MỤC LỤC
THUẾ QUAN (THUẾ NK) VIỆT NAM TRONG
QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP AFTA
Lời nói đầu 1-3
Chương I. AFTA và những quy định chung về cải cách thuế quan trong khuôn khổ AFTA 4-19
I. Vaì nét khái quát về khu vực mậu dịch tự do ASEAN và AFTA::
1. Từ hiệp định ưu đãi thương mại ASEAN (PTA) đến CEPT - sự hình thành AFTA 4-8
2. Các mục tiêu cơ bản của AFTA 8-10
II. Vai trò và nội dung thuế quan VN trong khuôn khổ AFTA
1 Vai trò của cải cách thuế quan. 10-11
2.Nội dung cải cách thuế quan trong quá trình thực hiện AFTA 11-18
Chương II. Thực trạng gia nhập AFTA của Việt nam 19-38
I .Quan hệ TM hoá Việt Nam – ASEAN:
1. Tình hình chung ASEAN 19-20
2. Bối cảnh nền kinh tế Việt nam 20-22
II. Nội dung các chương trình cải cách thuế quan trong quá trình thực hiện AFTA ở VN:
1. Hệ thống thuế Việt nam trước khi thực hiện AFTA 22-23
2. Cải cách thuế nội địa ở Việt nam 23-27
3. Nội dung cải cách thuế xuất nhập khẩu của Việt nam 27-38
Chương III. Xu hướng cải cách thuế quan của Việt nam 39-67
I. Thuận lợi khó khăn khi Việt nam gia nhập AFTA 39-43
II. Xu hướng cải cách
1.Giảm thuế: Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể các danh mục 43-44
2. Những biện pháp hướng tới nhằm thúc đẩy thực hiện CEPT/AFFTA 44-50
3. Kiến nghị, đề xuất 50-67
Kết luận 68
Tài liệu tham khảo 69
69 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2654 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thuế quan (Thuế NK) Việt nam trong quá trình hội nhập AFTA, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m kết giảm thuế trong hội nhập có thể rút ra một số nhận định như sau:
Bảng 2: Phân bố các mức thuế suất thuế nhập khẩu so với các dòng hàng hoá nhập khẩu
Mức thuế suất
(%)
Số lượng mặt hàng chịu thuế nhập khẩu
Tỷ trọng trong tổng số thuế nhập khẩu (%)
Ghi chú
0
1,5
4,4
7,5-60
67,5-82,5
90
150
1988
143
382
2853
585
5
27
33,22
2,39
6,38
47,68
9,80
0,08
0,45
10 mức thuế suất
03 mức thuế suất
Tổng cộng
5983
100
Nguồn: Biểu thuế XNK và GTGT hàng nhập khẩu, tổng cục hải quan ban hành năm 2000. Số liệu tại thời điểm 1/1/2000
Mặc dù biểu thuế có nhiều mức thuế suất cao, song xét về kết cấu, số dòng thuế thấp là tương đối lớn, còn số dòng thuế có mức thuế suất cao chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ.
Nhìn vào số liệu của bảng 2 ta thấy số dòng thuế có mức thuế suất dưới 5% chiếm tỷ trọng khá lớn (trên 40% tổng số dòng thuế), trong đó mức thấp nhất 0% áp dụng chủ yếu cho nhóm hàng máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu sản xuất. Nhưng số dòng thuế có thuế suất cao trên 60% (thường áp dụng cho rượu, bia, xăng dầu, ôtô, xe máy) chỉ chiếm tỷ trọng chưa đầy 10%.
Việc so sánh sự phân bố giữa các dòng thuế của Việt nam với các nước đang phát triển sẽ làm rõ thêm sự bất hợp lý này:
Bảng 3: Phân bố các mức thuế suất thuế nhập khẩu của Việt nam so với các nước đang phát triển
Mức thuế
0%
0,1-5%
5,1-10%
10,1-15%
15,1-35%
>35%
Việt nam
32,5
19,2
7,7
1,2
19,3
20,1
Các nước ĐPT
10
5
5
5
55
20
Nguồn: Bộ tài chính
Phân tích thực trạng thuế nhập khẩu trên đây có thể cho phép khẳng định rằng trong tiến trình tham gia hội nhập biểu thuế nhập khẩu của Việt nam vẫn thực hiện chức năng bảo hộ và thu NTNS là chủ yếu .
Tình hình trên đã gây khó khăn cho Việt nam trong quá trình xây dựng lịch trình cắt giảm thuế quan .
3.3 Thực trạng thực hiện tiến trình cải cách thuế xuất nhập khẩu theo Hiệp định ưu đãi thuế quan của AFTA (CEPT)
Năm 1995, sau khi gia nhập ASEAN, Việt Nam đã đệ trình Ban Thư ký ASEAN bốn Danh mục hàng hoá, nhưng chưa trình riêng các Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm.
Bảng 4: Các danh mục hàng hoá trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam năm 1995
Danh mục hàng hoá
Số nhóm mặt hàng chịu thuế
Tỷ lệ phần tră trong tổng số các mặt hàng (%)
Giảm thuế ngay
1633
54.1
Loại trừ tạm thời
1189
39.5
Nhạy cảm
26
0.9
Loại trừ hoàn toàn
165
5.5
Tổng
3013
100
Nguồn: Ban thư ký ASEAN
Đến năm 1998, các danh mục trong khuôn khổ CEPT của Việt Nam thay đổi do việc phân loại hàng hoá vào các danh mục CEPT và do thực hiện thống nhất biểu thuế quan.
Bảng 5: Danh mục hàng hoá CEPT của Việt Nam năm 1998
Danh mục hàng hoá
Tổng số các nhóm hàng chịu thuế
1996
1997
1998
Giảm ngay
857
1497
1661
Loại trừ tạm thời
1189
1143
1317
Nhạy cảm
26
26
26
Loại trừ hoàn toàn
146
146
213
Tổng
2218
2812
3217
Nguồn: Bộ Tài chính và Ban thư ký ASEAN
Từ năm 1996 đến hết năm 2000, năm nào Việt nam cũng công bố danh mục và thuế suất các mặt hàng thực hiện CEPT/AFTA của năm đó. Cho đến 31-12-2000, Vệt nam đã chuyển được 4200 dòng thuế vào thực hiện AFTA. Như vậy trong biểu thuế của Việt nam với tổng số trên 6000 dòng thuế, đến 2003 sẽ phải đưa vào cắt giảm tiếp 1940 dòng thuế còn lại trong danh mục laọi trừ tạm thời vào thực hiện cắt giảm. Để đến năm 2006 sẽ cắt giảm toàn bộ các dòng thuế thực hiện AFTA xuống 0-5%.
Danh mục cắt giảm thuế quan ngay (IL)
Với Việt Nam, tất cả các hàng hoá trong Danh mục giảm thuế ngay phải có thuế suất từ 0,5% vào năm 2006. Trong số quá trình giảm thuế, những hàng hoá có thuế suất từ 20% trở xuống có thể sẽ được hưởng các ưu đãi theo chương trình CEPT trên cơ sở có đi có lại. Các hàng hoá từ danh mục TEL sẽ được chuyển dần sang danh mục IL.
Việc thực hiện cam kết cải cách thuế qua các mặt hàng trong Danh mục IL của Việt Nam.
Danh mục đầu tiên Việt Nam đệ trình cho Ban thư ký ASEAN năm 1995 cho 1633 nhóm mặt hàng ( chiếm 54,1% tổng các nặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam). Tuy nhiên, vào năm 1996 chỉ có 857 nhóm nặt hàng được đưa và thực hiện giảm thuế và có thêm 640 nhóm mặt hàng vào năm 1997. Do vậy, tổng số các nhóm mặt hàng trong Danh mục này được đưa vào chương trình fiảm năm 1997 là 1497 nhóm. Điều này được giải thích do 136 nhóm mặt hàng còn lại chưa kịp xoá bỏ hạn chế về số lượng theo quy định khi đưa vào IL. Năm 1998, tổng số nhóm mặt hàng trong Danh mục cắt giảm thuế quan ngay tăng lên gồm 1661 nhóm ( chiếm 51,6% tổng các mặt hàng trong Biểu thuế nhập khẩu, thấp hơn mức trung bình của các nước thành viên ASEAN khác là 85%)
Trong hai lần thực hiện CEPT năm 1996 - 1997, thực tế Việt Nam không phải giảm thuế mặt hàng nào trong Danh mục giảm ngay. Năm 1998 Việt Nam mới bắt đầu thực hiện các bước giảm thuế đầu tiên. Đó là hầu hết các mặt hàng trong Danh mục giảm thuế ngay đều đã chó thuế suất từ 0 -5%, như vậy sẽ không cần phải thay đổi thuế suất của các nhóm mặt hàng này và có thể áp dụng ưu đãi theo CEPT ngay. Còn những nhóm mặt hàng có thuế suất cao hơn 5% là những mặt hàng Việt Nam có thế mạnh xuất khẩu hay ít ý nghĩa kinh tế.
Năm 2001 đã đưa vào cắt giảm ngay 730 dòng thuế, trong đó khoảng 65% số dòng thuế đạt thuế suất 0%. Số còn lại sẽ được cắt giảm đến hết năm 2003. Những mặt hàng thuộc danh mục cắt giảm ngay có thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống còn 20% trong năm 2001. Những mặt hàng có thuế suất từ 20% trở xuống sẽ giảm còn 0-5% vào năm 2003.
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL)
Khi chuẩn bị và đệ trình lịch trình giảm thuế các mặt hàng trong Danh mục TEL của mình, Việt Nam phải cân nhắc về quy định của các thành viên ASEAN vào tháng 9/1996 là những mặt hàng sau khi chuyển sang Danh mục IL phải thực hiện giảm thuế ít nhất là 3 năm một lần. Quy định này được đưa ra nhằm ngăn cản các nước trì hoãn việc giảm thuế cho đến cuối thời hạn phải hoàn thành AFTA. Có sản phẩm UAPs thuộc diện trừ tạm thời sẽ được chuyển dần sang IL từ 1/1/2000 và kết thúc vào 1/1/2006. Các sản phẩm UAPs loại trừ tạm thời của Việt Nam hiện nay đều nằm trong Danh mục TEL chung.
Việc thực hiện các cam kết theo CEPT đối với các mặt hàng thuộc danh mục TEL của Việt Nam.
Chính phủ Việt Nam đã ban hành thông tư hướng dẫn liên quan đến các mặt hàng trong Danh mục TEL. Năm 1998, Việt Nam đệ trình cho Ban thư ký ASEAN Danh mục TEL của mình gồm 1317 hay 40,9% tổng nhóm các mặt hàng chịu thuế. Hầu hết các mặt hàng thuộc TEL là hàng tiêu dùng và hàng mang tính chiến lược quan trọng như xi măng, phân bón, bột giấy và giấy. Phần lớn các mặt hàng này đều được bảo hộ bằng hạn chế định lượng và rào hàng phi thuế quan.
Có hai vấn đề vương mắc liên quan đến Danh mục TEL là: Các nhóm mặt hàng nào sẽ được chuyển sang Danh mục IL trong mỗi năm từ 1999 đến 2003? Và Tiến trình giảm thuế tiếp theo xuống còn mức 0 - 5% vào năm 2006 sẽ như thế nào? Co ba câu trả lời là tiếp trình giảm thuế tiếp theo sẽ được thực hiện sớm ( giảm trước), thực hiện dần dần hoặc trì hoãn đến những năm cuối của thời hạn cho phép ( giảm sau). Nếu lựa chọn cách giải sau thì có thể duy trì đợc khả năng bảo hộ các ngành trong nước và giữ được nguồn thuế thu được từ các mặt hàng nhập khẩu trong khuôn khổ AFTA thêm vài năm so với hai cách còn lại. Nhưng phương thức này sẽ đi ngược lại quy định của ASEAN là phải giảm thuế ít nhất 3 năm một lần sau khi chuyển sang IL. Đồng thời điều này cũng có thể gây sự giảm sút mạnh khoản thu ngân sách từ thuế trong những năm cuoió, do đó kéo theo sự giảm sút khả năng trợ giúp của Chính phủ cho các ngành sản xuất trong nước làm cho các doanh nghiệp trong nước sẽ khó khăn để hoạt động hiệu quả, thích nghi với môi trường cạnh tranh. Qua phân tích này, có lẽ phương pháp cắt giảm thuế quan dần dần là tốt hơn cả vì thời gian cải cách và thích nghi sẽ lâu hơn.
Theo các quan chức chính phủ Việt Nam, các trì hoãn liên quan Danh mục TEL của Việt Nam trong những năm vừa qua chủ yếu là do việc thực hiện thống nhất thuế của Việt Nam với thống điều hoà của Hội đồng hợp tác hải quan ASEAN Một điều mà Chính phủ Việt Nam cần thực hiện không chậm trễ là thông báo rộng rãi quyết định của mình về kế hoạch giảm thuế chi tiết các mặt hàng thuộc Danh mục TEL. Điều này sẽ làm các nhà sản xuất có thể các các nhà đầu tư tin tưởng vào cam kết thực hiện kế hoạch CEPT của Chính phủ. Nếu không lượng đầu tư sẽ trở nên khiêm tốn do họ nghĩ rằng sự bảo hộ vẫn được duy trì.
Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến được loại trừ tạm thời được đệ trình chung trong Danh mục TEL gửi cho Ban thư ký ASEAN. HIện nay chưa có Danh mục các mặt hàng UPAs riêng nhưng Việt Nam cần thực hiện điều này nếu muốn hưởng lịch trình cắt giảm thuế quan chậm hơn có sẵn của ASEAN cho các sản phẩm UPAs.
Danh mục các mặt hàng sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL)
Các mặt hàng trong Danh mục này phải chuyển dần sang Danh mục IL từ 1/1/2004 (có sự linh hoạt nhất định nhưng không được quá 1/1/2006) và kết thúc vào 1/1/2013 ( chậm hơn 3 năm so với các nước thành viên ASEAN khác).
Việc thực hiện cam kết theo CEPT đối với các mặt hàng thuộc Danh mục IL của Việt Nam:
Danh mục sản phẩm nông sản chưa chế biến nhạy cảm của Việt Nam gồm 26 nhóm mặt hàng theo như bản đệ trình Ban thư ký ASEAN. Các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm gồm thịt và các sản phẩm động vật khác, gia cầm, trứng, hoa quả, gạo lứtt.
Hiện nay, đối với mặt hàng nông sản nhạy cảm và nhạy cảm cao, Việt Nam sẽ bắt đầu cắt giảm vào đầu năm 2004, hoàn thành vào năm 2013 với thuế suất 0-5%.
Danh mục loại trừ hoàn toàn; (GEL)
Các hàng hoá trong Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) không phải thực hiện bất kỳ biện pháp tự do hoá thương mại nào theo CEPT. Do sao các nước ASEAN cũng quy định hai nguyên tắc quan trọng nhằm kiểm soát các mặt hàng thuộc Danh mục GEL:
- Các điều khoản loại trừ không được sử dụng để bảo hộ các ngành sản xuất và giữ ổn định thu ngân sách từ thuế.
- Danh mục GEL phải ngắn hơn Danh mục GEL mà WTO áp dụng.
Thực hiện của Việt Nam
Danh mục GEL của Việt Nam gồm 213 nhóm mặt hàng, chiếm 6,6% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu, nhiều nhất trong các quốcgia ASEAN. Các quốc gia ASEAN khác có khoảng từ 0,3% đến 3,3% tổng số nhóm mặt hàng trong Biểu thuế nhập khậu thuộc Danh mục GEL. Lý do cho điều này là Danh mục GEL của Việt Nam có một số mặt hàng không hoàn toàn thoả mãn các tiêu chí để được nằm trong GEL. Các mặt hàng như ô tô và xe máy cũng như các phương tiện vận tải có động cơ khác HS – 87) nằm trong GEL là do nhằm “ bảo vệ môi trường” Các loại xăng dầu (HS – 27) được liệt kê trong Danh mục GEL để “ bảo dảm an ninh quốc phòng”, trong khi bia rượu (HS – 22) được thêm vào nhằm bảo vệ “ đời sống và sức khoẻ của thực vật và động vật” Các mặt hàng trong Danh mục GEL của Việt Nam đều có tầm quan trọng về kinh tế rất cao trong lĩnh vực thương mại và thu nhập của NSNN.
Việt Nam đã nhanh chóng thực hiện việc xem xét lại Danh mục GEL của mình để đảm bảo nó hoàn toàn phù hợp với điều khoản của Hiệp định .
Hiện có 139 dòng thuế thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn, gồm các mặt hàng thuốc lá, rượu, xăng dầu, ôtô, xe máy, các mặt hàng thuộc danh mục cấm nhập khẩu .
Lịch trình cắt giảm thuế quan trên đây để áp dụng theo AFTA được xây dựng trên cơ sở phân loại các nhóm mặt hàng, dựa trên khả năng cạnh tranh của từng ngành. Đồng thời lịch trình này cũng là cơ sở để định hướng xây dựng các thoả thuận thuế quan trong vòng đàm phán gia nhập WTO.
Việt nam hưởng thuế suất nhập khẩu ưu đãi CEPT 0-5%
Việt nam được hưởng thuế suất nhập khẩu ưu đãi CEPT 0-5% và hệ thống ưu đãi hội nhập ASIP từ ngày 1/1/2002. Kể từ ngày 1/1/2002, 6 nước gia nhập ASEAN trước (ASEAN 6) gồm: Brunei, Inđônêxia, Malaysia, Philipin, và Thái Lan đã hoàn thành việc cắt giảm thuế trong AFTA và áp dụng mức thuế suất nhập khẩu từ 0% tới 5% đối với hầu hết các mặt hàng có xuất xứ từ các nươcs ASEAN. Riêng Singapore, thuế suất nhập khẩu đã cắt giảm xuống còn 0%. Điều này mang lại thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt nam: Mở rộng diện mặt hàng được hưởng thuế suất nhập khẩu ưu đãi từ 0-5% mà không phải đợi đến thời điểm 1/1/2006 khi Việt nam hoàn thành cắt giảm thuế nhập khẩu xuống 0-5%. Do đó khả năng cạnh tranh hàng hoá của Viẹt nam xuất khẩu sang các nước ASEAN có thể sẽ cao hơn so với các mặt hàng cùng loại được nhập khẩu từ các nước ngoài ASEAN.
Theo ước tính của Bộ thương mại tổng lượng xuất khẩu của Việt nam sang ASEAN dùng C/O Form D chỉ chiếm khoảng 0,1% trên tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt nam sang ASEAN. Riêng năm 2001 hàng hoá xuất khẩu sang các nước ASEAN sử dụng form D đã có những tiến bộ đáng kể, hơn 1800 bộ form ddươc cáp với tổng trị giá hàng hoá xuất khẩu gần 49,2 triệu USD , tăng 50% so với năm 2000.
Từ thời điểm 1/1/2002 Brunei sẽ dàh 1 mặt hàng, Indonêsia dành 50 mặt hàng, Malaysia dành 173 mặt hàng và Thái Lan dành 19 mặt hànghưởng AISP cho Việt nam. Các mặt hàng này sẽ được hưởng ngay mức thuế 0-5% khi các doanh nghiệp Việt nam xuất khẩu hàng hoá sang ASEAN –6 mà không phải đợi đến khi chuyển vào Danh mục cắt giảm thuế ngay(IL) và cắt giảm thuế bằng hoặc thấp hơn 20%.
Như vậy, diện các mặt hàng xuất khẩu hưởg thuế suất ưu đãi được mở rộng và các doanh nghiệp sẽ có điều kiện tăng cường xuất khẩu sang các nước ASEAN hơn
Chương III.
Xu hướng cải cách thuế quan của Việt nam
Thuận lợi khó khăn khi Việt nam gia nhập AFTA
Trong quá trình xây dựng các Danh mục hàng hoá và chương trình giảm thuế theo Hiệp đinh CEPT, chúng ta đã gặp không ít khó khăn do xuất phát điểm của nền kinh tế Việt Nam còn thấp hơn so với các nước thành viên khác. Hơn nữa về mặt kỹ thuật, ngoài các điểm còn khác biệt về hệ thống thuế áp dụng đối với hàng xuất nhậ khẩu và hệ thống mã số của Biểu thuể Việt Nam so với các nước ASEAN khác. Các thuế suất của biểu mẫu thuế hiện hành cũng đòi hỏi được điều chỉnh, cơ bản để phù hợp với sự phát triển của cách ngành sản xuất trong nước. Cụ thể là biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam có một số điểm không thật sự phù hợp với thông lệ quốc tế, do đó gây khó khăn khi Việt Nam tham gia thực hiện các hiệp định quốc tế như hiệp định CEPT. Biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam vừa quá đơn giản vừa quá phức tạp.
Tính chất đơn giản thể hiện ở chỗ:
- Hàng xuất nhập khẩu chỉ chịu một sắc thuế là xuất nhập khẩu. ở các nước ASEAN, ngoài thuế xuất nhập khẩu, đặc biệt đối với hàng nhập khẩu còn phải chịu thuế giá trị tăng và thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Trong biểu thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam chỉ tồn tại các mức thuế suất duy nhất áp dụng cho mọi hàng hoá nhập khẩu bất kỳ nguồn gốc xuất xứ từ nước nào. Trong biểu thuế không phân biệt các mức thuế suất ưu đãi, mức thuế xuất phổ thông hay mức thuế suất tạm thời, mặc dù trong luật thuế xuất nhập khẩu của Việt Nam cũng đã có điều khoản quy định về các mức thuế suất ưu đãi theo các Hiệp định quốc tế.
Tính chất phức tạp thể hiện ở chỗ:
- Thuế suất dàn trải quá rộng: thuế suất có 26 mức (từ 0 - 60%) cho hơn 3000 mã nhóm hàng.
- Quá nhiều mức thuế suất dưới 5%, gây hạn chế thu ngân sách.
- Thêm vào đó, ở Việt Nam còn có tình trạng cùng một mặt hàng nhưng cá cơ quan thương mại, hải quan và doanh nghiệp lại gọi tên khác nhau, gây nhiều vướng mắc và thiệt hại cho doanh nghiệp. Thông thường giấy phép xuất nhập khẩu hàng hoá do Bộ thương mại cấp chỉ ghi tên hàng mà không ghi mã số của hàng hoá. Do đó, khi làm thủ tục, hải quan tiến hành áp mã thì mã này có thể trùng hoặc không trùng với mã số trong hệ thống theo dõi của Bộ thương mại.
Tuy nhiên, chúng ta cũng có thuận lợi xuất phát từ khía cạnh kỹ thuật của biểu thuế:
- Biểu thuế đã được xây dựng trên danh mục điều hoà của Hội đồng hợp tác Hải quan, tuy mới chỉ trên cấp độ 6 chữ.
- Đồng thời khi so sánh mục tiêu chủ yếu của chương trình cắt giảm thuế quan CEPT là các nước thành viên sẽ giảm thuế nhập khẩu tối đa với đa số các mặt hàng nhập khẩu từ các nước thành viên ASEAN khác xuống còn 0 - 5% với Biểu thuế nhập khẩu của Việt Nam, chúng ta thấy hơn nửa tổng số mặt hàng của biêu thuế nhập khẩu Việt Nam đã phù hợp với mức thuế tiêu chuẩn đặt ra cho chương trình cắt giảm thuế quan CEPT, điều đó có nghĩa là về thực chát Việt Nam chỉ phải thực hiện giảm thuế gần 50% của tổng số nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu. So với các nước thành viên ASEAN khác khi bắt đầu thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan theo Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung thì tỷ lệ thuế suất của Việt Nam từ 0 - 5% nhiều hơn rất nhiều. ( ví dụ Indonesia khi bắt đầu tham gia chương trình CEPT chỉ có 9% tổng số nhóm đặt hàng có thuế suất dưới 5%, Thái Lan có 27%, Philippin có 32%). Đây là một thuận lợi khi Việt Nam tham gia thực hiện chương trình cắt giảm thuế theo quy định của HIệp định CEPT.
- Ngoài những khó khăn về phía cạnh tranh kỹ thuật từ biểu thuế, từ khía cạnh chung của toàn bộ nền kinh tế, chúng ta đều biết khi Việt Nam thực hiện cải cách thuế quan theo chương trình CEPT sẽ phát sinh hai vấn đề lớn là giảm số thu ngân sách và giảm mức bảo hộ cho các ngành sản xuất trong nước. Hai vấn đề này sẽ được nêu rõ hơn trong phần tích các tác động của cải cách thuế quan đối với nền kinh tế Việt Nam .
Trên cơ sở phân tích ban đầu về những đặc điểm thuận lợi và khó khăn về khía cạnh kỹ thuật của Biểu thuế xuất nhập khẩu Việt Nam những ảnh hưởng chung của việc tham gia thực hiện cắt giảm thuế quan theo chương trình CEPT, đồng thời tham khảo kinh nghiệm trong việc thiết kế các Danh mục hàng hoá của các nước thành viên khác, các Danh mục hàng hoá CEPT của Việt Nam đã được nhóm nghiên cứu bộ soạn thảo trong suốt khoảng thơì gian từ tháng 7/1995 đến tháng 12/1995 và hoàn thành theo đúng cam kết. Từ năm 1996, chúng ta vẫn liên tục tiến hành các hoạt động soạn thảo kế hoạch thực hiện CEPT, đồng thời rà soát lại những việc đã thực hiện. Cụ thể:
- Ngày 15/11/1995 tại Hội nghị Bộ trưởng kinh tế ASEAN (AEM)OSAKA, Việt Nam đã công bố Danh mục giảm thuế đợt 1 áp dụng từ 1/1/1996.
- Ngày 10/12/1995, tại Hội nghị Hội đồng AFTA, Việt Nam đã công bố về nguyên tắc là cam kết cắt gảim thuế cho toàn bộ quá trình 1996 – 2006.
- Ngày 18/12/1995, Chính phủ đã ban hành Nghị định 91/CP trong nước quy định việc cải cách thuế quan, thực hiện CEPT.
- Ngày 2/4/1996 Bộ tài chính thành lập cơ quan AFTA quốc gia của Việt Nam với chức năng là cơ quan đầu mối của Việt Nam thực hiện các vấn đề liên quan đến AFTA.
- Cũng trong năm 1996, Việt Nam công bố Danh mục thực hiện giảm thuế theo CEPT trong năm 1997.
- Ngày 12/3/1998, Danh mục hàng hoá Việt Nam thực hiện CEPT do Bộ tài chính xây dựng đã được Chính phủ thông qua và ban hành kèm Nghị định số 15/1998/NĐ - CP.
- Cũng trong đầu năm 1998, Bộ Tài chính công bố 1717 mặt hàng tham gia CEPT năm 1998, đồng thời chuẩn bị Danh mục thuế năm 1990, xem xét để giảm bớt số mặt hàng trong Danh mục loại trừ tạm thời.
- Nghị định số: 21/2002/NĐ-CP ngày 28 tháng 2 năm 2002 của Chính phủ về ban hành Danh mục hàng hoá và thuế suất của Việt nam để thực hiện CEPT/AFTA cho năm 2002.
Trong khoảng thời gian từ 1995 đến nay chúng ta cũng nghiên cứu và thực hiện cải cách một số thuế nội địa hỗ trợ cho quá tình thực hiện AFTA.
- Thực hiện luật thuế thu nhập doanh nghiệp thay cho luật thế lợi tức.
- Thay thế thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng.
- Cải cách luận thuế tiêu thụ đặc biệt.
Bảng 6: Thống kê tình hình giảm thuế, kế hoạch thực hiện AFTA đến năm 2003, theo đó 6 thành viên ban đầu của AFTA mới chỉ đạt 41% số dòng thuế có thuế suất bằng 0%. Cụ thể như sau:
Nước
Thuế xuất đạt 0% vào 2000
Tổng dòng thuế trong danh mục cắt giảm (IL)
Tỷ lệ số dòng thuế đạt 0% vào 2000
Brunei
5.071
6.186
82.0%
Indonesia
1.478
6.957
21.2
Malaysia
4.854
8.814
55.1
Philippies
0
5.419
0.0
Singapore
5.739
5.739
100.0
Thaland
167
9.056
1.8
Nguồn : Ban thư ký ASEAN (Jacarta)
Tại hội nghị bộ trưởng kinh tế ASEAN không chính thức họp ngày 6 -3 năm 1999 tại Thái Lan, Phó thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ thương mại Thái lan đề ngị các nước ASEAN nên phấn đấu đạt 100% số dòng thuế có thuế suất bằng 0 vào năm 2003 (Nguồn: Ban Thư ký ASEAN_).
Về phía Việt nam:
Bộ tài chính vừa hoàn thành việc chuyển biểu thuế xuất nhập khẩu hiện hành sang biểu thuế quan chung của ASEAN. theo lộ trình chương trình thuế quan uư đãi có hiệu lực (CEPT), tiến tới gia nhập khu vực mậu dịch tự do thương mại ASEAN (AFTA).
Như vậy, Nghị định ban hành danh mục hàng hoá và thuế suất của Việt nam để thực hiện chương trình cắt giảm thuế quan có khả năng được thực hiện theo đúng kế hoạch đã đề ra vào tháng 7 tới.
Theo danh mục chuyển đổi biểu thuế quan xuất, nhập khẩu hàng hoá hiện hành có 6,495 dòng thuế khi chuyển sang danh mục thuế quan khu vực ASEAN sẽ được nâng lên 10.689 dòng thuế. Trong đó, danh mục cắt giảm ngay (IL) sẽ nâng từ 5.559 lên 8.807 dòng thuế; danh mục loại trừ tạm thời (TEL) từ 755 lên 1.376 dòng thuế; danh mục nông sản nhạy cảm (SL) từ 52 lên 91 dòng thuế và danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) từ 139 lên 415 dòng thuế.
Hiện nay, Việt nam đã cắt giảm được thuế suất của 5.500 mặt hàng chiếm gần 85% tổng số nhóm mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu hiện hành. Theo lộ trình, năm nay Việt nam sẽ đưa thêm 760 mặt hàng vào danh mục cắt giảm thuế với mức thuế suất hạ từ 40 -50% còn 15 - 20% và tiếp tục giảm xuống 0-5% vào năm 2006, hạn cuối cùng để Việt nam hoàn thành chương trình cắt giảm thuế quan
Theo Thứ trưởng Bộ Thương mại Lương Văn Tự, việc cắt giảm thuế này chưa ảnh hưởng trực tiếp đến trao đổi thương mại giữa Việt nam và ASEAN. Lợi ích rõ ràng nhất khi tham gia CEPT/AFTA là mở được thị trường tiêu thụ. Sau 6 năm thực hiện CEPT, ASEAN đã trở thành thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam bên cạnh EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ.
Xu hướng cải cách:
1. Giảm thuế: Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể các danh mục
Lịch trình cắt giảm thuế quan của các danh mục của Việt Nam theo Hiệp định CEPT/AFTA như trong bảng sau:
Bảng 7: Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể các danh mục
Tên danh mục
Thời điểm đưa vào danh mục cắt giảm
Thời điểm đưa thuế suất xuống Ê 20%
Thời điểm đưa thuế suất xuống Ê 5%
Thời điểm đưa thuế suất xuống 0%
Danh mục cắt giảm (IL)
1996- 1998
2001
2003 – 2006
2015
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL)
1999 – 2003
2001/2002/2003 (Khi chuyển vào IL)
2006
2015/2018
Danh mục nhạy cảm (SL)
2004 – 2006
2010 – 2013
2015 – 2018
Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL)
Không cam kết
Không cam kết
Không cam kết
Không cam kết
Tình hình thực hiện AFTA của Việt Nam
Tính đến năm 2002, Việt Nam đã chuyển thuế suất của 5.550 mặt hàng vào danh mục cắt giảm thuế ngay (IL) trên tổng số khoảng 6.400 mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu. Thuế suất trung bình của các mặt hàng đã đưa vào IL là 7.3% (so với mức thuế MFN trung bình là 13,5%).
Năm 2003, Việt Nam sẽ phải tiếp tục chuyển thuế suất của 760 mặt hàng đang nằm trong danh mục loại trừ tạm thời (TEL) sang danh mục IL. Các mặt hàng thuộc danh mục nhạy cảm (SEL) sẽ dần được đưa vào cắt giảm thuế trong ba năm 2004/2005/2006, đến năm 2013 đạt mức thuế suất từ 0 - 5%. Danh mục các mặt hàng đưa vào cắt giảm sẽ được Bộ tài chính công bố cụ thể cho từng năm.
2. Những biện pháp hướng tới nhằm thúc đẩy thực hiện CEPT/ AFTA
2.1 Cải cách cơ cấu thuế xuất nhập khẩu
Việc cắt giảm thuế cần thực hiện đồng thời với cải cách cơ cấu thuế xuất nhập khẩu.
Trong tiến trình cải cách thuế quan, Việt Nam đã thực hiện tự do hoá có lựa chọn cơ cấu thuế quan của mình gồm:
- Giảm mức thuế suất trung bình
- Giảm bớt mức thuế suất tối đa xuống còn 60%
- Giảm số lượng các mặt hàng chịu thuế suất hơn 50%.
Tuy nhiên, nhìn chung cơ cấu thuế xuất nhập khẩu vẫn hầu như không thay đổi. Hai nhược điểm lớn nhất của biểu thuế xuất nhập khẩu Việt Nam hiện nay vẫn là quá mức thuế xuất nhập khẩu (mức thuế) và thuế suất dàn trải quá rộng. Việt Nam nên quy định giảm số mức thuế suất còn 4 mức cơ bản.
- Với một số mặt hàng trong biểu thuế có thuế suất ở mức 60% như quần áo cũ, mỹ phẩm, xăng trừ loại dùng cho máy bay, xe có động cơ nên giảm thuế xuất nhập khẩu và thay vào đó là thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Với các mặt hàng có thuế suất dưới 5% cần điều chỉnh lên mức 5%. Thứ nhất, tỷ trọng lớn của các thuế suất dưới 5% chỉ phù hợp với điều kiện của Việt Nam trong giai đoạn khi nhiêù nguyên vật liệu và đầu vào mà trong nước chưa đủ khả năng đáp ứng. Nhưng hiện nay, khi nền sản xuất trong nước của Việt Nam đã phần nào phát triển và đáp ứng được một phần các sản phẩm cần thiết phục vụ cho sản xuất mà trước đây phải nhập khẩu từ nước ngoài, nhu cầu nâng cao mức thuế suất nhập khẩu nhằm mục đích bảo hộ cho cách ngành sản xuất trong nước là thật sự cần thiết. Thứ hai, như đã phân tích trong chương II, Danh mục GEL của Việt Nam có quá nhiều mặt hàng, gồm 213 nhóm mặt hàng, chiếm 6,6% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu, nhiều nhất trong các quốcgia ASEAN. Với danh nghĩa là mặt hằng thuộc Danh mục GEL, Việt Nam đã không thực hiện giảm thuế theo chương trình. CEPT/AFTA với gần 41% các hoạt động buôn bán của mình với các quốc gia ASEAN, chiếm 62% tổng thu nhập từ thuế vào NSNN. Do vậy sẽ không có gì lạ khi Việt Nam được yêu cầu xem xét chuyển một số mặt hàng thuộc danh mục GEL sang Danh mục Tel. Trong năm 1998, Việt Nam đã chuyển 13 mặt hàng thuộc GEL sang TEL. Trong tương lai Việt Nam cũng sẽ phải chuyển mặt hàng dầu khí từ GEL san