đến năm 2010 ở Việt Nam, Trang 22. Thực trạng trên cũng không có gì đáng ngạc nhiên, bởi vì các DNVVN đươc định nghĩa với tiêu chí vốn tương đối thấp và gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn tín dụng trung và dài hạn cần thiết cho việc đầu tư nâng cấp công nghệ. Đặc biệt các doanh DNVVN còn đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tiếp cận thị trường quốc tế trong lĩnh vực công nghệ, máy móc và thiết bị do thiếu thông tin về thị trường này. Những tồn tại căn bản trong tình hình công nghệ lạc hậu hiện nay ở khu vực DNVVN là : - Thiếu vắng chiến lược công nghệ cho DNVVN, do đó đổi mới công nghệ diễn ra một cách tự phát, cá biệt, thiếu định hướng, hướng dẫn và hỗ trợ của Nhà nước hoặc của doanh nghiệp lớn. - Thiếu thông tin hướng dẫn và điều kiện tiếp cận công nghệ, năng lực tài chính hạn hẹp. Việc đổi mới công nghệ vẫn chỉ là việc làm tự thân của DNVVN. - Tiến trình thay đổi công nghệ diễn ra chậm chạp, chưa tương xứng với tốc độ gia tăng của thị trường. Việc đổi mới công nghệ chỉ tập trung vào một số ngành và chủ yếu ở các thành phố lớn, các ngành này đã đạt được những tiến bộ nhất định về công nghệ và từ đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường (ngành may mặc, thủ công mỹ nghệ, hóa mỹ phẩm, chất tẩy rửa, sản xuất đồ nhựa, sản xuất công cụ chế biến lương thực, đồ gia dụng...). - Thiếu những giải pháp đồng bộ trong việc tiếp thu công nghệ ngoại nhập, thiếu thông tin tư vấn, trình độ và tổ chức đánh giá thẩm định cho nên khoảng 70% máy móc thiết bị mua về ở mức trung bình, trong đó một bộ phận đáng kể ở dạng second-hand. Việc quản lý công nghệ nhập còn nhiều sơ hở, quy chế giám định công nghệ chưa chặt chẽ gây tổn thất lớn về kinh tế. - Vai trò hướng dẫn quản lý của các ngành kinh tế- kỹ thuật, của các cơ quan quản lý nhà nước và các tổ chức tư vấn về công nghệ còn thiếu và lúng túng. Cơ chế chính sách, cơ chế chuyển giao công nghệ không đồng bộ; quy trình, quy phạm, thiếu sự hỗ trợ trong chính sách tài chính tín dụng do đó DNVVN không đủ sức đổi mới công nghệ hoặc tiếp thu công nghệ mới kém hiệu quả, cơ chế kiểm soát chuyển giao công nghệ chưa chặt chẽ. - Thiếu sự phối hợp giữa các cơ quan nghiên cứu triển khai với các DNVVN, tiềm năng nghiên cứu của các viện, trung tâm, các trường đại học chưa được khai thác phục vụ cho các chương trình đổi mới công nghệ, thiếu sự hỗ trợ về công nghệ giữa các doanh nghiệp lớn với DNVVN. - Thiếu đội ngũ chuyên gia, công nhân lành nghề, thợ bậc cao, những nhà hoạch định chính sách và tổ chức ứng dụng công nghệ mới. - Thiếu những điều kiện chuẩn bị cho quá trình thay đổi công nghệ một cách cơ bản, đồng bộ để thích ứng với sự biến đổi của thị trường khi hội nhập đầy đủ với các nước ASEAN vào năm 2006. Kế đó, còn có một số nguyên nhân khách quan ảnh hưởng đến hoạt động chuyển giao công nghệ cuả các DNVVN như: -Các doanh nghiệp chưa được phép khấu hao nhanh máy móc thiết bị do đó chưa khuyến khích các doanh nghiệp đổi mới công nghệ. -Việc yêu cầu các hợp đồng chuyển giao công nghệ phải được Chính phủ phê chuẩn với các thủ tục, quy định hiện hành gây khó khăn, phiền hà và mất rất nhiều thời gian cho các doanh nghiệp. Và cũng các chính quy định hiện hành làm cho các DNVVN không đủ điều tài chính mua máy móc thiết bị mới cũng không thể nâng cao công nghệ của mình bằng cách nhập máy móc thiết bị cũ nhưng phù hợp với năng lực sản xuất của họ. -Các chi phí liên lạc viễn thông quốc tế và Internet còn quá cao. Đây là một trong những cản trở đầu tiên để tiếp cận với thông tin thị trường công nghệ quốc tế. -Các thủ tục cồng kềnh, tốn kém trong việc cấp thị thực nhập cảnh cho các chuyên gia nước ngoài, những người chuyển tải công nghệ vào Việt Nam, và thuế thu nhập cao mà các chuyên gia này phải chịu so với các nước Đông Nam á đã không khuyến khích họ đến Việt Nam. -Nhập khẩu máy móc, thiết bị hiện nay của các DNVVN đang phải chịu các mức thuế suất cao. Trong khi đó các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài lại được miễn thuế nhập khẩu. 3.Trình độ nhân lực, lao động và quản lý. Nhìn chung lao động trong các DNVVN ít được đào tạo cơ bản qua các trường lớp chính thống mà chủ yếu theo phương pháp truyền nghề, trình độ văn hóa thấp, đặc biệt là số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu lao động đã qua đào tạo rất bất hợp lý, cụ thể là: Tỷ lệ giữa đào tạo đại học- trung học- công nhân kỹ thuật là 1-1,5-2,5 trong khi ở các nước đang phát triển trong khu vực tỷ lệ là 1- 4 -10. Điều đó dẫn đến tổng số lao động qua đào tạo đã ít, tổng số công nhân kỹ thuật lại càng ít hơn so với nhu cầu thực tế. Hơn nữa, chất lượng dạy nghề lại yếu, nguyên nhân là do trang bị cơ sở vật chất, kỹ thuật, đội ngũ giáo viên, giáo trình, giáo án đều rất thiếu thốn và lạc hậu, không đáp ứng được yêu cầu. Về chủ doanh nghiệp : Thực trạng trình độ của chủ DNVVN ở nước ta được biểu hiện trên một số mặt sau đây: -Về cơ cấu trình độ của chủ DNVVN: Theo kết quả điều tra thì 30% chủ doanh nghiệp xuất thân từ công nhân, viên chức thuộc khu vực kinh tế nhà nước chuyển ra. Đây là đội ngũ phần nào đã có kinh nghiệm trong sản xuất, một số ít có tay nghề và hiểu biết về quản lý kinh tế. Động cơ hoạt động sản xuất- kinh doanh là để tự tạo việc làm, có thu nhập cho cuộc sống. Khoảng 60% đã từng là chủ doanh nghiệp nhỏ hoặc đã hoạt động ở khu vực kinh tế cá thể, tư nhân, có truyền thống của gia đình. Đây là lực lượng khá lớn, có kinh nghiệm nghề nghiệp nhưng trình độ quản lý sản xuất- kinh doanh, tài chính, kế toán... còn thiếu. Khoảng 10% là học sinh, sinh viên các trường phổ thông, các trường trung học, đại học tìm được việc làm, có vốn hoặc vay vốn tự lập doanh nghiệp sản xuất hoặc kinh doanh. - Về trình độ văn hóa: 40% chủ doanh nghiệp có trình độ lớp 7; 35% trình độ lớp 10 (hệ cũ) và 25% có trình độ lớp 12 (hệ mới). Trình độ này còn được chứng minh qua số liệu điều tra 300 doanh nghiệp nhỏ ở 3 thành phố: Hải Phòng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh của Viện khoa học lao động Nhật Bản kết hợp với Viện khoa học lao động của Bộ lao động- thương binh và xã hội Việt nam; hơn 70% có trình độ cấp II ( hệ cũ) và khoảng 25% có trình độ cấp III trở lên. - Về trình độ chuyên môn: Trong số các chủ doanh nghiệp được điều tra, cứ 100 người thì có một người có trình độ trên đại học, 3 người có trình độ đại học, 14 người có trình độ trung học hoặc tương đương. Hơn nữa, trong số trình độ trung học và đại học thì chủ doanh nghiệp có trình độ tay nghề đào tạo phù hợp với nghề hoạt động sản xuất- kinh doanh thấp, chỉ khoảng 7%. Khoảng 30% chủ doanh nghiệp đã hoạt động kinh tế tư nhân, mặc dù chưa có nghề nhưng nhờ chính sách đổi mới đã nắm cơ hội tạo lập cơ sở riêng hoặc phát triển doanh nghiệp thừa kế của gia đình. Số chủ doanh nghiệp này phần lớn hoạt động ở khu vực dịch vụ, đặc biệt là may mặc, dịch vụ văn hóa, sửa chữa cơ khí, điện tử. Một số các chủ doanh nghiệp có tay nghề phù hợp với hoạt động của doanh nghiệp nhưng ở trình độ thấp, chủ yếu dựa vào đào tạo từ cơ sở dạy nghề tư nhân hoặc kèm cặp qua thực tế, hay được gia đình truyền lại. Có một số chủ doanh nghiệp loại này đã làm trong khu vực kinh tế Nhà nước, nhưng khi lập nghiệp, kiến thức cũ không đáp ứng được mà phải tự học lại, hoặc nâng cao kiến thức nghề nghiệp qua các lớp bồi dưỡng ngắn. Một số ít trong các chủ doanh nghiệp đã qua quá trình đi làm cho các chủ doanh nghiệp khác từ khi còn ít tuổi, tự học nghề trong thực tế, sau đó trưởng thành, có vốn và tự đứng ra tạo lập doanh nghiệp. Qua phần thực trạng trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp nêu trên, có thể kết luận rằng đội ngũ các chủ doanh nghiệp có sự bất cập về trình độ. Nguyên nhân chủ yếu của tình hình này, trước hết là do sự chuyển biến về cơ chế quản lý, các DNVVN đang ở giai đoạn đầu của quá trình hình thành, phát triển, việc đào tạo bồi dưỡng chưa được chú ý đúng mức hoặc đã được chú ý nhưng chưa triệt để. Từ năm 1991 trở lại đây, ngành giáo dục đào tạo và nhiều cơ quan của các ngành đã mở nhiều lớp đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp theo các khóa, trường lớp với nhiều hình thức và phương thức đào tạo khác nhau. Có thể kể đến trong số đó là các lớp đào tạo liên tục của Trung tâm hỗ trợ DNVVN, các lớp về khởi sự doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp của Trung tâm xúc tiến DNVVN SME-PC/VCCI với sự trợ giúp của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), các khoá học đào tạo ngắn hạn của Trung tâm hỗ trợ DNVVN thuộc Tổng cục Tiêu chuẩn-Đo lường-Chất lượng(SMEDEC). Mặc dù đó mới chỉ là ban đầu hình thành do nhu cầu cấp thiết của các DNVVN, nhưng nó đã giúp cho việc đào tạo các chủ doanh nghiệp, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp khá tích cực và thiết thực. Hàng nghìn lớp học ngắn hạn và các hội thảo đã được các cơ quan, các tổ chức khác nhau tổ chức cho hàng vạn các lượt chủ doanh nghiệp ở các thành phố lớn và nhiều tỉnh trong cả nước. Tuy nhiên, việc đào tạo, bồi dưỡng cho chủ doanh nghiệp như thế còn chưa được thực hiện đúng mức, còn manh mún, chương trình còn nghèo nàn, nội dung còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu cho loại đối tượng này. Về lao động phổ thông trong các DNVVN: Lao động trong các DNVVN chủ yếu là lao động phổ thông, ít được đào tạo, thiếu kỹ năng, trình độ văn hoá thấp, tình trạng này còn trầm trọng hơn đối với số lao động trong các cơ sở kinh doanh nhỏ. Số liệu điều tra cho thấy chỉ có 5,13% lao động trong khu vực ngoài quốc doanh có trình độ đại học, trong khi đó chủ yếu tập trung vào các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần,74,8% lao động chưa tốt nghiệp phổ thông trung học. 7.Tình hình và khả năng cạnh tranh của các DNVVN về sản phẩm, thị trường. Hạn chế về sản phẩm và chất lượng sản phẩm: Một trong những hạn chế lớn nhất của DNVVN Việt nam là trên con đường đi tìm đầu ra cho sản phẩm của mình, rất nhiều DNVVN vẫn đang duy trì những mặt hàng có giá trị gia tăng thấp, chất lượng không cao và chủ yếu dựa trên lợi thế chi phí nhân công rẻ. Sản phẩm của Việt Nam còn đơn điệu về mẫu mã và chủng loại. Các doanh nghiệp hiện nay chưa tìm được lợi thế so sánh bằng những sản phẩm “độc đáo” riêng, hầu như DNVVN mới đang dừng lại ở chỗ có gì gọi là thế mạnh thì tập trung vào kinh doanh và đem ra chào bán, nếu không thì cũng là sản xuất theo kiểu làm nhái lại các sản phẩm uy tín nước ngoài. Ngay cả trong ngành dệt may, da giày, thủ công mỹ nghệ, cơ khí xuất khẩu…- những lĩnh vực ưu thế của Việt Nam, việc đa dạng chủng loại, mẫu mã vẫn còn nhiều hạn chế. Nhiều doanh nghiệp DNVVN chỉ làm theo catalogue, hoặc là cóp nhặt, nhái kiểu sản phẩm cạnh tranh, kết cục vừa làm mình rơi vào thế bị động, vừa ảnh hưởng xấu đến diễn biến thị trường. Sản phẩm có quá nhiều sự trùng lắp, cả về mẫu mã lẫn chủng loại mặt hàng, dịch vụ giữa các doanh nghiệp nhỏ với nhau, giữa DNVVN với doanh nghiệp lớn, nên thị phần bị thu hẹp và lợi thế cạnh tranh tương đối lại càng mờ nhạt. Đó là nguyên nhân từ hai phía: trước hết, DNVVN yếu kém cả về năng lực sản xuất lẫn công nghệ và kiến thức thương trường và thậm chí chưa thực sự quan tâm đúng mức đến cải tiến sản phẩm; sau đến, Nhà nước thiếu một cơ chế kích thích tốt, đặc biệt là các chính sách hỗ trợ về ngành nghề và thị trường đối với loại hình doanh nghiệp này. Hơn nữa, trong xuất khẩu, phần lớn các doanh nghiệp đang sản xuất các loại sản phẩm có mức lợi nhuận thấp, dễ gia nhập thị trường. Sản phẩm dưới dạng thô, sơ chế vẫn chiếm tỷ lệ cao (70%) trong khi lao động ở các DNVVN nói chung dư thừa rất nhiều. Về lâu dài không chỉ các nguồn tài nguyên bị cạn kiệt mà cả lợi ích do giá cả thấp cũng thuộc về khách hàng nước nhập khẩu. Trong mấy năm gần đây, việc đầu tư vào ngành công nghiệp chế biến cũng như vào mặt hàng xuất khẩu giá trị gia tăng cao đã có những cố gắng đáng kể, nhưng kết quả vẫn chưa tương xứng. ở đây lại xuất hiện một nghịch lý là, nếu sản xuất và xuất khẩu hàng thô thì vốn ít, dễ tìm thị trường, nhưng giá trị thấp. Còn nếu đầu tư vào hàng chế biến thì cần vốn lớn và khó tìm thị trường, mà vốn và thị trường là hai khó khăn lớn hạn chế hoạt động của các DNVVN hiện nay. Thực tế là nhiều sản phẩm xuất khẩu thô thì lãi nhưng chế biến sâu khi bán ra lại lỗ. Chất lượng sản phẩm của Việt Nam còn kém, lại không ổn định, rất khó cạnh tranh với hàng nước ngoài ngay trên thị trường nội địa chứ không nói đến thị trường nước ngoài. Nhiều mặt hàng tiêu dùng của Việt Nam luôn đứng ở thế yếu trước hàng nhập khẩu tiểu ngạch, chất lượng trung bình từ Trung Quốc, Thái Lan… ngay tại thị trường nội địa bởi chất lượng, giá cả, mẫu mã. Điều đáng lo ngại đối với DNVVN Việt Nam là nhiều hàng nước ngoài tại thị trường Việt Nam và trên thị trường quốc tế liên tục thay đổi mẫu mã và giảm giá mà chất lượng không giảm. Vô hình chung, doanh nghiệp Việt Nam tự rơi vào "cái bẫy của chí phí lao động thấp": bị qui luật cạnh tranh dồn ép vào những ngành có lợi nhuận cận biên thấp và bị cạnh tranh gay gắt về chi phí. Qua điều tra trên 146 doanh nghiệp, các chuyên gia Viện chiến lược phát triển và Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc đã rút ra nhận xét: "Trong phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam, người ta chưa thấy rõ những nỗ lực hướng tới nâng cao hiệu quả hoạt động và chất lượng sản phẩm. Nhiều doanh nghiệp dường như phó mặc hoặc ít quan tâm tới việc cải thiện không ngừng hoạt động của mình, điều tất yếu để có thể đạt được chuẩn mực quốc tế. Các công ty xuất khẩu Việt Nam thường có ít hoặc không có nhãn hiệu quốc tế riêng, thường phải dựa nhiều vào khách hàng và các đối tác chính để có đầu vào thiết kế, quy trình công nghệ, tiếp thị và phân phối. Nhiều doanh nghiệp coi Chính phủ như một tác nhân quan trọng đến kết quả kinh doanh của họ và nỗ lực tìm kiếm càng nhiều ưu tiên, hạn ngạch, trợ cấp và bảo hộ càng tốt"( Trích “Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt nam”, NXB Chính trị quốc gia 6/1999.) Tiếp đó là về vấn đề thương hiệu sản phẩm, có thể thấy hiện đây đang là một vấn đề nhận được nhiều sự lưu tâm nhất hiện nay. Các DNVVN Việt nam hiện nay chưa tạo được một thương hiệu riêng cho mình- và cũng phải thừa nhận đó là một vấn để chẳng dễ dàng gì. Điển hình là sản phẩm gốm sứ Bát tràng, người ta biết đến Bát tràng là nơi sản xuất uy tín về gốm sứ, đến Bát tràng người ta có thể thấy nhan nhản các cửa hàng cửa hiệu với tên rất rõ ràng với địa chỉ và số điện thoại liên hệ, nhưng vấn đề là ở chỗ, không có tên, không có biểu tượng-tức là không có thương hiệu sản phẩm gốm sứ bát tràng để phân biệt với các sản phẩm gốm sứ khác trong khi gốm sứ Bát tràng hiện nay lại được xuất khẩu với số lượng rất lớn sang Nhật bản và Châu Âu. Để giải quyết vấn đề thương hiệu của mình, một trong những giải pháp đưa ra là các DNVVN có thể sử dụng thương hiệu của các doanh nghiệp lớn cho đến khi có thương hiệu riêng, nhất là trong hoạt động xuất khẩu, các DNVVN cũng có thể hợp tác với các doanh nghiệp lớn nhằm sử dụng các thương hiệu của các doanh nghiệp đó. Thêm nữa, các DNVVN có thể mua lại các thương hiệu của các doanh nghiệp lớn bằng giao dịch nhượng quyền thương hiệu. Nếu DNVVN xây dựng thương hiệu của chính mình thì nên xây dựng thương hiệu ở cấp công ty thay vì xây dựng thương hiệu sản phẩm vì như vậy quá tốn kém. Theo nghiên cứu của các chuyên gia thì để phát triển một thương hiệu thì chi phí đầu tư không nhỏ và cần ít nhất vài năm để xây dựng thương hiệu quốc gia, cần khoảng 10 năm để xây dựng thương hiệu quốc tế, điều này là rất khó khăn với các DNVVN Việt nam với đa phần quy m

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxdfghj.doc
Tài liệu liên quan