Kể từ khi Internet phát triển ở Việt Nam, trong số các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có nhiều doanh nghiệp chú ý đến việc quảng bá tên tuổi của mình trên Internet. Số trang web của các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng không ngừng tăng lên. Thực tế là một số trang web đã và đang đem lại cơ hội làm ăn, hợp đồng buôn bán và tiện ích trong giao dịch cho một số doanh nghiệp. Trong đó, theo các doanh nghiệp này, lợi ích lớn nhất mà họ thu được là nhờ có Internet, họ có thể giới thiệu các thông tin về doanh nghiệp và sản phẩm của mình đến với khách hàng một cách nhanh chóng và thuận tiện hơn cả, do đó đã thu hút được một số khách hàng đến với doanh nghiệp nhờ thông tin trên các trang web. Điều này được thể hiện qua nhận xét của bản thân các doanh nghiệp về hiệu quả sử dụng trang web của mình, một số ví dụ tiêu biểu có thể kể đến là:
85 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1727 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thương mại điện tử và thực trạng ứng dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động trong lĩnh vực sản xuất và cung cấp dịch vụ phần mềm;
- Các doanh nghiệp được hưởng mức ưu đãi cao nhất về thuế giá trị gia tăng;
- Các nguyên liệu phục vụ trực tiếp cho việc sản xuất phần mềm được miễn thuế;
- Các doanh nghiệp được miễn thuế xuất khẩu các sản phẩm phần mềm;
- Thêm vào đó có rất nhiều chính sách ưu đãi về tín dụng, thuê và sử dụng đất, bảo vệ bản quyền phần mềm, đào tạo nguồn nhân lực về phần mềm, ưu đãi về cơ sở hạ tầng Internet và viễn thông v.v.
Các chính sách quan trọng này đã dẫn tới việc ra đời hàng loạt các công ty phần mềm, đặc biệt là 50% trong tổng số các công ty phần mềm được thành lập trong vòng hơn 2,5 năm trở lại đây.
Hình 3. Biểu đồ gia tăng số các công ty sản xuất và dịch vụ phần mềm
Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, 5/2003
Số nhân viên làm việc trong lĩnh vực phần mềm cũng tăng lên nhanh chóng. Hiện tại, tính trung bình, mỗi công ty có khoảng 20 người làm việc về phần mềm. Tổng số người tham gia vào ngành công nghiệp phần mềm ở Việt Nam hiện có khoảng 7.500 người.
Hình 4. Biểu đồ gia tăng số nhân sự làm phần mềm
Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, May 2003
Năng lực sản xuất phần mềm có nhiều biến động theo hướng tăng lên nhưng mức tăng không cao. Năng suất của các công ty gia công phần mềm cho nước ngoài có cao hơn, năm 2002 đạt khoảng 13.000 USD/người/năm, tăng khoảng 18% so với năm 2000.
Hình 5. Biểu đồ gia tăng năng suất làm phần mềm
Nguồn: Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report, May 2003
Qua các số liệu trên, ta có thể thấy Nghị quyết 07 và Quyết định 128 đã tao ra sự tăng trưởng ban đầu tốt đẹp trong doanh thu của ngành sản xuất và cung cấp các dịch vụ phần mềm, dẫn tới việc gia tăng số người làm việc trong lĩnh vực phần mềm. Trong hai năm 2000-2001, rất nhiều khu công nghiệp phần mềm tập trung đã được thành lập như công viên phần mềm Quang Trung, khu công nghiệp phần mềm Hải Phòng, khu công nghiệp phần mềm Đà Nẵng... Các khu công nghiệp này đều được hưởng ưu đãi về thuế và đường dây nối mạng Internet. Bên cạnh đó, rất nhiều công ty phần mềm đã phát triển và được cấp chứng nhận chất lượng quốc tế.
Ngày 23/4/2003, Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm, trong kỳ họp thứ ba của Uỷ ban xúc tiến quốc gia về công nghệ thông tin, đã đưa Chương trình về Phần mềm nguồn mở (OSS) vào Dự án quốc gia. Chương trình này đặt ra một số mục tiêu chính rằng đến năm 2005 sẽ thiết lập hệ thống chuẩn về phát triển và ứng dụng OSS, các hiệp hội và cộng đồng OSS sẽ được thành lập, OSS sẽ được giới thiệu đưa vào chương trình giảng dạy của các trường trung học, cao đẳng và đại học... Tổng đầu tư cho Chương trình OSS giai đoạn 2003-2007 là 312 tỷ VND, tương đương 20 triệu USD.
Đ Thị trường phần cứng Việt Nam
Ngày 20/2/2001, Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 19/2001/QĐ-TTg về việc đưa sản phẩm máy vi tính vào danh mục sản phẩm công nghiệp quan trọng. Sau đó, Bộ Công nghiệp đã ban hành Thông tư số 4/2001/TT-BCN ngày 6/6/2001 về việc hướng dẫn thi hành quyết định nói trên.
Phần cứng chiếm tỷ lệ rất cao trong tổng doanh thu của thị trường công nghệ thông tin Việt Nam. Số lượng máy tính lắp ráp trong nước đang tăng lên, năm 2001 chiếm khoảng 80% tổng số máy tính bán ra trên thị trường (49.500 máy tính hoàn chỉnh và khoảng 242.000 màn hình được nhập khẩu). Có thể ước tính số máy tính lắp ráp trong nước sẽ chiếm tỷ lệ tương đối ổn định ở mức 75-80%.
Kim ngạch nhập khẩu có xu hướng giữ ở mức ổn định cho thấy máy tính lắp ráp trong nước đã có những ảnh hưởng lớn đến thị trường công nghệ thông tin Việt Nam (kim ngạch nhập khẩu 6 tháng đầu năm 2002 là 118 triệu USD, chỉ tăng 8% so với cùng kỳ năm trước). Nhiều thương hiệu máy tính Việt Nam đã được chấp nhận trên thị trường như CMS, Mekong Green, SingPC, VINACom, T&H, Robo...
Hệ điều hành Linux đã được xây dựng và cài đặt trong các máy tính do CMS sản xuất, đã góp phần khẳng định chất lượng cũng như hướng đi trong dài hạn đối với sự hiện diện của máy tính Việt Nam trên thị trường Việt Nam. Khi luật về bản quyền phần mềm có hiệu lực và được thực thi một cách nghiêm túc, việc sử dụng máy tính thương hiệu Việt Nam cùng với hệ điều hành giá rẻ sẽ thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành công nghiệp máy tính Việt Nam.
4. Hạ tầng cơ sở nhân lực
Cho tới năm 1980, lực lượng làm công nghệ thông tin (CNTT) ở nước ta chủ yếu là các cán bộ thuộc các ngành toán, lý chuyển sang. Hiện nay trên phạm vi toàn quốc ước tính có khoảng 20.000 cán bộ đang hoạt động trong lĩnh vực CNTT, trong đó có khoảng 2.000 người chuyên làm về phần mềm tin học. Ngoài ra, có khoảng 50.000 người Việt Nam ở nước ngoài đang hoạt động trong lĩnh vực CNTT.
Từ năm 1980, một số trường đại học đã bắt đầu có khoa tin học và cho tới nay hầu hết tất cả các trường đại học đều có khoa tin học và tất cả các sinh viên đều được đào tạo tin học đại cương. Bảy trường lớn ở Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và một vài tỉnh miền Trung đã được Nhà nước hỗ trợ đầu tư cho các khoa CNTT với mục tiêu đào tạo 2000 cử nhân và kỹ sư tin học mỗi năm. Cho tới nay, trung bình mỗi năm có khoảng 3.500 người được đào tạo cơ bản về tin học. Tuy nhiên, nếu tính bình quân đầu người so với Singapore thì nước ta còn kém khoảng 50 lần. Hiện nay, chúng ta vẫn đang thiếu nhân lực về CNTT, số sinh viên tốt nghiệp hàng năm chưa đủ đáp ứng nhu cầu của các tổ chức và doanh nghiệp.
Hoạt động trong lĩnh vực CNTT đòi hỏi số lượng lớn chuyên gia thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau, do vậy việc đào tạo nguồn nhân lực cho thương mại điện tử không chỉ giới hạn ở các khoa và bộ môn tin học của các trường đại học và cao đẳng mà còn ở nhiều nơi và nguồn khác (toán, lý, xây dựng, cơ khí, hoá, quản trị kinh doanh, y học, nông lâm ngư nghiệp, tài chính, ngôn ngữ, địa lý...). Trong khi đó, nguồn nhân lực để tham gia vào phát triển thương mại điện tử của nước ta rất lớn vì nước ta có lực lượng dồi dào sinh viên tốt nghiệp hàng năm ở các chuyên ngành từ các trường đại học. Nếu đào tạo thêm về CNTT và ngoại ngữ cho các đối tượng trên trong một thời gian ngắn, chúng ta sẽ nhanh chóng có một số lượng lớn cán bộ chuyên môn có trình độ đại học phục vụ cho thương mại điện tử. Thêm vào đó, lĩnh vực thương mại điện tử cũng đòi hỏi một số lượng lớn các nhân viên kỹ thuật chỉ cần được đào tạo qua hệ thống các trường cao đẳng và dạy nghề sẽ có khả năng cung cấp thêm cho thương mại điện tử một số lượng lớn các cán bộ cao đẳng, trung cấp và trung cấp kỹ thuật.
Lực lượng làm tin học ở nước ta có một số ưu điểm nổi bật sau:
- Nhiều người thông minh, sắc sảo và sáng tạo, đặc biệt là trong lĩnh vực phần mềm ứng dụng;
- Có khả năng nhận biết và thích ứng nhanh nhạy với các xu hướng phát triển mới của CNTT;
- Cần cù, chịu khó, có khả năng làm việc ngay cả trong những điều kiện rất thiếu thốn, khó khăn, đặc biệt là có khả năng tự học để nâng cao trình độ.
Tuy nhiên, đội ngũ chuyên gia tin học của chúng ta cũng còn có những nhược điểm:
- Có sự mất cân đối về số lượng chuyên gia giữa phần mềm và phần cứng, nói cách khác là ta đang rất thiếu chuyên gia phần cứng. Các trường đại học trong nước chủ yếu đào tạo cán bộ làm phần mềm, rất ít trường có đào tạo chuyên gia phần cứng, nguyên nhân là do lĩnh vực phần cứng đòi hỏi hạ tầng cơ sở mà ta chưa trang bị đủ, hơn nữa ta cũng thiếu giáo sư cho lĩnh vực này.
- Trong lĩnh vực phần mềm, các chuyên gia Việt Nam chưa hoàn toàn đủ năng lực xử lý các hệ thống và các phần mềm ứng dụng toàn cục với quy mô lớn. Số chuyên gia tin học giỏi có trình độ tư vấn, thiết kế hệ thống lớn, cung cấp các giải pháp tổng thể và quản lý dự án, xây dựng những cơ sở dữ liệu ngành và quốc gia hiện nay còn thiếu. Nguyên nhân chủ yếu là cơ sở hạ tầng CNTT toàn quốc vẫn còn nhiều hạn chế và chưa thực sự vững chắc, nên chưa có điều kiện thuận lợi cho tin học hệ thống được ứng dụng và phát triển ở Việt Nam.
- Lực lượng cán bộ tin học đào tạo từ các trường khá phong phú, nhưng chưa tận dụng được. Một số người được nhận vào các cơ quan nhà nước nhưng chủ yếu làm công việc sự vụ, một số làm việc cho các công ty nước ngoài, liên doanh nhưng đa phần làm công tác tiếp thị,văn phòng, một số vào các công ty chuyên doanh công nghệ tin học nhưng chủ yếu làm công việc tiếp thị, một số khác tự đứng ra kinh doanh thiết bị phần cứng. Vì thế, lực lượng đã qua đào tạo không thể tập hợp nhau lại trong các đề án lớn để phát triển, mà ngược lại, kiến thức có thể dần kém đi và đến một lúc nào đó các kiến thức này có nguy cơ không dùng được nữa, gây nên một sự lãng phí rất lớn cho xã hội.
Theo Viện chiến lược Bưu chính viễn thông và Công nghệ thông tin, mục tiêu cần đạt được đối với nguồn nhân lực cho CNTT nói chung và Thương mại điện tử nói riêng ở Việt Nam là đến năm 2005 sẽ đào tạo thêm 50.000 chuyên gia về CNTT ở các trình độ khác nhau đạt mức trung bình trong khu vực, năm 2010 sẽ nâng số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực lên mức trung bình khá và năm 2020 sẽ ở trình độ tiên tiến.
Để đạt được mục tiêu đó, cần xã hội hoá công tác đào tạo nguồn nhân lực, đa dạng hoá các loại hình đào tạo, khuyến khích đào tạo theo định hướng yêu cầu, đổi mới nội dung chương trình, giáo trình đào tạo, dạy tiếng Anh và thí điểm chương trình dạy chuyên ngành CNTT bằng tiếng Anh, tạo điều kiện thu hút người nước ngoài và Việt kiều mang tri thức, công nghệ và đầu tư tích cực đóng góp vào việc phát triển nguồn nhân lực cho CNTT ở Việt Nam.
5. Thanh toán điện tử
Việc giao dịch qua ngân hàng phục vụ cho hoạt động kinh tế trong quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu và tham gia vào sự phân công quốc tế ngày càng gia tăng mạnh mẽ cả về số lượng, chất lượng các loại hình sản phẩm dịch vụ, đáp ứng cả nhu cầu rút ngắn về thời gian, không gian...
Các ngân hàng thương mại của Việt Nam đang nỗ lực triển khai các dịch vụ, các sản phẩm đặc thù bằng cách hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nhằm tự động hoá việc xử lý giao dịch, đa dạng hoá sản phẩm. Phát triển kênh phân phối điện tử... nhằm giữ được thị phần, hiệu quả kinh doanh và vị thế cạnh tranh cao khi thị trường ngân hàng hoàn toàn mở cửa, các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam được hoạt động hoàn toàn bình đẳng như các ngân hàng trong nước.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước và các ngân hàng thương mại quốc doanh đều đã có hệ thống thanh toán điện tử riêng để đáp ứng các nhu cầu thanh toán của khách hàng trong nội bộ hệ thống và đi ra ngoài qua hệ thống bù trừ và thanh toán liên ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước. Ngoài ra, các ngân hàng còn tham gia hệ thống thanh toán SWIFT. Cụ thể là, ngân hàng ngoại thương đã có hệ thống bán lẻ SilverLake, hệ thống quản lý thẻ ATM và tham gia mạng SWIFT; ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam có hệ thống thanh toán tập trung BCS, hệ thống giao dịch trên mạng IBS và dịch vụ Home Banking; ngân hàng công thương Việt Nam đã có trương trình thanh toán điện tử trực tuyến triển khai tại toàn bộ 98 chi nhánh trên cả nước, đồng thời ngân hàng cũng sẵn sàng thanh toán các loại thẻ tín dụng của hai tổ chức là Visa và Master.
Đáng chú ý hơn cả là Ngân hàng á châu ACB đã triển khai hệ thống quản trị ngân hàng bán lẻ mới TCBS trong trong toàn hệ thống, làm nền tảng cho việc phát triển ngân hàng điện tử á châu (ACB E.Banking). Sau ba năm chuẩn bị, sản phẩm dịch vụ ngân hàng điện tử đã chính thức hoạt động vào đầu năm 2003 với tổ hợp các kênh phân phối bằng điện tử với những sản phẩm dịch vụ ngân hàng của ACB dành cho khách hàng như Banking, Home Banking, Phone Banking, Mobile Banking, thẻ thanh toán. Đặc biệt dịch vụ Home Banking giúp khách hàng trên mạng kết nối tại văn phòng, tại nhà riêng. ACB E.Banking là kênh phân phối sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến khách hàng thông qua điện thoại cố định, điện thoại di dộng, máy tính, POS, Internet, Intranet, Wap... dịch vụ có thể thực hiện 24 giờ trong ngày và 7 ngày trong tuần. Hiện nay ACB đang cung cấp dịch vụ E.Banking hoàn toàn miễn phí. Đặc biệt, dịch vụ Home Banking do ACB cung cấp được bảo đảm an toàn nhờ hệ thống mã khoá bảo mật chữ ký điện tử của khách hàng (CA) do đơn vị thứ ba cung cấp (VASC). Công nghệ CA được các tổ chức tài chính quốc tế như Swift, Visa, Master... công nhận và sử dụng trong việc thanh toán điện tử. Các khách hàng sẽ được sử dụng tám dịch vụ chính như: Kiểm tra số dư tài khoản; Mua sắm hàng hoá không dùng tiền mặt (bằng dịch vụ Mobile Banking và thẻ ACB); Chuyển tiền giữa các tài khoản với nhau; Yêu cầu báo cáo về tình hình giao dịch tài khoản; Thanh toán các hoá đơn tiền điện thoại, nước...; Rút tiền từ tài khoản khi đang ở nước ngoài; Kiểm tra tỷ giá hối đoái, giá chứng khoán và hỏi thông tin về các tài khoản và dịch vụ ngân hàng.
Như vậy, có thể thấy rằng chúng ta đã có một số cơ sở ban đầu phục vụ cho việc thanh toán điện tử thông qua các ngân hàng của Việt Nam. Tuy nhiên, việc thanh toán điện tử vẫn còn tương đối mới mẻ đối với các doanh nghiệp, đa số các doanh nghiệp vẫn chưa thể cho phép khách hàng thanh toán trực tuyến tại website của mình thông qua các dịch vụ của ngân hàng. Đây cũng chính là một thách thức cho việc phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam trong thời gian tới.
6. Bảo mật thông tin
Internet là liên mạng toàn cầu với rất nhiều người, tổ chức tự nguyện tham gia và có thể tiếp cận tự do tới các đầu mối nối mạng khác trong hệ thống. Đây là mạng trao đổi thông tin điện tử lớn nhất từ trước tới nay có quy mô toàn cầu. Do vậy, kẻ gian có thể dễ dàng lợi dụng mạng Internet để lấy cắp, thay đổi hoặc phá huỷ thông tin từ các kho dữ liệu. Chúng cũng có thể tự do truy cập tới các đầu mối nối mạng để thực hiện các hành vi phá hoại khác như: làm sai lệch cấu hình máy tính, làm treo máy chủ, làm tê liệt sự hoạt động của mạng... Những tên tội phạm máy tính như vậy gọi là tin tặc (hacker). Những kẻ này thường tìm mọi biện pháp đột nhập vào các kho dữ liệu bí mật của các cơ quan chính phủ, an ninh, quốc phòng, cơ quan ngiên cứu khoa học, các ngân hàng, các hãng kinh doanh và cả các thông tin của các cá nhân.
Hiện nay, việc bảo đảm an toàn, an ninh cho thông tin điện tử ở Việt Nam được thực hiện như sau:
Đ Đối với các thông tin điện tử có liên quan đến các cơ quan của Chính phủ (như an ninh, quốc phòng, ngoại giao...), từ lâu nhà nước đã có các quy định chặt chẽ và các giải pháp kỹ thuật phù hợp để đảm bảo an ninh, an toàn cho loại thông tin này. Ngành cơ yếu Việt Nam đứng đầu là Ban cơ yếu Chính phủ là cơ quan nhà nước chịu trách nhiệm về bảo mật, bảo đảm an toàn cho việc chuyển nhận thông tin trên các phương tiện điện tử.
Đ Đối với các thông tin điện tử trong lĩnh vực kinh tế xã hội, việc bảo đảm an ninh, an toàn vẫn còn lỏng lẻo. Khi Việt Nam chính thức tham gia mạng Internet, nhà nước đã thành lập một cơ quan liên ngành Bưu chính viễn thông và Công an để quản lý, kiểm duyệt an ninh trên Internet và có một số văn bản quy định về vấn đề này. Tuy nhiên, vẫn phải thừa nhận rằng, hạ tầng cơ sở bảo mật thông tin cho thương mại điện tử hiện vẫn chưa hình thành đầy đủ ở Việt Nam, chúng ta còn phải xem xét một loạt các vấn đề như:
- An toàn thông tin trong hệ thống thương mại điện tử;
- Yêu cầu bảo mật cho các chủ thể tham gia thương mại điện tử;
- Vấn đề sử dụng mật mã để bảo mật thông tin trong hệ thống thương mại điện tử;
- Các giải pháp bảo mật thông tin.
7. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
Sự quan tâm của nhà nước đối với vấn đề bảo vệ sở hữu trí tuệ đã được thể hiện trong hệ thống luật pháp nước ta thông qua các điều luật, điều khoản cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật như Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Nghị định 63/CP về sở hữu công nghiệp, Nghị định 76/CP về quyền tác giả... Trong các văn bản này đã quy định rõ các đối tượng sở hữu trí tuệ được bảo hộ bao gồm: quyền tác giả; sáng chế; giải pháp hữu ích; nhãn hiệu hàng hoá; kiểu dáng công nghiệp; tên gọi xuất xứ hàng hoá; chỉ dẫn địa lý; bí mật kinh doanh; tên thương mại và chống cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp.
Tuy nhiên, việc bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn. Nạn hàng giả, sao chép trái phép băng đĩa, các chương trình phần mềm có bản quyền... vẫn đang diễn ra hàng ngày với quy mô và mức độ ngày càng trầm trọng và tinh vi hơn. Khi thương mại điện tử phát triển, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường Internet càng khó khăn hơn bởi các sản phẩm và dịch vụ số hoá truyền gửi trên Internet có thể bị sao chép một cách dễ dàng. Do vậy, việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ cần phải dựa vào nỗ lực của bản thân các doanh nghiệp, cụ thể là các doanh nghiệp trước hết phải tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ, quan tâm tìm hiểu các điều khoản liên quan đến sở hữu trí tuệ trong các văn bản pháp luật của nhà nước, các công ước quốc tế, các hiệp định thương mại song phương và đa phương để nghiêm túc thực hiện, tránh bớt các rắc rối khi làm việc với các đối tác trong nước và nước ngoài. Các doanh nghiệp cũng phải tự bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ của mình bằng cách nhanh chóng đăng ký bảo hộ cho sản phẩm của mình để có thể được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp.
II. Thực trạng áp dụng thương mại điện tử trong doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
1. Doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam
Tiêu chí xác định doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Nghị định 90/2000/NĐ-CP là: “Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành, có vốn không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. Với tiêu chí này, hiện nay ở Việt Nam có khoảng 80% doanh nghiệp nhà nước thuộc loại có quy mô vừa và nhỏ, chỉ trừ 20% doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn là các tổng công ty và một số doanh nghiệp nhà nước thuộc loại lớn, còn trong khu vực tư nhân, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ trọng 97% xét về vốn và 99% xét về lao động so với tổng số doanh nghiệp trong cả nước. Với tỷ lệ lớn như vậy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ này là một trong những nguồn động lực mạnh mẽ tạo nên sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế và là nơi tạo ra việc làm chủ yếu cho gần 90% lực lượng lao động ở cả nông thôn và thành thị nước ta. (Một cuộc điều tra gần đây do Bộ thương mại thực hiện cho thấy mỗi năm có khoảng 14.000 doanh nghiệp vừa và nhỏ ra đời, tạo ra khoảng 1.200.000 việc làm).
Thực tiễn quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam cũng như một số nước khác trên thế giới đã cho thấy vai trò quan trọng của nó trong nền kinh tế thể hiện ở một số lĩnh vực như: tạo công ăn việc làm mới, phát triển các ngành công nghiệp bổ trợ đối với các ngành công nghiệp mũi nhọn như chế tạo máy, điện tử và một số ngành khác, góp phần cải thiện cán cân thanh toán nhờ việc tăng xuất khẩu hàng hoá thành phẩm và thay thế hàng hoá nhập khẩu bằng hàng hoá sản xuất trong nước. Mặt khác, việc xoá đói giảm nghèo, công nghiệp hóa, hiện đại hoá nông nghệp - nông thôn, giảm sự chênh lệch giữa nông thôn và thành thị cũng có sự đóng góp của doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Từ bối cảnh nền kinh tế nước ta đang trong quá trình công ngiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập với nền kinh tế thế giới, xem xét đến đặc điểm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam, chúng ta có thể thấy doanh ngiệp vừa và nhỏ Việt Nam có những cơ hội và điểm mạnh sau:
- Quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới ngày một tăng nhanh, Việt Nam đã tham gia vào nhiều liên kết kinh tế quốc tế, do vậy, thị trường ngày càng được mở rộng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam;
- Chính sách hỗ trợ và khuyến khích xuất khẩu của Chính phủ đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam trong quá trình thâm nhập thị trường thế giới;
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính linh hoạt cao nên dễ thích ứng với sự biến động của thị trường thế giới, đồng thời có thể tiếp thu những kinh nghiệm quản lý tiên tiến và ứng dụng những thành tựu của khoa học công nghệ trên thế giới một cách có hiệu quả;
- Nhu cầu sử dụng đất thấp cộng với sự phân bổ đồng đều trên khắp cả nước cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ khai thác tốt những lợi thế so sánh của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh đó, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có không ít những thách thức và điểm yếu, đó là:
- Do chính sách mở cửa của Việt Nam cho phép tự do cạnh tranh nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam đang phải chịu sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt từ phía hàng hoá nhập ngoại;
- Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam còn thấp do công nghệ còn lạc hậu, mẫu mã chưa đa dạng, chất lượng sản phẩm chưa đồng đều. Các doanh nghiệp này vốn có khả năng tài chính thấp lại gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn huy động vốn để đổi mới công nghệ;
- Do quy mô doanh nghiệp là vừa và nhỏ nên việc sản xuất cũng diễn ra đơn lẻ, phân tán, quy mô nhỏ, từ đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có khả năng đáp ứng những đơn hàng lớn, đặc biệt là của thị trường EU và Mỹ;
- Thiếu thông tin cũng là một hạn chế rất lớn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay, nhiều doanh nghiệp vì thiếu thông tin về thị trường thế giới mà đã bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh, việc thiếu thông tin về công nghệ dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp nhập khẩu phải những thiết bị công nghệ lạc hậu, làm cho chi phí sản xuất cao, chất lượng hàng hoá thấp nên sức cạnh tranh của hàng hoá kém;
- Ngoài ra, một vấn đề khó khăn mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay đang phải đối phó là vấn đề bản quyền hàng hoá Việt Nam trên thị trường quốc tế đang bị xâm phạm ngày càng nhiều.
2. Thực trạng ứng dụng thương mại điện tử trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam
Với xu thế phát triển của nền kinh tế theo hướng tiến tới nền kinh tế số hoá và khởi đầu là phát triển thương mại điện tử, các doanh nghiệp vừa và nhỏ, với tỷ lệ lớn và tầm quan trọng không nhỏ trong nền kinh tế rất cần tham gia vào xu thế phát triển chung của nền kinh tế đất nước, đó là tham gia vào thương mại điện tử. Điều này càng có ý nghĩa lớn hơn đối với các doanh nghiệp này khi bước vào kỷ nguyên thông tin bởi thông tin, thứ mà nhiều doanh nghiệp đang thiếu, có vai trò quyết định đối với sự thành bại của doanh nghiệp trong môi trường kinh doanh với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay. Trong khi đó, sử dụng Internet và tiếp đó là tham gia vào thương mại điện tử là một cách hữu hiệu để doanh nghiệp khắc phục khó khăn này.
2.1 Nhận thức của các doanh nghiệp vừa và nhỏ về thương mại điện tử
Theo nghiên cứu của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, hiểu biết về thương mại điện tử của các doanh nghiệp vừa và nhỏ rất thấp và không đồng đều. Câu trả lời của hầu hết các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi được hỏi về thương mại điện tử là “Website chỉ để cho có, như mở thêm một phòng trưng bày sản phẩm mà không cần có người trông coi, chứ chẳng ích lợi gì nhiều cho chuyện làm ăn” hay “Công ty còn nhỏ nên chưa tính đến chuyện mở website”. Cũng vì thế mà điều tra của Bộ Thương mại cho kết quả là chỉ có khoảng 3% doanh nghiệp có sử dụng thương mại điện tử, 7% đang có ý định ứng dụng Internet vào kinh doanh và có đến 90% doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa quan tâm hoặc rất mơ hồ về chuyện làm ăn qua Internet.
Cũng vì nhận thức về thương mại điện tử còn thấp nên rất ít doanh nghiệp biết cách tìm thông tin và đối tác trên Internet thông qua các trang web thương mại điện tử. Thậm chí rất ít doanh nghiệp quảng cáo, marketing và cuối cùng là bán sản phẩm trực tuyến. Các doanh nghiệp đã có kết nối Internet, có trang web riêng và sử dụng Internet cho công việc kinh doanh chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh là những nơi mà hạ tầng kinh tế xã hội và Internet tương đối phát triển. Còn các doanh nghiệp ở các địa phương, do điều kiện hạ tầng còn nhiều hạn chế nên nhiều doanh nghiệp còn rất mơ hồ với Internet và việc ứng dụng Internet cho công việc kinh doanh.
Tuy nhiên, quan điểm về ứng dụng Internet và thương mại điện tử của các doanh nghiệp cũng rất khác nhau. Mỗi doanh nghiệp đều có lý do riêng của mình để tham gia hay chưa tham gia thương mại điện tử. Có ý kiến cho rằng trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay, Internet rất thuận lợi cho việc trao đổi thông tin, tìm kiếm khách hàng nhưng việc ứng dụng Internet mới chỉ dừng lại ở việc tìm kiếm thông tin chứ chưa thực hiện đầy đủ các chức năng của thương mại điện tử. ý kiến khác cho rằng thương mại điện tử chưa tạo ra được hiệu quả thực sự, các website trong nước chưa tạo ra tính thương mại hoá cao, e-mail gửi đến các đối tác chưa mang tính pháp lý còn đường truyền Internet còn chậm và gặp nhiều cản trở. Nhiều doanh nghiệp còn rất e ngại đối với thương mại điện tử với lý do khung pháp lý của nước ta còn thiếu nhiều điều luật để phân xử những hợp đồng làm ăn qua mạng nếu xảy ra tranh chấp, hàng hóa của chúng ta đưa lên giới thiệu trên mạng chưa nhiều trong khi chi phí viễn thông vẫn còn đắt đối với nhiều doanh nghiệp, ngoài ra, không thể không tính tới lý do khi tham gia thương mại điện tử thì tất yếu doanh nghiệp sẽ phải thay đổi cơ bản phương thức quản trị doanh nghiệp, quản lý nguồn cung cấp, chăm sóc và phân phối sản phẩm.
Tuy nhiên, có một điều kiện thuận lợi để nâng cao nhận thức của các doanh nghiệp về thương mại điện tử, đó là mức độ hiểu biết tỷ lệ sử dụng Internet ở các doanh nghiệp đang tăng lên. Theo kết quả cuộc khảo sát của Sở Khoa học công nghệ Thành phố Hồ Ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D4.doc