Đình Hương Trà nguyên thuỷ là một khu lăng miếu, dân làng gọi là “Miếu Ông”, tương truyền, những cư dân Đại Việt đầu tiên đến đây bằng đường thuỷ, trên đường đi họ gặp bão tố trên biển và nhờ một con cá voi cứu giúp mà thuyền của họ cập vào được bến sông của vùng đất này. Ít lâu sau, một trận bão khác đã đánh dạt một con cá voi vào mắt cạn rồi chết ở ngã ba sông, để tỏ lòng thành kính, biết ơn nhân dân đã lập miếu thờ “Ông Ngư”.
44 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3023 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu hệ thống đình làng ở thành phố Tam Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ban thưởng cho ông Trần Văn Túc đã có công trong việc đốc thuế ở tuần đò Tam Kỳ (sắc ban vào ngày 21 tháng 2 năm Đinh Hợi - 1767).
Có thể làng Hương Trà xưa là một khu vực sinh sống khá đông đúc của người Chămpa trước khi người Việt đến tiếp quản, dấu tích rõ nhất là một khu phế tích Chăm như chân móng tháp ở khu vực Trà Tây nằm ở đầu làng, làng cũng nằm gần khu vực đền tháp Chăm Khương Mỹ, tháp Một và di chỉ khảo cổ Bàu Dũ. Hiện nay, làng còn giữ tượng hai voi chiến Chăm, kiểu tượng này thường được đặt ở bệ cửa chính vào chân tháp. Tượng voi chiến ở di tích Hương Trà giống như tượng voi chiến tìm thấy ở của phế tích tháp Lạn thuộc khu tháp Chiên Đàn.
Làng Hương Trà xưa vốn là một cồn cát nằm giữa hai nhánh sông Tam Kỳ, sau này do nhu cầu vận chuyển, ngay từ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX người làng đã đắp một con đường đất nối với làng Hương Sơn thượng, vì vậy mà nhánh sông Tam Kỳ chảy về hướng làng Hương Sơn cạn dần và trở thành cánh đồng, nhánh còn lại của sông Tam Kỳ tiếp tục khoét sâu vào địa phận làng Phú Hưng bên hữu ngạn (tức xã Tam Xuân 1, Núi Thành ngày nay) khiến một phần đất của Tam Xuân trở qua dính liền với làng Hương Trà, rẻo đất đó chính là vùng Phú Lộc ven sông Bàn Thạch ngày nay.
“Con đường đắp” sỡ dĩ tồn tại được cho đến ngày nay là do người dân đã trồng rất nhiều cây sưa hai bên bờ sông để tránh sạt lở mỗi khi lũ về. Cây sưa, còn gọi là hương vườn, một loài cây thân gỗ rất chắc, cứ tới tháng ba âm lịch từ đầu đến cuối làng rực một sắc vàng thơm ngát. Theo cụ Trần Soa- một lương y nổi tiếng ở làng, cây này còn được người địa phương xưa gọi là Cửu lý hương (loài cây có hương thơm bay xa chín dặm). Và từ “ hương” trong tên gọi Hương Trà được lấy từ chính đặc trưng này của làng. Từ “trà” thì do ngày xưa bà con thường hay lấy lá của cây “chè phe” nấu uống, mỗi nhà đều có vại nước chè phe để trước nhà và thậm chí khách vãng lai khi đi qua làng cũng được bà con ở đây mời uống thứ nước này, nó rất ngọt và mát nên bà con xem nó như một loại trà hảo hạng, bởi vậy mà có câu:
“ Hương ba vĩnh bảo quang thiên cổ
Trà cẩm trường tồn kỷ vạn niên”.
2.1.2. Quá trình ra đời của đình làng Hương Trà
Đình Hương Trà thuộc làng Hương Trà (nay là phường Hoà Hương, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam). Ngôi đình toạ lạc trên một vùng đất cạnh bờ sông Tam Kỳ, nằm ở phía Đông Nam của thành phố. Nhìn về hướng Tây cách quốc lộ 1A khoảng 800m; hướng Đông - Nam giáp sông Tam Kỳ; Đông - Bắc giáp làng Phú Lộc, ven sông Bàn Thạch; Tây - Bắc giáp làng Hương Sơn.
Từ quốc lộ 1A theo đường Phan Chu Trinh đi về hướng Nam đến gần cầu Tam Kỳ, rẽ trái theo đường bêtông về hướng Đông, theo “rừng cừa” khoảng chừng 200m phía tay trái là đình làng Hương Trà (dân làng còn quen gọi tên khác là Chùa Ông).
Đình Hương Trà nguyên thuỷ là một khu lăng miếu, dân làng gọi là “Miếu Ông”, tương truyền, những cư dân Đại Việt đầu tiên đến đây bằng đường thuỷ, trên đường đi họ gặp bão tố trên biển và nhờ một con cá voi cứu giúp mà thuyền của họ cập vào được bến sông của vùng đất này. Ít lâu sau, một trận bão khác đã đánh dạt một con cá voi vào mắt cạn rồi chết ở ngã ba sông, để tỏ lòng thành kính, biết ơn nhân dân đã lập miếu thờ “Ông Ngư”.
Khi cuộc sống của dân làng trở nên ổn định, việc thờ cúng các tiền nhân và những người có công khai khẩn là một tín ngưỡng tồn tại trong phong tục tập quán người Việt, do vậy mà “Miếu Ông” được xây dựng thêm thành một ngôi đình khang trang. Theo lời kể của các bậc cao niên thì đình được xây dựng lại thành ba gian hai chái và miếu Ông trở thành gian hậu tẩm. Đình Hương Trà ban đầu là đình của làng Tam Kỳ, gian chánh điện thờ Thành Hoàng làng, còn tả ban hữu ban thờ các vị tiền hiền có công lập làng. Để thể hiện tinh thần cộng cư, người dân đã dùng hai khối sa thạch được chạm trổ công phu của người Chăm đặt hai bên tả, hữu cổng đình (Hiện nay, hai khối sa thạch này còn được lưu giữ ở ngôi trường làng). Như vậy, theo quá trình thành lập làng và bản sắc phong tướng Thần thì có thể nói ngôi đình được thành lập vào thế kỷ XVIII.
Ngôi đình quay mặt về hướng Đông - Nam, nơi có dòng sông Tam Kỳ chảy qua trước mặt, sân đình là một không gian khoáng đãng và hàng cây sưa rợp bóng che mát sân đình. Trải qua hai cuộc kháng chiến, đình nay đã không còn kiến trúc như ngày xưa, thực hiện theo lệnh tiêu thổ kháng chiến đình bị đập phá hết chỉ còn lại gian hậu tẩm tồn tại cho đến ngày nay. Hai trụ giữa đình được đắp hình con rồng uốn lượn chạy quanh cột đình và được gắn mảnh sành sứ, mái đình xuôi vào các viềm mái thẳng, được lợp bằng ngói âm dương. Trên chóp mái đắp nổi hình rồng “lưỡng long chầu nhật” được cẩn bằng sành sứ dân gian, các duôi mái từ dưới lên trên là hình các con vật như chim phụng đang uốn lượn, rùa, sư tử để thể hiện cho sự linh thiêng cũng như sức mạnh về tâm linh của ngôi đình.
Ba cửa chính đều được làm bằng gỗ, vòm cửa hình vòng cung khá đẹp. Vào bên trong ta có thể nhận rõ ngôi đình được xây dựng theo kiểu kiến trúc truyền thống “nhất gian nhị hạ” - một gian hai chái. Các hàng cột đều được làm bằng gỗ mít, các xà ngang trính được kết nối với nhau bởi các vì kèo, trính, đòn tay. Đà ngang được đâm xuyên có hai trảng quả đỡ lấy các xuyên thượng, trên đầu các cột gỗ đều được chạm khắc, trang trí hình muôn thú, hoa lá...Trên các gian thờ cũng được trang trí bởi các hình sơn thuỷ, tứ linh, tứ quý và đều có các câu đối trên gian thờ. Các gian thờ đều được bố trí theo lối truyền thống như:
Bên tả thờ Tam Vị Tiền Hiền, bao gồm tộc Trần, tộc Nguyễn và tộc Trần của vị tướng Thần.
Bên hữu thờ Tông công (liệt tổ liệt tông của các dòng tộc) và Tổ đức (những người có đức hạnh trong làng).
Ở giữa thờ phụng Thần Hoàng, vị tướng thần Trần Văn Túc đã được vua Lê Hiển Tông sắc phong với đôi câu đối :
“ Tổ đức tông công thiên tai như tại
Xuân thường thu tại vạn cổ trường tồn”.
Trong bà con vẫn còn lưu truyền câu chuyện về lòng nhân đức và tài năng của vị Thành Hoàng làng mình, vị tướng thần là người có tài cưỡi ngựa rất nhanh, có thể đi liền ba tuần đò mà không hề nghỉ ngơi, lập được công lớn, được vua ban thưởng nhiều ruộng đất ông đã để lại một nửa cho dân làng chia nhau làm ăn.
Đến đầu thế kỷ XX thực dân Pháp đặt cõi thống trị lên toàn cõi nước ta, xã Tam Kỳ được nâng lên thành phủ Tam Kỳ, khu chợ Vạn trở thành trung tâm kinh tế - xã hội của Tam Kỳ, vì vậy có rất nhiều người Hoa đến đây buôn bán làm ăn. Đình trở thành điểm hội tụ văn hoá và tín ngưỡng của cộng đồng Hoa - Việt - Chăm. Năm 1936, qua trung gian một số hương chức làng có tinh thần ngưỡng mộ gương trung liệt của Quan Vân Trường. Hội đồng trị sự Quan Công miếu ở Hội An lúc ấy đã chuyển giao bộ tượng phiên bản Quan Công, Chu Thương, Quan Bình đồng kích cỡ với bộ tượng thờ nơi Quan Công miếu (còn gọi là chùa Ông) cho làng. Từ đấy, bộ tượng được thờ ở đình và đó cũng là lý do tại sao người dân địa phương còn quen gọi đình là “Chùa Ông”. Đặt bộ tượng này vào đình làng Việt, các vị chức dịch có lẽ đơn thuần chỉ muốn nêu cao tinh thần trung liệt, sau cách mạng Tháng 8 khi một tượng bị lũ lụt cuốn trôi và một tượng bị dân quân du kích vô ý làm cháy, người làng đã không khôi phục cho đầy đủ nên hiện nay chỉ còn tượng Quan Công. Điều này đã đặt cho các nhiều người câu hỏi: Đã là đình sao còn gọi là chùa? Là đình Việt sao còn thờ danh tướng Trung Hoa? Đó phải chăng chính là sự mềm dẻo, tính dung hợp trong nền văn hoá Việt.
Đình Hương Trà không chỉ chiếm một vị trí quan trọng trong lịch sử dựng nước mà trải qua hai cuộc kháng chiến nơi đây còn là chứng tích về một thời gian khổ nhưng hào hùng của người dân Hương Trà. Trong cao trào của nhân dân Quảng Nam nổi dậy chống sưu cao thuế nặng (1906 - 1907) đây là nơi tổ chức các cuộc họp kín của các vị thân hào sĩ phu tiêu biểu như cụ Trần Cang và Trần Xáng; đây cũng là nơi gây dựng cơ sở và hoạt động bí mật của nhiều tổ chức Đảng ở Tam Kỳ, đây cũng là nơi mà địch chọn làm nơi giam cầm và tra tấn những người con yêu nước của dân tộc. Vì vậy mà sau năm 1975 các đồng chí Thị uỷ Tam Kỳ về họp tại đình, đồng chí Đỗ Thế Chấp - thường vụ Tỉnh uỷ Quảng Nam đề xuất công nhận làng là “căn cứ lõm” đã tồn tại suốt 21 năm chống giặc cứu nước, và dựng bia tưởng niệm “Chi bộ Đồng” tại đình vì những đóng góp của đất và người nơi đây.
2.1.3. Lễ hội tại đình làng Hương Trà
Hằng năm, đình có hai lễ chính vào các dịp “xuân - thu nhị kỳ” nhằm vào rằm tháng giêng và tháng bảy âm lịch, ngoài ra những ngày lệ của làng cũng được tổ chức như lễ Hạ Phan, Thượng Phan, Kỳ Yên... do các chức sắc trong làng lo liệu và được qui định cụ thể trong hương ước như:
Ngày 25 tháng Chạp là ngày Thượng Phan, do ban trị sự kéo Phan là một lá cờ “Quốc thái dân an” báo hiệu ngày cuối năm.
Ngày 7 tháng Giêng hạ Phan là báo hiệu hết bảy ngày xuân.
Ngày 15 tháng Giêng là lễ Kỳ Yên (cầu an) đây là ngày hội lớn. Lễ tế diễn ra rất trang nghiêm cúng tiền hiền hậu hiền và các bậc tiền nhân có công đức và tưởng niệm những nghĩa sĩ, những người dân của làng đã ngã xuống vì dân vì nước để trấn yên làng xã, cắt đoạn giải oan cho chúng sinh với những lễ vật không thể thiếu là hương, hoa, đèn, trầu, quả và thức ăn.
Ngày 15 tháng 7 lễ xá tội vong nhân - lễ cầu hồn, cầu cho mưa thuận gió hoà.
Ngày 20 tháng 10 hàng năm là lễ tá thổ cầu bông, còn gọi là lễ hạ điền cúng tế thần nông.
Đến nay, những bài văn cúng vẫn còn được lưu giữ bởi những cụ cao niên và ban trị sự đình, nội dung ca ngợi và tưởng nhớ các bậc có công dựng làng và mời các vị “về” hưởng lộc mà con cháu có được nhờ phước các vị đã để lại. Nội dung đại thể như sau:
“...đương vị cố lập đồng ưng suy tôn ngài Trần tướng thần phối tự tiền hiền tự kiết thành văn tế lễ:
Khai xã tiền hiền Nguyễn văn huý vinh chi thần vị.
Khai xã tiền hiền Trần văn huý nghiêm thị viết túc cung chi thần vị.
Khai xã phối tiền hiền tướng Thần Trần văn huý Túc thi chi thần vị.
Nhứt nhứt anh minh tôn linh tam vị qui dân lập ấp, cữ chứng vi tiên công đức kỳ lai viễn hỷ. Khẩn thổ khai canh tu đinh thành bộ. Ngận lao tự cổ du tồn kế thế tiếp tiên qui liên niên thừa kế...”
Những ngày lễ đều được người dân nhớ và đến ngày đó thì họ sắm sửa lễ vật đến thờ cúng và cầu xin, đồng thời với các nghi lễ trên bà con dân làng cũng tổ chức các hoạt động vui chơi sinh hoạt như đua ghe, chơi bài chòi, hát hò khoan và nhiều trò chơi dân gian khác.
Ngày xưa, bên cạnh ngôi đình hương tục cũng có những quy định nghiêm cấm các hành vi trái đạo đức, làm ảnh hưởng đến sự linh thiêng của ngôi đình như cấm thả trâu bò vào sân đình, cấm leo trèo hoặc đánh nhau, chưởi bới...nếu phạm phải bị làng treo “cói” phải nộp vạ mới được giải. Chiếc mỏ treo ở đình cũng là vật dùng để báo cho dân làng biết tình hình làng mình như thế nào, nếu đánh “ một hồi lại một dùi”- nhất gia nhất thì mọi người dân trong làng phải có mặt tại đình, nếu ai vắng mặt hoặc tới trễ thì phải giải trình nguyên nhân tại sao. Đánh “hai hồi lại hai dùi”- nhị gia nhị thì bán tín bán nghi, mọi nhà đều lo chuẩn bị gậy gộc, giáo mác đề phòng trộm cướp, giặc giã..., nhưng khi “ba hồi lại ba dùi”- tam gia tam thì mọi người lại trở về với cuộc sống bình thường, thiên hạ thái bình. Như vậy, người dân Hương Trà xưa vẫn có cuộc sống khá gắn kết với đình, “hướng” về nó.
Từ những giá trị trên, đình đã được UBND Tỉnh Quảng Nam công nhận là di tích Lịch sử - Văn hoá cấp tỉnh tại quyết định số 2024/QĐ- UBND ngày 19/6/2009. Đây là một sự ghi nhận có ý nghĩa rất lớn trong đời sống văn hoá tại địa phương và thực hiện tốt công tác quản lý, bảo tồn các giá trị di tích.
2.2. Đình làng Mỹ Thạch
2.2.1. Quá trình thành lập làng Mỹ Thạch
Làng Mỹ Thạch thuộc tổng Chiên Đàn, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam xưa. Làng có diện tích điền viên thổ trạch khá rộng, chia làm 14 xứ đồng bao gồm : Rừng Nho, Trà Nao, Bà Lai La, Tro Kiếu, Tro Vưng, La Ngá, Bí Thu, Đá Bạc, La Quay, Thông Dương, Bà Nà, Sanh Tắc, Cây Cầy, Gò Đá. Và được chia làm 5 xóm: xóm Mỹ Đông, Mỹ Tây, Mỹ Nam, Mỹ Bắc và Mỹ Trung. Theo ranh giới hành chính hiện nay thì xóm Mỹ Đông, Mỹ Bắc thuộc Phường Tân Thạnh; xóm Mỹ Trung và 1/2 Mỹ Tây thuộc phường Hoà Thuận, một nửa còn lại của xóm Mỹ Tây và Mỹ Nam thuộc phường An Mỹ.
Theo cụ Nguyễn Đương (85 tuổi), một bậc cao niên trong làng và cũng là người trông coi đình thì làng được thành lập vào những năm đầu thế kỷ XVIII, các bản gia phả hay sắc phong cũng bị thất lạc hết cả nên cũng không xác định được danh tính các bậc Tiền hiền Hậu hiền cũng như tộc họ nào đến trước, chỉ biết rằng hiện nay tộc Nguyễn và tộc Huỳnh là hai tộc họ lớn ở làng nhưng có phải là hai tộc họ khai canh khai khẩn hay không thì không ai dám chắc, những vị cao niên biết rõ hơn về làng thì đã mất từ lâu. Ngày xưa, làng cũng có một số ruộng hương điền khá lớn, hơn 30 mẫu tại đồng Bầu Biển thuộc xứ Rừng Nho, đồng Trường Đình thuộc xứ Tro Vưng và 3 mẫu đất vườn nay chính là khuôn viên của Văn Thánh Khổng Miếu.
Trước đây, người dân sinh sống chủ yếu bằng nghề nông và một số ít làm nghề chài lưới nhưng hiện nay thì nghề nông chỉ chiếm một phần nhỏ, đa phần người dân chuyển sang buôn bán và lập nghiệp bằng con đường học vấn, ruộng đất ở làng cũng không còn bao nhiêu do quy hoạch đô thị và phát triển công nghiệp ở tỉnh nhà.
Làng Mỹ Thạch cùng với làng Phương Hoà đã từng được xem là ranh giới Chăm- Việt trong thời đại lúc bấy giờ, người Chiêm Thành còn luyến tiếc vùng đất của mình nên thường xuyên quay lại quấy rối, vì vậy mà có câu ca dao:
“ ...Kể từ bến Ván kể ra
Cây Trâm, Trà Lý bước qua Bầu Bầu
Đi về chợ Vạn, Thầu Đâu
Phương Hoà, Mỹ Thạch đứng đầu con nghê”
“Quán bà Rầu, đầu con nghê ” (nay thuộc Quán Gò, Thăng Bình, Quảng Nam nhưng những di tích đó nay đã không còn nữa).
2.2.2. Quá trình ra đời của đình làng Mỹ Thạch
Đình làng Mỹ Thạch thuộc làng Mỹ Thạch, tổng Chiên Đàn, phủ Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Nay thuộc khối phố Mỹ Thạch Đông, phường Tân Thạnh, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Phía đông giáp con đường Bạch Đằng đang xây dựng, hướng bắc là dãy trường học cũ đã bỏ hoang và hướng nam là đất hoa màu của ông Nguyễn Tâm và ông Trần Giàu - những người dân trong làng, hướng Tây - phía sau lưng đình giáp với con đường làng.
Từ UBND thành phố Tam Kỳ đi thẳng về hướng Đông gặp đường quốc lộ 1A (đường Phan Bội Châu) rẽ tay phải đến Kho bạc tỉnh, đối diện là đường bêtông dẫn vào làng, theo đường này khoảng 1km rẽ trái là đến ngôi đình của làng.
Ban đầu đình được tạo dựng tại xứ Tro Vưng, đến năm Minh Mạng thứ 13 (năm 1833) không hiểu vì lý do gì đình được dời về xóm Mỹ Đông xứ Rừng Nho, nay là khối phố Mỹ Thạch Đông, phường Tân Thạnh.
Mặt chính của đình nằm về hướng đông, lệch về hướng bắc khoảng 300, nơi có dòng sông Bàn Thạch chảy qua. Cây đa cổ thụ che mát sân đình cùng với những hàng cây Bạc Hà, Dương Liễu hai bên bờ sông nên dân làng hay nghỉ ngơi ở đây khi ra đồng về, trẻ con thì ra đây chơi đùa bơi lội, ghe thuyền đi qua cũng neo lại đây để tiện lên bờ trao đổi cá tôm, cũng bởi vì lý do ấy mà dân làng cũng như những vùng lân cận hay gọi là Bến Đình, cái tên ấy vẫn đi liền với đình Mỹ Thạch cho đến hôm nay.
Ngày nay, đình là một công trình kiến trúc có hình chữ nhất với ba gian hai chái, các gian này được liên kết với nhau bằng khung sườn gỗ có tường gạch, đá ong liên kết vôi xi măng bao xung quanh. Cũng theo bác Đương thì khuôn viên ngôi đình trước đây rất rộng, cổng tam quan bao bọc ngôi đình và sát với bờ sông, từ cổng vào đình là bức bình phong được trang trí nằng kỹ thuật đắp nổi, gắn sành sứ công phu hình thú tứ linh. Ban đầu, đình được xây dựng theo lối chữ Đinh 3 gian 2 chái, gian giữa có phần hậu tẩm nhô ra phía sau, mái của gian thờ này bằng hình tháp và cao hơn các ngăn trước, hai bờ chái đầu hồi được trang trí hai con kỳ lân thể hiện sự dũng mãnh, uy nghiêm. Sau này, trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm với chủ trương tiêu thổ kháng chiến dân làng Mỹ Thạch đã tự nguyện tháo dỡ cổng Tam quan và đập phá tường rào, bình phong để bộ đội ta dễ bề kiểm soát khi địch đến.
Bên trong đình là sáu hàng cột được làm bằng gỗ mít, đế các cột được kê trên đá tảng và các đầu cột liên kết bằng kèo kẻ chuyền với hai đầu được chạm hình con giao, ngoài ra chúng được liên kết bằng các xuyên, xà và đòn tay tròn đặt trên kèo, giữa các xuyên thượng hạ đều có các ô xuyên bông trang trí hình hoa lá, bát bửu và thú tứ linh. Cây đòn đông được lận cong hai đầu, nối suốt ba gian, ở phần trên chính giữa điện thờ là bức hoành phi bằng chữ Hán ghi lại niên đại xây dựng ngôi đình “Minh Mạng thập tam niên, tam nguyệt kiến nhật tạo lập”- tức là ngôi đình được xây dựng vào ngày lành tháng tốt năm Minh Mạng thứ XIII, năm 1833. Lối vào ba gian đều được ngăn bằng cửa bảng khoa, mái được lợp bằng ngói âm dương. Do qua nhiều lần tu sửa nhưng nên cấu kiện gỗ bên trong đình chỉ giữ lại hầu rất ít, một số đuôi trính và đuôi kèo hiên đã được thay tế bằng gỗ kiền kiền và tô xi măng, quét vôi.
Năm 1964, sau một trận lụt lớn các tường hồi của đình bị đổ, hậu tẩm của đình cũng bị sụp, lúc bấy giờ làng không còn công quỹ nên các bị thân hào trong làng lúc bấy giờ đã kêu gọi nhân dân lấy đất sét làm hồ xây lại tường cho kín, lợp lại mái hiên để tránh mưa dột làm hư hỏng các cột gỗ bên trong đình.
Năm 1968, Mỹ nguỵ xây dựng lại Tín đường Quảng Tín, ruộng làng bị giải toả nên ban Ban quản trị và đại diện các chi tộc phái đã quyết định lập hai gian hàng ở chợ Kỳ Hương (năm 1956 chính quyền Mỹ Nguỵ thành lập xã Kỳ Hương, chợ cũng ra đời từ đó), giữ lại vốn kiếm tiền lời lo hương khói cho ngôi đình. Các bệ thờ được trang trí lại, ở gian giữa để chữ “ Thành” với đôi câu đối:
“ Mỹ tự hương yên phong nhã vận
Thạch đình phụng sự vĩnh tôn mưu”
Bên trên là thời gian tu sửa lại đình “Mậu Thân niên mạnh đông tu tả”_ tức là: được sửa chữa năm Mậu Thân 1968. Hai bên bệ thờ bên tả ghi chữ “Vũ Hậu” và bên hữu ghi “Quang Tiền”.
Năm 1976 sau khi nước nhà được thống nhất, người dân lưu tán nay quay trở về quê hương, chợ Kỳ Hương vì thế mà ế ẩm, hai gian hàng của làng ở chợ đành phải bán dùng vào việc tu sửa lại đình và lo việc phụng thờ, tấm hoành phi “ Lưu Mãi Ân Đức” được treo lên để thể hiện lòng biết ơn tổ tiên và cũng là ghi nhớ công lao của những người đã góp phần tu sửa lại đình.
2.2.3. Lễ hội chính tại đình làng Mỹ Thạch
Vào cuối năm dân làng cũng tổ chức cúng xóm ở đình, đầu năm vào ngày mồng một Tết cũng tổ chức cúng đầu năm, người dân những ngày này đem lễ vật đến cúng tế và cầu xin cho một năm mới tốt đẹp hơn. Ngày hội làng nhằm vào ngày 16 tháng 6 âm lịch hay còn gọi là lễ Kỳ Yên, những văn bản ấn chỉ vua ban để thờ tự được đặt vào kiệu để cung nghinh đi khắp xóm, chủ tế phó tể mặc áo rộng màu xanh, các bậc cao niên thì mặc áo dài khăn đóng, thanh niên tham gia rước kiệu thì mặc áo tiều phu, đội nón dấu, người cầm cờ cầm lọng rất linh đình, ngoài ra, dân làng còn tổ chức ăn uống, ca hát để người làng có dịp vui chơi, giao lưu cùng nhau.
Bài văn cúng tiền hiền vào dịp hội làng như sau:
“... Cảm cáo vu
Hoàng Thiên Hậu thổ vận phước nguyên quân.
tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh.
Chư tiên linh đồng thuỳ chứng giám.
Phục duy cẩn cáo:
Viết: Cung duy tiền hiền chi tiên linh.
Càn khôn hữu cương viết.
Nhựt nguyệt hữu hối minh.
Mộc chi hữu bổn, thuỷ chi hữu nguyên.
Nhân sinh hổi tổ, nhất nhất tùng tiền.
Duy ngã xã chi, tiền hiền đại công vị tần báo đáp.
................
Để xướng quy dân lập ấp. Cổ suý khẩn hoá khai hoang.
Thành lập xã hiệu:
Lấy phương danh là xã Mỹ Thạch.
Mỹ giả: Tân Mỹ, Tân Thiện, Chi Phong.
Thạch giả: Như thiết, như thạch, chi nhân.
Mỹ: Mọi việc làm điều tốt, thuần phong mỹ tục.
Thạch: Lòng người thật thà như thiết, sắt, như đá.
Cổ xưng là Mỹ Thạch.
Cho nên xưng là Mỹ Thạch.
Từ ấy đến nay gần tròn 600 năm.
Trải qua nhiều thế hệ.
Nhân khương, vật phụ, hoà lạc điền viên.
Nhật khương phát đạt, trù mật dân cư...”
Với những giá trị trên, đình đã được công nhận là Di tích Kiến trúc văn hoá nghệ thuật cấp tỉnh, là một ngôi đình có kiến trúc nghệ thuật độc đáo trên địa bàn thành phố Tam Kỳ và được công nhận theo quyết định số : 2387/ QĐUB ngày 9/8/1999.
2.3. Đình làng Phương Hoà
2.3.1. Quá trình thành lập làng Phương Hoà
Quá trình di dân lập nghiệp tiếp tục phát triển ở xứ Quảng Nam, nhiều làng tiếp tục được khai sinh và phát triển, trong đó có số vào xứ Đồng Rạ, Bàu Môn, Tro Xá, Đá Bạt, Bàu Trai... thuộc huyện Hà Đông. Năm vua Gia Long thứ nhất, trong quá trình củng cố đất nước, thiết lập một hệ thống bộ máy cai trị từ trung ương xuống địa phương, tiến hành xây dựng các đơn vị hành chính mới làng An Hoà xã ra đời, sau đổi tên thành làng Phương Hoà thuộc tổng Chiên Đàn, huyện Hà Đông. Đến năm 1906 (đời vua Thành Thái) huyện Hà Đông được chia ra làm hai, phía Đông gọi là phủ Tam Kỳ, phía Tây là huyện Tiên Phước. Làng Phương Hoà thuộc tổng Chiên Đàn, phủ Tam Kỳ cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Làng có đường quốc lộ 1A đi qua, phía Đông giáp sông Bàn Thạch, phía Tây và Bắc giáp xã Chiên Đàn cũ, phía Nam giáp làng Mỹ Thạch cũ. Làng Phương Hoà được chia làm ba ấp:
Ấp Hương Trường thuộc xứ Đồng Rạ có 4 xóm: xóm ông Lảm, ông Thược, ông Tần, ông Xin.
Ấp Hoà Đông thuộc xứ Tro Xá, Bàu Trai.
Ấp Hoà Tây thuộc xứ Bàu Môn và xóm ông Soạn thuộc xứ Đá Bạt.
Tướng Thần Võ Đình Thông là người có công khai cơ Tân lập An Hoà xã, ông sinh hạ được bốn người con (Xuân, Hạ, Thu, Đông). Người con trai trưởng tên Xuân ở lại làng, còn ba người con khác đi khai cơ lập nghiệp ở huyện Duy Xuyên, Tiên Phước ngày nay. Mộ tiền hiền được an táng tại xứ Đồng Rạ (xóm ông Thược) nay thuộc thôn Đàn Hạ (xóm Rổi) thuộc xã Tam Đàn, huyện Phú Ninh. Năm 1998 phái Duy Xuyên, Tiên Phước và con cháu tộc Võ đóng góp xây dựng lại khang trang, bảo quản thờ tự. Sau tộc Võ, tộc Trần được coi là Hậu Hiền, tổ ông Trần Đăng Ứng “kiến canh điền bộ”, tổ ông Trần Đăng Cậy “lập nghiệp cơ đồ”.
Người dân sống bằng nghề nông là chủ yếu, thời vụ phải dựa vào “nước trời” nên dân gian có câu “Tháng năm chờ đợi sao rua, tháng mười đồng chí làm mùa mới yên”. Ngoài ra, làng Phương Hoà nổi tiếng ở phủ Tam Kỳ lúc bấy giờ với nghề làm bún tươi truyền thống có cách đây gần 200 năm, ông tổ làm bún Đỗ Dột có vợ quê làng Cẩm Sa (Điện Bàn nay). Làng Cẩm Sa nổi tiếng với nghề này trong khắp xứ với câu hát “Ai từng ăn bún nhớ làng Cẩm Sa”, ông là người đã phổ biến, truyền nghề lại cho bà con trong vùng nhờ vậy mà đời sống người dân đã được cải thiện hơn. Hầu hết những người dân trong làng đều làm bún bên cạnh những thửa ruộng của mình, vì vậy mà làng còn có tên là Xóm Bún (tuy gọi là xóm nhưng địa vực phân bố rất rộng).
Ngoài hệ thống các đình đền, chùa miếu ra làng còn có số công điền, công thổ rất rộng, hơn 60 mẫu và 2 mẫu rừng để lấy củi, làng cũng đứng nghiệp chủ đập thời vụ ngã ba, tưới cho hơn 100 ha trong làng và các xã lân cận, nhiều lần địa chủ xã Chiên Đàn đến dụ dỗ mua chuộc không được kiện đến tri phủ Tam Kỳ nhưng không đủ chứng lý đành phải rút lui.
Trước đây, chỉ có con nhà khá giả hoặc con hương lý mới được đi học chữ Nho ở trường Tư Thục tại gia, về sau trường Tư Thục Hoà Tây được xây dựng - tiền thân của trường tiểu học Nguyễn Hiền nay, hiện nay còn một dăm trống khắc chữ Hán ấp Hoà Tây Phương Hoà mà trường Nguyễn Hiền đang sử dụng và một dăm trống phải 3 người vòng tay ôm mới đủ, da một con trâu chỉ bịt được một trống mặt hiện nay đang được ông Bùi Giáo cất giữ. 2.3.2. Quá trình ra đời của đình làng Phương Hoà
Đình Phương Hoà thuộc làng Phương Hoà, nay thuộc khối phố Phương Hoà Đông, phường Hoà Thuận, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Phía đông ngôi đình là trường mầm non Hoa Mai; phía tây giáp đường làng và các thửa T418/390, T142/390, T1226/1013; phía bắc giáp đường làng và các thửa T1113/440, T1178/264 (theo bản đồ địa chính của phường Hoà Thuận), phía nam giáp trường Tiểu học Nguyễn Hiền.
Từ trung tâm thành phố đi về hướng Bắc khoảng 4km, rẽ trái theo đường bêtông vào làng khoảng 1km là gặp ngôi đình.
Ngôi đình toạ lạc tại đồng Tro Xá, bên trường Phương Hoà, thuộc ấp Hoà Đông cũ nay là khối phố Phương Hoà đông là vị trí cuối cùng trong quá trình ngôi đình này được di dời (năm 1960), ngôi đình bị đổ nát quá nhiều do chiến tranh song bà con vẫn cố gắng khôi phục và đem về đây để làm hội quán, dùng làm nơi hội họp, sinh hoạt là chính. Ban đầu, đình được xây dựng trên một khu đất cao tại xứ Bàu Môn, sau thời gian xây dựng trong làng xảy ra nhiều chuyện không hay, xem lại thấy vị trí đình gần suối nước chảy, dân làng mới cho rằng bị ảnh hưởng long mạch nên dân làng làm ăn không nên nổi, đình được dời xuống khoảng 500m về cuối làng, ao nước trước đình khá sâu, mùa khô vẫn không cạn mà còn có thể tưới nước cho cho mẫu ruộng hương điền bên cạnh, trong khuôn viên trồng 3 cây cốc và bức bình phong vôi đá .
Lần thứ hai không rõ vì nguyên nhân nào mà đình lại được di dời lần nữa, cũng thuộc xứ Bàu Môn nhưng thuộc về ấp Hoà Tây cũ (nay từ nhà thờ Tin Lành Phương Hoà quốc lộ 1A đi về hướng Tây khoảng 400m). Cũng được xây dựng trên một khu đất cao và cùng với đình lúc này là sự kết hợp hài hoà với miếu thờ Thần Hoàng phía Bắc, phía Nam có Chùa và cách đó không xa là một ngôi miếu.
Qua lời kể của các cụ già trong làng, trước đây khi còn toạ lạc ở trong sân vườn đình xứ Tro Xá thì đình là một tổng thể kiến trúc tam quan, thành bao quanh, ba gian hai chái, có nhà trù
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_thuc_tap_tn_1_1__1652.doc