Khóa luận Thực trạng và triển vọng phát triển nhượng quyền phương thức kinh doanh tại Việt Nam

MỤC LỤC

 

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 5

1. Lịch sử hình thành và phát triển của nhượng quyền thương mại trên thế giới 5

2. Khái niệm nhượng quyền thương mại 8

2.1. Nhượng quyền thương mại là gì 8

2.2. Các yếu tố cấu thành nên mô hình nhượng quyền thương mại 10

2.3. Nhượng quyền phương thức kinh doanh 12

2.4. Hợp đồng nhượng quyền thương mại 13

3. Lợi ích và rủi ro của nhượng quyền thương mại 17

3.1. Lợi ích của nhượng quyền thương mại 17

3.1.1. Đối với bên nhượng quyền 17

3.1.2. Đối với bên nhận quyền 19

3.1.3. Đối với nền kinh tế - xã hội 20

3.2. Rủi ro của nhượng quyền thương mại 21

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN PHƯƠNG THỨC KINH DOANH TẠI VIỆT NAM 25

1. Khuôn khổ pháp lý quản lý hoạt động nhượng quyền thương mại 25

1.1. Các quy định pháp luật về nhượng quyền thương mại 25

1.2. Thực trạng áp dụng luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại 26

2. Hoạt động nhượng quyền phương thức kinh doanh tại Việt Nam 28

2.1. Các hệ thống nhượng quyền phương thức kinh doanh mang thương hiệu Việt Nam 29

2.2. Các hệ thống nhượng quyền phương thức kinh doanh mang thương hiệu nước ngoài 34

3. Đánh giá về thực trạng phát triển hoạt động nhượng quyền phương thức kinh doanh tại Việt Nam: 40

3.1. Những kết quả đạt được: 40

3.2. Những tồn tại và nguyên nhân: 41

CHƯƠNG III: TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN NHƯỢNG QUYỀN PHƯƠNG THỨC KINH DOANH TẠI VIỆT NAM 43

1. Phân tích dựa trên mô hình năm lực lượng của Porter (Porter’s five forces) 43

1.1. Đối với nhà nhận quyền Việt Nam tiềm năng 43

1.2. Đối với nhà nhượng quyền nước ngoài 47

2. Đánh giá triển vọng nhượng quyền phương thức kinh doanh tại Việt Nam 50

KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT 54

1. Về phía Nhà nước 55

2. Về phía doanh nghiệp 56

2.1. Đối với doanh nghiệp nhượng quyền 56

2.2. Đối với bên nhận quyền tiềm năng 58

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 60

 

 

doc66 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2528 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và triển vọng phát triển nhượng quyền phương thức kinh doanh tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
yền thương mại. Chỉ gồm 8 điều trong tổng số 324 điều luật của Luật Thương mại nhưng những quy định về nhượng quyền thương mại cũng giúp các nhà quản lý và doanh nghiệp Việt Nam bước đầu có những khái niệm cụ thể về hoạt động này. Và nhượng quyền thương mại chính thức xuất hiện như một loại hình kinh doanh độc lập và mới mẻ, chứ không chỉ xuất hiện trong các quy định nhằm tháo gỡ tạm thời những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện chuyển giao công nghệ. Như vậy từ năm 2006, hoạt động nhượng quyền thương mại chịu sự điều chỉnh chính thức của Luật Thương mại. Những quy định về nhượng quyền thương mại tại đây sau đó đã được cụ thể hóa trong các thông tư nghị định sau: Nghị định số 35/2006/NĐ-CP do chính phủ ban hành ngày 31/03/2006: Với 3 chương, 28 điều, mục tiêu của Nghị định này nhằm giải quyết những vấn đề cụ thể sau: quy định chi tiết Luật Thương mại về điều kiện kinh doanh và trình tự, thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại, hướng dẫn về việc cung cấp thông tin trong hoạt động nhượng quyền thương mại, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên nhượng quyền, bên nhận quyền và người tiêu dùng. Thông tư 09/2006/TT-BTM do Bộ Thương mại ban hành ngày 25/5/2006 để hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại. Thông tư này quy định cụ thể thủ tục tiến hành đăng ký hoạt động nhượng quyền và trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiếp nhận đăng ký, thương nhân thực hiện đăng ký nhượng quyền. Thực trạng áp dụng luật điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại Công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động nhượng quyền thương mại trước khi Luật Thương mại 2005 có hiệu lực chủ yếu là do Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Cục Sở hữu Công nghiệp Việt Nam đảm trách vì khi đó nhượng quyền thương mại được coi là hoạt động chuyển giao công nghệ hoặc chuyển nhượng quyền sử dụng thương hiệu dưới dạng cấp phép sử dụng nhãn hiệu hàng hoá (theo hợp đồng li-xăng). Ngoài ra, nếu cơ sở kinh doanh nhượng quyền được thành lập dưới hình thức công ty liên doanh thì cơ sở đó sẽ phải xin giấy phép đầu tư của Bộ Kế hoạch và Đầu tư với những thủ tục hành chính rườm rà gây rất nhiều khó khăn cho chủ đầu tư. Kể từ khi Luật Thương mại năm 2005 và Nghị định 35/2006/NĐ-CP ra đời với những quy định chi tiết về hoạt động nhượng quyền thương mại thì Bộ Thương mại sẽ là đơn vị “chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước đối với các hoạt động nhượng quyền thương mại”. Tuy nhiên, cũng theo Luật Thương mại và Nghị định 35/2006/NĐ-CP: “trong trường hợp Bên nhượng quyền chuyển giao cho bên nhận quyền sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp” và “sở hữu trí tuệ” thì “phần chuyển giao sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp”, “sở hữu trí tuệ” trong hợp đồng nhượng quyền thương mại phải chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ”. Như vậy, đối với các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia hoạt động nhượng quyền thương mại với các đối tượng sở hữu công nghiệp và sở hữu trí tuệ sẽ đồng thời phải chịu sự quản lý của Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Cục Sở hữu Công nghiệp và Bộ Thương mại. Theo tinh thần của Nghị định 35/2006/NĐ-CP và Thông tư 09/2006/TT-BTM, Bộ Thương mại và các Sở Thương mại các tỉnh, thành phố là cơ quan tiếp nhận đăng kí và quản lý hoạt động nhượng quyền thương mại. Mẫu hồ sơ đề nghị đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại trên địa bàn gồm đơn xin đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại, bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại, bản sao có công chứng giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy tờ có giá trị tương đương, bản sao có công chứng văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp trong chuyển giao quyển sử dụng các đối tượng sở hữu công nghiệp đã được cấp văn bằng bảo hộ. Ngoài việc bước đầu xây dựng khuôn khổ pháp lý điều chỉnh hoạt động như đã phân tích ở trên, cho đến nay Chính phủ chưa có các chính sách cụ thể nhằm khuyến khích, hỗ trợ cho hoạt động nhượng quyền thương mại khiến hoạt động này phát triển chưa thật tương xứng với tiềm năng sẵn có. Tóm lại, trước khi có Luật Thương mại 2005, quản lý Nhà nước về hoạt động nhượng quyền thương mại còn thiếu và chưa đồng bộ, chưa có khuôn khổ pháp lý cụ thể điều chỉnh hoạt động này khiến các doanh nghiệp nhượng quyền hoạt động trong tình trạng vừa làm vừa học hỏi và nảy sinh rất nhiều vướng mắc trong quá trình thực hiện. Thêm vào đó, việc không có các cơ chế chính sách hỗ trợ, khuyến khích đối với hoạt động này khiến hoạt động này phát triển chưa thật mạnh mẽ và cũng chưa thật sự có hiệu quả. Khi Luật Thương mại 2005 ra đời, mặc dù tuy chưa đầy đủ, cụ thể và chi tiết được như quy định ở những nước phát triển khác, những quy định ban đầu về nhượng quyền thương mại cũng đã đặt nền tảng cho việc quản lý hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam từ nay về sau. Hoạt động nhượng quyền phương thức kinh doanh tại Việt Nam Hình thức kinh doanh nhượng quyền đã có mặt tại Việt Nam từ trước những năm 1975 thông qua một số hệ thống nhượng quyền các trạm xăng dầu như Mobil, Exxon (Esso) (Mỹ), Shell (Hà Lan)(nhượng quyền phân phối sản phẩm). Đến đầu những năm 90 của thế kỉ 20, nhượng quyền thương mại bắt đầu hình thành khi có một vài doanh nghiệp kinh doanh thiết bị lọc nước do Việt kiều đầu tư đã đưa ra phương thức nhượng quyền thương mại, nhưng thị trường lúc bấy giờ chưa thực sự sôi động và bản thân thương hiệu của các doanh nghiệp đó cũng chưa mấy nổi tiếng nên đã không thành công. Đến giữa những năm 1990, các hệ thống nhượng quyền thương mại hiện đại- nhượng quyền phương thức kinh doanh mới xuất hiện tại Việt Nam với số lượng nhỏ, người nhận quyền chủ yếu là các công ty có trụ sở tại nước ngoài và hoạt động nhượng quyền cũng chỉ bó hẹp trong phạm vi của lĩnh vực thức ăn nhanh (fastfood). Bên cạnh đó, vào thời điểm này hoạt động nhượng quyền (vào Việt Nam với vai trò là một hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài) bị hạn chế bởi cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ trong khu vực. Những số liệu ghi nhận được về thị trường nhượng quyền thương mại vào thời điểm này rất khiêm tốn. Tổng doanh thu của hoạt động nhượng quyền năm 1996 đạt khoảng 1,5 triệu đô la và năm 1998 vào khoảng hơn 4 triệu đô la. Doanh số bán hàng hàng năm của các cửa hàng trung bình đạt 300.000 đô la, trong đó lượng hàng hóa dịch vụ phục vụ cho người Việt chiếm khoảng 70% và 30% cho người nước ngoài. Trần Ngọc Sơn. Nhượng quyền kinh doanh ở Việt Nam. Văn phòng luật sư Phạm và Liên danh (Pham and Associates), Hà Nội Từ đó cho tới nay hoạt động nhượng quyền thương mại ở Việt Nam phát triển tương đối nhanh, với tốc độ ước tính là 15 - 20%/năm. Theo điều tra của Hội đồng Nhượng quyền thương mại thế giới (WFC): năm 2004, Việt Nam có khoảng 70 hệ thống nhượng quyền thương mại chủ yếu hoạt động dưới hình thức nhượng quyền phương thức kinh doanh. Đa số là các thương hiệu nước ngoài như Dilmah, Swatch, Qualitea, KFC, Lotteria,… số doanh nghiệp mang thương hiệu Việt Nam chỉ chiếm số ít như Trung Nguyên, Phở 24, bánh ngọt Kinh Đô,… Hiện nay, theo thống kê của Câu lạc bộ Nhượng quyền thương mại Việt Nam, gần 100 thương hiệu quốc tế đang hoạt động tại Việt Nam theo hình thức nhượng quyền, trong đó chiếm ưu thế là các thương hiệu đến từ Mỹ. Hầu hết các hệ thống bán thức ăn nhanh trước khi vào Việt Nam đều là những nhà kinh doanh đã thành công ở một số nước châu Á như Nhật Bản, Indonesia, Đài Loan, Trung Quốc, Hàn Quốc, Phillipines, Thái Lan. Mặc dù các cơ sở kinh doanh áp dụng nhượng quyền thương mại của Việt Nam có quy mô nhỏ nhưng khi các cửa hàng nhượng quyền bán kem, bán thức ăn nhanh nhượng quyền của các công ty nước ngoài xuất hiện thì các công ty Việt Nam cũng xuất hiện trong vai trò là một mắt xích của hệ thống nhượng quyền đó, như tham gia vào quá trình cung cấp nguyên vật liệu cho chế biến. Sau đây chúng ta sẽ xem xét một số hệ thống nhượng quyền thương mại điển hình ở Việt Nam. Các hệ thống nhượng quyền phương thức kinh doanh mang thương hiệu Việt Nam Mặc dù hiện nay số lượng các hệ thống nhượng quyền phương thức kinh doanh mang thương hiệu Việt Nam còn rất nhỏ bé nhưng sự phát triển của các thương hiệu Việt như Trung Nguyên, Phở 24, bánh ngọt Kinh Đô,.. cũng phần nào cho thấy tiềm năng to lớn về nhượng quyền thương mại của các doanh nghiệp Việt Nam. Hai hệ thống nhượng quyền nổi bật là Trung Nguyên và Phở 24 sẽ được phân tích sau đây. Trung Nguyên xuất phát là một nhãn hiệu cà phê non trẻ khởi nghiệp ở Buôn Mê Thuột vào tháng 6 năm 1996, chủ yếu sản xuất và kinh doanh trà, cà phê. Năm 1998, Trung Nguyên trở thành một hiện tượng trong giới kinh doanh khi khai trương chuỗi cửa hàng trên khắp thành phố Hồ Chí Minh thông qua phương thức nhượng quyền thương mại. Con số 100 quán cà phê và khẩu hiệu “Mang lại nguồn cảm hứng sáng tạo mới” thực sự đã gây ra một cơn sốt trên các phương tiện thông tin đại chúng. Năm 2000, thương hiệu này bắt đầu tiến hành nhượng quyền ra khu vực phía Bắc, đánh dấu bằng sự xuất hiện tại Hà Nội và lần đầu tiên tiến hành nhượng quyền thương hiệu đến Nhật Bản. Năm tiếp theo, hoạt động nhượng quyền phát triển ra khắp toàn quốc và điểm đến ngoài biên giới tiếp theo là Singapore, Campuchia, Thái Lan. Thương hiệu G7 ra đời vào năm 2003 hướng vào xuất khẩu đến các quốc gia phát triển và hệ thống phân phối G7Mart lớn nhất Việt Nam xây dựng năm 2006, được đánh giá là bước đột phá trong việc thực hiện nhượng quyền thương mại khi cạnh tranh với các nhà phân phối nước ngoài nhằm chiếm lĩnh thị trường bán lẻ trong nước. Hiện nay Trung Nguyên đã có một mạng lưới gần 1000 quán cà phê nhượng quyền trên cả nước và 8 quán ở nước ngoài như: Mỹ, Nhật, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Ba Lan, Ukraina. Bên cạnh đó, Trung Nguyên cũng đã xây dựng được một hệ thống hơn 1000 cửa hàng tiện lợi và trung tâm phân phối G7Mart trên toàn quốc. www.trungnguyen.com.vn. Biểu 2: Sự tăng trưởng của hệ thống cửa hàng nhượng quyền thương hiệu Trung Nguyên (1998-2005) Nguồn: Tập đoàn Trung Nguyên. Theo hợp đồng được kí kết thì các cơ sở của Trung Nguyên phải tuân thủ các quy định về cách thức pha chế cà phê và trà, phục vụ nhạc và được Trung Nguyên tư vấn về cách trang trí thiết kế cũng như điều hành quán. Bên cạnh phí nhượng quyền, bên nhận quyền còn phải trả cho Trung Nguyên phí hoạt động hàng tháng dựa theo tỷ lệ doanh thu. Đổi lại, bên nhận quyền sẽ được khai thác lợi ích trên uy tín và thương hiệu của Trung Nguyên trên cơ sở tiếp nhận các hỗ trợ tư vấn về quản lý kinh doanh theo mô hình Trung Nguyên đã xây dựng. Tuy Trung Nguyên có quy định như vậy, nhưng vấn đề quản lý sử dụng thương hiệu Trung Nguyên hiện nay khá lỏng lẻo, khi có khá nhiều các cửa hàng cà phê mang thương hiệu này mà cách thức pha chế, chất lượng cà phê và giá tiền rất khác nhau, thậm chí là không hề kí hợp đồng nhượng quyền với Trung Nguyên. Đây là một rủi ro riêng đối với thương hiệu này, vì là doanh nghiệp đi đầu, còn thiếu nhiều kinh nghiệm trong quản lý nhượng quyền và phương thức kinh doanh lại đơn giản, dễ sao chép. Trong số ít các doanh nghiệp mang thương hiệu Việt thành công trong lĩnh vực nhượng quyền, Phở 24 nổi lên là một mô hình thành công và hiệu quả, được chứng minh bằng tốc độ phát triển và chiến lược hoạt động được thực hiện triệt để. Tháng 6/2003, Phở 24 được thành lập và mở cửa hàng đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh, nhưng phải hơn 1 năm sau, vào tháng 1/2005, Phở 24 mới tiến hành nhượng quyền thương mại và mở cửa hàng nhượng quyền đầu tiên tại thành phố Hồ Chí Minh, tiếp theo đó là hàng loạt các cửa hàng nhượng quyền tại các thành phố lớn như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng,… Tháng 7/2005, Phở 24 lần đầu tiên tiến hành nhượng quyền ra nước ngoài, và mở cửa hàng nhượng quyền tại thủ đô Jakarta của Indonesia, đến nay số lượng này đã lên đến 5 cửa hàng. Đến tháng 7/2006, Phở 24 lại mở một cửa hàng nhượng quyền nữa ở thủ đô Manila của Philippin và sau đó là quá trình phát triển không ngừng của hoạt động nhượng quyền tới Campuchia, Mỹ, Hàn Quốc, Australia. Tháng 9 năm 2006, Vinacapital đã mua 30% cổ phần của Phở 24 để nhân rộng mô hình kinh doanh này trong 2 năm bao gồm thiết lập hệ thống bếp trung tâm, nhà máy sản xuất bánh phở, gia vị phở và mở thêm các nhà hàng tại Việt Nam và nước ngoài đã phần nào chứng minh khả năng phát triển của mô hình kinh doanh của Phở 24. Cho đến nay, Phở 24 đã có tổng cộng 70 cơ sở trong và ngoài nước với 1.500 lao động. www.pho24.com.vn. Đây là chuỗi quán phở cao cấp và đang trên đà phát triển của Việt Nam nhờ chất lượng sản phẩm và mô hình kinh doanh đặc thù, dễ nhân rộng. Chiến lược lâu dài của công ty là sẽ tiếp tục nhân rộng mô hình quán phở tại Việt Nam và nước ngoài thông qua hình thức nhượng quyền thứ cấp thay vì nhượng quyền phát triển vùng như hiện nay. Trong hai năm đầu, một đặc điểm dễ thấy ở những quán phở đầu tiên của Phở 24 là tính đồng bộ. Thật vậy, chủ trương của doanh nghiệp này trong 2 năm 2005-2007 là tập trung mạnh vào xây dựng tính đồng bộ xuyên suốt tất cả các khâu của hoạt động kinh doanh phở với mục đích tạo nền tảng vững mạnh cho chiến lược nhượng quyền thương mại dài hạn sau này. Nói khác đi, Phở 24 chọn hướng đi tập trung vào chất lượng và chiều sâu của mô hình kinh doanh nói chung và mô hình nhượng quyền thương mại nói riêng trước khi phát triển theo chiều rộng. Những năm tiếp theo Phở 24 liên tục củng cố tính ổn định và đồng bộ của chuỗi quán phở, đặc biệt đối với chất lượng món ăn, chất lượng dịch vụ, trang trí nội thất, đồng phục nhân viên, bảng hiệu và hầu như tất cả các dụng cụ và trang thiết bị dù thật nhỏ trong quán, cũng như hình thành một văn hoá chung xuyên suốt các tầng lớp của công ty (văn phòng trung tâm, cửa hàng của công ty, cửa hàng nhượng quyền), coi đó là chiến lược hàng đầu trong việc xây dựng thương hiệu. Các khâu về tổ chức, đào tạo, huấn luyện cũng được chuẩn bị từng bước để có thể chuyển giao và hỗ trợ đắc lực cho đối tác nhận quyền.Các chương trình hỗ trợ trước khi khai trương quán nhượng quyền mà Phở 24 dành cho đối tác nhượng quyền bao gồm: tư vấn lựa chọn địa điểm mở quán, giúp đỡ đối tác thiết kế, bài trí cửa hàng nhượng quyền, huấn luyện đào tạo nhân viên, cung cấp danh sách các thiết bị, nguồn cung cấp cần thiết cho việc kinh doanh, giúp đỡ đối tác xây dựng các hoạt động marketing, xúc tiến hỗn hợp liên quan đến lễ khai trương. Để được cấp quyền sử dụng thương hiệu và phương thức vận hành một quán Phở 24 với những tiêu chuẩn đồng bộ, đối tác nhận quyền phải trả cho chủ thương hiệu Phở 24 một khoản phí ban đầu (trả một lần duy nhất khi ký kết hợp đồng) là 10.000 đô la cộng thêm một khoản phí hàng tháng. Phí này là chi phí sử dụng thương hiệu, nhãn hiệu và những dịch vụ hỗ trợ khác như khuyến mãi, quảng bá, tiếp thị, đào tạo, tư vấn, nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới,… từ phía chủ thương hiệu Phở 24 trong suốt quá trình 5 năm của hợp đồng nhượng quyền thương mại. Có thể thấy, do đặt trọng tâm phát triển chiều sâu trước nên Phở 24 phải chấp nhận tốc độ nhân rộng mô hình kinh doanh chậm hơn nhiều so với nhu cầu thị trường và điều này cũng tạo ra một rủi ro cho chủ thương hiệu: đó là rủi ro bị các đối thủ cạnh tranh sao chép mô hình kinh doanh. Để đối phó, chủ thương hiệu Phở 24 chỉ còn cách đánh bóng và xây dựng thương hiệu mình thật vững mạnh vì chỉ có thương hiệu là không thể sao chép được. Mạng lưới tiếp thị và quảng cáo phủ sóng cả nước cũng là một thế mạnh mà các đối thủ cạnh tranh mới không thể có được. Bên cạnh đó, lực lượng quản lý nòng cốt được xây dựng dựa trên tính toán tầm vóc công ty muốn phấn đấu ít nhất từ 2 -3 năm sau để đảm bảo cho tương lai phát triển của hoạt động nhượng quyền. Tuy nhiên, thách thức lớn nhất mà Phở 24 gặp phải trong quá trình nhượng quyền không nằm ở chỗ đội ngũ nhân viên, trang thiết bị đồng bộ hay nguy cơ cạnh tranh cao mà ở chính đối tác nhận quyền – người chủ điều hành quán phở nhượng quyền. Thật vậy, cho dù mọi thứ trong quán phở nhượng quyền đều tuân thủ các tiêu chuẩn của Phở 24 nhưng nếu chủ quán không quan tâm hay thiếu kinh nghiệm vì chỉ là một nhà đầu tư đơn thuần thì khó có thể đưa ra những quyết định đúng đắn (ví dụ như nếu chủ quán chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực kinh doanh nhà hàng) và như thế mô hình kinh doanh nhượng quyền sẽ không đạt hiệu quả tối ưu, ảnh hưởng không ít đến hình ảnh chung của thương hiệu. Ngược lại, nếu có nhiều kinh nghiệm trong lĩnh vực nhà hàng thì lại dễ có xu hướng tự làm theo cách của mình dẫn đến ảnh hưởng tới tính đồng bộ của cả hệ thống. Đào tạo nhân viên hay cán bộ quản lý không khó nhưng đào tạo và hướng dẫn chủ quán phở nhượng quyền mới thật sự là một khó khăn lớn vì họ vừa là chủ đầu tư vừa là đối tác và thường là không có nhiều thời gian như nhân viên. Và đối với ngành kinh doanh ẩm thực, chủ quán đóng vai trò vô cùng quan trọng. Do đó, việc nghiên cứ hồ sơ, phỏng vấn để chọn đối tác nhận quyền được chủ thương hiệu Phở 24 đặt lên hàng đầu. Các hệ thống nhượng quyền phương thức kinh doanh mang thương hiệu nước ngoài Từ giữa những năm 1990, các thương hiệu nổi tiếng nước ngoài đã có mặt tại thị trường Việt Nam thông qua phương thức nhượng quyền thương mại, trong đó chủ yếu là các thương hiệu trong lĩnh vực nhà hàng, thức ăn nhanh và nước uống. Như đã phân tích ở trên, các công ty Mỹ chiếm lĩnh thị trường nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, mặc dù vào giữa những năm 90 thì chỉ có các hãng như: Carvel Ice Cream, Baskin Robbin, Texas Chicken và Five Star Chicken. Carvel Ice Cream tham gia thị trường vào giữa năm 1996. Carvel nhập khẩu hầu hết các loại kem ở dạng đông lạnh trong các thùng lớn sau đó chế biến lại tại Việt Nam. Giá của kem Carvel tương đối cạnh tranh ở Việt Nam nhưng lại cao hơn so với ở Mỹ. Baskin Robbin xuất hiện tại thị trường Việt Nam cũng vào năm 1996 với sự khởi đầu là 5 cửa hiệu trong đó có 2 cửa hiệu tại Hà Nội và 3 cửa hàng tại thành phố Hồ Chí Minh. Cả Carvel lẫn Baskin Robbin đều phải nhập khẩu hàng hoá, nguyên vật liệu từ nước ngoài để duy trì những tiêu chuẩn chất lượng cao và nắm giữ bí mật thông tin về công thức chế biến. Texas Chicken là một nhãn hiệu thuê của công ty Mỹ – American Favorite Chicken với sản phẩm là gà rán. Cửa hiệu đầu tiên hoạt động tại thành phố Hồ Chí Minh năm 1996 và đến nay đã phát triển thêm 10 cửa hiệu nữa trên khắp cả nước. Five Star Chicken là một liên doanh với Advance Pharma Company Limited trong hệ thống tập đoàn CP Group của Thái Lan, ngay từ năm 1996 đã có hai nhà hàng tại Thành phố Hồ Chí Minh. Để phục vụ kinh doanh, nhà hàng phải nhập khẩu khoai tây từ nước ngoài, tuy nhiên các vật liệu khác thì có thể được cung cấp từ trong nước. Tại thời điểm này, ngoài Mỹ, một số thương hiệu từ các quốc gia khác cũng bắt đầu xuất hiện tại Việt Nam. Jollibee, cơ sở kinh doanh thức ăn nhanh của Philippines do công ty Tân Việt Hương ở thành phố Hồ Chí Minh nhận quyền, khai trương cửa hiệu đầu tiên vào khoảng tháng 10/1996 tại Sài Gòn Supper Bowl, chủ cấp phép là từ phía Australia – Donut King. Jollibee hiện đã phát triển thêm nhiều chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh và một số thành phố lớn khác trong cả nước. Gà do CP Group của Thái Lan cung cấp, còn thịt bò do công ty Vissan cung cấp. Mặc dù tình hình kinh doanh và đầu tư tại Việt Nam vào những năm cuối thập niên 90 ở trong tình trạng trì trệ kéo dài nhưng một số công ty lớn hàng đầu của Mỹ trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại cũng đã tìm cách thâm nhập thị trường. KFC (Kentucky Fried Chicken) là một trong số các thương hiệu nước ngoài được nhượng quyền thương mại vào Việt Nam từ năm 1998, hoạt động trong lĩnh vực thức ăn nhanh tương đối thành công. Đây là thương hiệu của tập đoàn Yum! Brands đến từ Mỹ, với sản phẩm là gà rán. Năm 2005, thương hiệu này mới chỉ có 12 cửa hàng thì cuối năm 2006 đã tăng lên hơn 20 cửa hàng trong đó 19 cửa hàng ở thành phố Hồ Chí Minh và 2 cửa hàng ở Hà Nội. Hiện nay, thương hiệu này đã có 65 cửa hàng tại hầu hết các thành phố lớn trên cả nước và đặt mục tiêu lên tới 100 cửa hàng vào năm 2010. www.kfcvietnam.com.vn. Dù xuất hiện tại Việt Nam sau KFC nhưng Lotteria cũng chứng tỏ tiềm năng tiêu thụ của thị trường này bằng những con số tăng trưởng đáng kể. Lotteria là thương hiệu thức ăn nhanh của Hàn Quốc mà chủ thương hiệu là một công ty của Nhật. Công ty này thực hiện việc nhượng quyền sang Việt Nam thông qua một công ty nhượng quyền thứ cấp – là công ty ở Hàn Quốc và đến tháng 12 năm 2005 đã mở được 9 cửa hàng tại Việt Nam. Hiện nay con số này đã đạt tới 52 cửa hàng, phân bố tại 7 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Biên Hòa, Phan Thiết, Vũng Tàu, Sài Gòn với 36 cửa hàng tại thành phố Hồ Chí Minh và 7 cửa hàng tại Hà Nội. www.lotteria.vn. Hoạt động nhượng quyền trong lĩnh vực nhà hàng ăn uống còn chứng kiến sự đổ bộ của rất nhiều thương hiệu lớn như Dilmah, Qualitea (Srilanka), Subway, Pizza Hut (cùng tập đoàn Yum! Brands với KFC), Gloria Jeans,.. Tháng 5/2006, Subway – tập đoàn thức ăn nhanh dẫn đầu danh sách 500 thương hiệu nhượng quyền thế giới năm 2006 do tạp chí Entrepreneur bình chọn - đã xuất hiện lần đầu ở thành phố Hồ Chí Minh với một cửa hàng ở trung tâm thành phố. Gloria Jean’s Coffees, tập đoàn toàn cầu có trụ sở tại Australia, là hệ thống nhượng quyền lớn nhất thế giới với 800 cơ sở nhượng quyền tại 30 quốc gia.Gloria Jean’s xâm nhập vào thị trường Việt Nam từ tháng 1 năm 2007, theo hợp đồng nhượng quyền với công ty Phong cách sống Việt (Viet Lifestyle). Tháng 4 năm 2007, tập đoàn này tiếp tục khai trương cửa hàng nhượng quyền đầu tiên tại Hà Nội. Đáng chú ý là Gloria Việt Nam sẽ trở thành nhà nhượng quyền thứ cấp cho thương hiệu này để mở rộng hoạt động bằng mô hình nhượng quyền thương mại tại thị trường Việt Nam, dự định đạt 20 cửa hàng vào năm 2009. Nguyễn Khánh Trung (2007). Nhượng quyền thương mại tại Việt Nam - giải pháp nào cho sự phát triển bền vững. Thời báo kinh tế Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh Đến những năm đầu thế kỉ 21, hoạt động nhượng quyền phương thức kinh doanh tại Việt Nam không chỉ bó hẹp trong lĩnh vực nhà hàng ăn uống mà còn mở rộng ra nhiều lĩnh vực khác. Điển hình là sự góp mặt của những thương hiệu lớn trong lĩnh vực phân phối bán lẻ như Metro Cash and Carry (Đức), Bourbon Group (Pháp), Parkson (Malaysia), Dairy Farm/ Seven-Eleven (Mỹ). Metro Cash and Carry khai trương hoạt động của trung tâm Metro đầu tiên tại quận 6, thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 3 năm 2002, đem lại một loại hình bán sỉ mới, là “siêu thị của nhà phân phối”. Hiện nay, tập đoàn này đã có 8 trung tâm phân phối tại các Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và Cần Thơ và sắp sửa mở trung tâm thứ 9 tại Biên Hòa. www.metro.com.vn. Ngành hàng tiêu dùng cũng chứng kiến sự thử nghiệm các mô hình nhượng quyền thương hiệu của đồng hồ Swatch (Thuỵ Sĩ), mỹ phẩm Clinique, thời trang Pierre Cardin (Pháp), chuỗi cửa hàng ảnh Mini Lab của Fuji (Nhật), hệ thống cửa hàng mực in Cartridge (Australia), thiết bị chăm sóc sức khoẻ OSIM (Singapore)… Hoạt động nhượng quyền ở Việt Nam cũng xuất hiện cả ở các lĩnh vực giáo dục và đào tạo như tập đoàn APTECH và Thames Business School. Là tập đoàn đào tạo công nghệ thông tin của ấn Độ, APTECH hiện đang hoạt động tại hơn 50 quốc gia với khoảng 2.500 trung tâm đào tạo dưới hình thức nhượng quyền thương mại. APTECH thực hiện việc nhượng quyền thương mại cho công ty FPT của Việt Nam vào năm 1999 với phí chuyển nhượng vào khoảng 10.000 đô la để thành lập Trung tâm Đào tạo lập trình viên quốc tế FPT – APTECH. Công ty FPT đóng vai trò là đại lý nhượng quyền độc quyền (master franchisee) tại Việt Nam. Cho đến nay FPT - APTECH đã có khoảng 15 trung tâm đào tạo tại nhiều thành phố lớn trong cả nước như Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng,… với gần 7.000 lượt học viên. Theo hợp đồng nhượng quyền thương mại được ký kết, phía APTECH sẽ cung cấp kiến thức về việc thành lập trung tâm, hỗ trợ tuyển dụng nhân sự, kế hoạch marketing, phương pháp giảng dạy, giáo trình, giáo án, số lượng và thời lượng môn học, quá trình quản lý chất lượng giáo viên, học viên, sát hạch, cấp chứng chỉ đầu ra, chuyển giao quy trình chất lượng ISO 9001 và phần mềm ECAS toàn diện,… Công ty FPT chịu trách nhiệm tổ chức điều hành trung tâm theo đúng quy trình do APTECH đặt ra như cam kết, diện tích trung tâm khoảng 300 – 400 m2, cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc mở rộng trung tâm, phải có giấy phép hoạt động, xây dựng đội ngũ giáo viên theo tiêu chuẩn của APTECH (việc kiểm tra chất lượng giáo viên do APTECH tiến hành), thực hiện các nghĩa vụ tài chính với APTECH. Phí nhượng quyền ban đầu khoảng 10.000 đô la, phí định kỳ khoảng 10% doanh thu hàng tháng. Chương trình đào tạo của tất cả các trung tâm được xây dựng trên cở sở khảo sát nhu cầu của 600 công ty phần mềm nổi tiếng và được cập nhật liên tục hàng năm cho phù hợp với sự phát triển của công nghệ thông tin thế giới, giúp trang bị cho học viên những kiến thức tin học mới nhất khi tốt nghiệp. Cứ 6 tháng tất cả các trung tâm phải báo cáo trực tiếp với APTECH Ấn Độ và cứ 3 tháng thì các chuyên gia của họ sẽ sang Việt Nam để kiểm tra. www.aptech.edu.vn. Một điều đặc biệt là dù FPT là bên nhận quyền độc quyền của APTECH trong lĩnh vực công nghệ thông tin tại Việt Nam song trên thực tế các đối tác nhận quyền tiềm năng nếu có nhu cầu đào tạo lập trình viên quốc tế của A

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBáo cáo thực tập ngoại thương- THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN TẠI CÔNG TY TNHH TECHCONVINA THƯƠNG VẬN.doc
Tài liệu liên quan