MỤC LỤC
TRANG
Trang tựa
Mục lục i
Danh mục các từ viết tắt v
Danh mục các bảng vi
Danh mục các hình vii
Lời mở đầu 1
Chương 1: MỞ ĐẦU 2
1.1 Tính cấp thiết của đề tài 2
1.2 Mục đích nghiên cứu 3
1.3 Nội dung nghiên cứu 4
Chương 2: TỔNG QUAN 5
2.1 Giới thiệu về thịt và vệ sinh an toàn thực phẩm trên thịt 5
2.1.1 Giá trị dinh dưỡng 5
2.1.2 Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng 7
2.1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của thịt 9
2.1.3.1 Quá trình vận chuyển 10
2.1.3.1 Tồn trữ 10
2.1.3.2 Giết mổ 10
2.1.4 Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng nguyên liệu thịt tươi 10
2.1.5 Vệ sinh an toàn thực phẩm trên thịt 12
2.1.6 Các hệ vi sinh vật gây hư hỏng và ngộ độc trên thịt 13
2.1.6.1 Ngộ độc thức ăn do vi khuẩn thương hàn ( Salmonella)
2.1.6.2 Ngộ độc thức ăn do vi khuẩn tụ cầu vàng ( Staphylococcus aureus) 13
2.1.6.3 Ngộ độc thức ăn do vi khuẩn độc thịt ( Clostridium botulinum) 14
2.1.6.4 Ngộ độc thức ăn do vi khuẩn Escherichia Coli (E.Coli) 14
2.2 Giới thiệu về C.botulinum 15
2.2.1 Giới thiệu chung về C.botulinum 15
2.2.2 Lịch sử phát hiện 15
2.2.3 Kiểu hình 16
2.2.4 Đặc điểm chung của C.botulinum 16
2.2.5 Đặc điểm sinh hóa 17
2.2.6 Cấu trúc 18
2.2.6.1 Cấu trúc phân tử 18
2.2.7 Yếu tố độc lực của C.botulinum 20
2.2.7.1 Đặc điểm của độc tố 20
2.2.7.2 Cơ chế gây độc 22
2.2.7.3 Cơ chế gây bệnh 23
2.2.8 Hội chứng ngộ độc thịt 24
2.2.8.1 Bệnh và các triệu chứng 24
2.2.8.2 Phát hiện và điều trị 26
2.2.8.3 Biện pháp phòng và kiểm soát 26
2.2.9 Những ứng dụng tuyệt vời của C.botulinum 28
2.2.9.1Trong y học 28
2.2.9.2 Trong thẩm mỹ 34
2.2.9.3 Hạn chế của C.botulinum 35
2.2.10 Các loại thực phẩm nhiễm C.botulinum 35
2.2.11 Tình hình nhiễm C.botulinum trên Thế Giới và Việt Nam 36
Chương 3 : PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH 38
3.1 Phương pháp truyền thống để xác định C.botulinum 38
3.1.1 Thiết bị và vật liệu 38
3.1.2 Môi trường, dụng cụ, hóa chất 39
3.1.3 Quy trình phân tích 40
3.1.3.1 Chuẩn bị mẫu trước khi phân tích 40
3.1.4 Phương pháp sử dụng môi trường Trypticase Peptone Glucose Yeast Extract với Trysin (TPGYT) 43
3.1.4.1 Chuẩn bị mẫu 43
3.1.4.2 Phát hiện tế bào vi khuẩn 43
3.1.4.3 Phát hiện độc tố botulin 46
3.2 Phương pháp hiện đại xác định C.botulinum 48
3.2.1 Phương pháp Enzym-Linled ImmunoSorbent Assay (ELISA) 48
3.2.1.1 Khái niệm 48
3.2.1.2 Quy trình thực hiện 49
3.3 Phương pháp PCR 54
Chương 4: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 58
4.1 Kết luận 58
4.2 Kiến nghị 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO 60
61 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2084 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu quy trình phát hiện Clostritridium botulinum trong thịt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lực của C.botulinum
2.2.7.1. Đặc điểm của độc tố
Độc tố botulin do vi khuẩn C.botulinum sinh ra (độc tố gây chết do làm suy hô hấp). Vi khuẩn C.botulinum có dạng hình que, sinh nha bào có sức đề kháng cao (đun sôi ở độ cao bằng mặt nước biển cũng không giết chết được vi khuẩn). Để tồn tại, C.botulinum cần rất ít oxy. Độc lực của botulin rất cao (chỉ cần 1 microgam hay 1 phần triệu gam đã có thể làm chết một người, một giọt chất độc này có thể làm chết cả trăm ngàn người). Nếu quy trình chế biến bảo quản không tốt trong chế biến thực phẩm (nhất là đồ hộp), thực phẩm có thể bị nhiễm vi khuẩn này. Phương pháp làm sôi kết hợp với điều áp có thể diệt được vi khuẩn. Nha bào của vi khuẩn không phát triển trong những đồ hộp có hàm lượng đường cao như mật ong, sirô nhưng có khả năng phát triển khi vào đường tiêu hóa của trẻ sơ sinh.
Ngộ độc botulin là một loại ngộ độc thực phẩm nặng do ăn các loại thực phẩm có chứa chất độc thần kinh mạnh được hình thành trong sự phát triển của cơ thể. Độc tố không bền nhiệt và có thể bị phá hủy nếu đun nóng ở 800C trong 10 phút hoặc lâu hơn. Các tỷ lệ mắc bệnh thấp, nhưng bệnh được quan tâm đáng kể vì tỷ lệ tử vong cao nếu không được điều trị ngay lập tức và đúng cách.
Có ba loại chính của botulism
Botulism thực phẩm là kết quả từ thực phẩm bị ô nhiễm, trong đó bào tử C.botulinum được sinh ra trong điều kiện yếm khí, điều này thường xảy ra trong thực phẩm đóng hộp.
Vết thương botulism là do độc tố sản xuất từ một vết thương bị nhiễm C.botulinum, điều này trở nên phổ biến hơn ở người dùng thuốc tiêm tĩnh mạch kể từ năm 1990, đặc biệt là những người sử dụng ma túy đen (black tar heroin) và những người tiêm ma túy vào da hơn là tiêm vào các tĩnh mạch.
Botulism trẻ sơ sinh là do tiêu thụ các bào tử của vi khuẩn C.botulinum, mà sau đó phát triển trong ruột và được hấp thu vào máu, việc tiêu thụ mật ong trong những năm đầu tiên của cuộc sống được xác định là yếu tố nguy cơ botulism trẻ sơ sinh .
Tất cả các hình thức botulism có thể gây tử vong và được xem là trường hợp khẩn cấp y tế. Botulism thực phẩm có thể được đặc biệt nguy hiểm vì nhiều người có thể bị ngộ độc do ăn thực phẩm bị ô nhiễm.
Bảng 2.6: Bảng phân loại yếu tố độc lực
Nhóm I
Nhóm II
Nhóm III
Nhóm IV
Độc tố
A, B, F
B, E, F
C, D
G
Proteolysis
+
-
Yếu
-
Saccharolysis
-
+
-
-
Species
Con người, động vật
Con người, động vật
Động vật
-
Độc tố gen
Nhiễm sắc thể
Nhiễm sắc thể
Bacteriophage
Plasmid
Close relative
C.spororgenes
C.putrificum
C.butyricum
C.beijernickii
C.haemolyticum
C.novyi type A
C.subterminale
C.haemolyticum
2.2.7.2. Cơ chế gây độc
Hình 2.4 Cơ chế gây độc của độc tố botulin [12]
Khi phát triển trên thực phẩm, C.botulinum tiết độc tố acethylcholine là một chất dẫn truyền thần kinh gây đáp ứng bằng tình trạng co thắt cơ. Botulin tác động như một độc tố thần kinh mạnh làm ức chế phóng thích acetylcholine, do đó gây kết quả như cắt dây thần kinh bằng chất hóa học, gây liệt phản hồi. Mặc dù có đến 7 loại BTX ( A, B, C1, D, E, F, G) gây liệt phản hồi do ức chế phóng thích acetylcholine tại đường nối thần kinh - cơ của các sợi cơ vân, chúng lại không giống nhau tại vị trí gắn kết trên tế bào niêm mạc và vị trí tác động. Có 7 loại nhưng 3 loại A, B và E thuộc loại hay gây ngộ độc và nguy hiểm, gây chết người do tác động lên hệ thống thần kinh. Thời kỳ ủ bệnh thường là 12-36 giờ nhưng cũng có thể từ 2 giờ đến 8 ngày với các triệu chứng lâm sang như đau bụng, buồn nôn, đau đầu, chóng mặt, hoa mắt có khi nhìn đôi, khó nuốt, khó thở... Ngộ độc C. botulinum còn phụ thuộc vào rất nhiều điều kiện như yếu tố môi trường, đặc tính thực phẩm, biện pháp bảo quản, tập quán sinh hoạt và ăn uống của nhân dân mà nguồn thực phẩm gây ngộ độc cũng khác nhau.
2.2.7.3. Cơ chế gây bệnh
Khi hoạt động của dây thần kinh vận động tạo nên sự khử cực ở đầu cuối của sợi trục (axon), acetylcholine sẽ được phóng thích từ tế bào chất vào khe synapse. Sự phóng thích acetylcholine được thực hiện bởi một chuỗi protein vận chuyển, phức hợp solule N-ethylmalemide-senitive factor attachment protein receptor (SNARE) ( yếu tố có thể hòa tan nhạy với N-ethylmalemide gắn lên thể nhận protein).
Khi độc tố botulin thâm nhập vào mô dịch, chuỗi nặng của độc tố thần kinh botulin này sẽ gắn chuyên biệt lên phân tử glycoprotein được tìm thấy ở điểm cuối của dây thần kinh tác động kiểu cholin. Sự gắn chuyên biệt này nguyên nhân cho tính chọn lọc cao của độc tố botulin đối với synapse tác động kiểu synapse. Sau khi xâm nhập, chuỗi nhẹ của độc tố thần kinh botulin gắn chuyên biệt lên phức hợp SNARE. Tùy các loại botulinum toxin khác nhau sẽ có các protein đích khác nhau. Botulinum toxin-A được tách thành SNAP-25, botulinum toxin-B được tách thành vách VAMP. Sự phân cắt chuỗi nhẹ của phức hợp protein trong màng tế bào là kết quả là dẫn tới sự khóa chặt các lỗ hổng. Khi mô đích là một phần cơ, xảy ra sự liệt nhẹ do xảy ra sự cắt bó dây thần kinh hóa học. Khi mô đích là tuyến ngoại tiết thì sự liên kết các chất ở các tuyến ngoại tiết thì sự tiết các chất ở các tuyến này bị khóa chặt. Sự ức chế quá trình xuất bào của acetylcholine bị loại bỏ bằng cách khôi phục lại sự thay thế của phức hợp protein SNARE.
Hình 2.5 Cơ chế gây bệnh của Clostridium botulinum
2.2.8. Hội chứng ngộ độc thịt [7]
Botulism là một căn bệnh bại liệt hiếm nhưng nghiêm trọng do botulin là độc thần kinh và là sản phẩm của vi khuẩn C.botulinum.
2.2.8.1. Bệnh và các triệu chứng
Các triệu chứng cơ bản của botulism gồm : làm tổn thương hệ thần kinh trung ương (đặc biệt là đến các tín hiệu từ não đến cơ bắp), gây liệt cơ rõ nhất là liệt cơ mắt (không có phản ứng với ánh sáng, song thị), liệt cơ vòm miệng, lưỡi hầu, gây nên biến dạng mặt, nguy hiểm nhất là gây liệt trung tâm hô hấp, tim dẫn đến tử vong.
Hình 2.6 Vịt bị tê liệt do độc tố botulin
Trẻ sơ sinh với botulism sẽ xuất hiện nôn nửa, kém ăn, táo bón, khóc yếu và cơ không phát triển. Nếu không chữa trị, những triệu chứng này có thể phát triển gây tê liệt cánh tay, chân, thân và các cơ bắp hô hấp. Các triệu chứng thường bắt đầu từ 18 – 36h sau khi tiêu thụ thực phẩm bị ô nhiễm, nhưng cũng có thể xảy ra sớm nhất là 6g hoặc trễ là 10 ngày sau khi tiêu thụ. Botulism có nhiều loại A, B, C, D, E nhưng loại A, B, E cho độc tố mạnh nhất.
Hình 2.7 Trẻ em bị nhiễm botulism
2.2.8.2. Phát hiện và điều trị
Cách trực tiếp và hiệu quả nhất để xác định chẩn đoán lâm sàng của botulism trong phòng thí nghiệm là chứng minh sự hiện diện của chất độc trong huyết thanh hoặc phân của bệnh nhân hoặc trong thực phẩm bệnh nhân tiêu thụ. Hiện nay, phương pháp sử dụng rộng rải nhất để phát hiện chất độc là thử nghiệm trung hòa ở chuột, trong đó bao gồm việc tiêm huyết thanh hoặc phân người bệnh vào chuột và tìm kiếm các dấu hiệu của botulism, thử nghiệm này thường mất 48 giờ. Nuôi mẫu vật mất từ 5 – 7 ngày.
Những suy hô hấp và tê liệt nghiêm trọng xảy ra với botulism có thể để bệnh nhân sử dụng máy thở (thông gió) cho 1 tuần, cộng với chuyên sâu về y tế và chăm sóc điều dưỡng. Sau vài tuần, tê liệt từ từ được cải thiện. Nếu chẩn đoán sớm, botulism thực phẩm và botulism vết thương có thể được điều trị bằng một khối chất kháng độc, hoạt động của các độc tố lưu hành trong máu này có thể ngăn ngừa bệnh xấu đi, nhưng phục hồi vẫn phải mất nhiều tuần lễ. Bác sĩ có thể thử loại bỏ thực phẩm bị ô nhiễm còn trong ruột bằng cách cho nôn ra hoặc rửa ruột. Đối với vết thương cần được điều trị, thường là phẫu thuật, để loại bỏ các nguồn sản xuất vi khuẩn chất độc hại này bằng cách cung cấp thuốc kháng sinh thích hợp. Hỗ trợ chăm sóc tốt tại bệnh viện là yếu tố chính của liệu pháp cho tất cả các hình thức bị nhiễm botulism.
2.2.8.3. Biện pháp phòng và kiểm soát bệnh
Các biện pháp phòng
Sử dụng thực phẩm tươi, sạch.
Bảo quản thực phẩm : ướp muối, ướp lạnh thực phẩm ngay sau khi sơ chế thực phẩm.
Không sử dụng thực phẩm sống : gỏi cá, mắm tôm hoặc các loại mắm ăn sống…
Đun nấu lại thức ăn, thực phẩm đóng hộp.
Không ăn tiết canh, lòng nấu chưa chín.
Vệ sinh nấu nướng, thực phẩm, rửa tay sạch trước khi pha chế nấu nướng thức ăn và trước khi ăn.
Sử dụng sữa tiệt trùng ở nhiệt độ cao, sữa và các chế phẩm sữa theo tiêu chuẩn HACCP đảm bảo vệ sinh và chất lượng an toàn thực phẩm, sữa có chứa sữa non colostrum giàu kháng thể ngừa bệnh tật.
Thực phẩm nghi ngờ có vi khuẩn độc thịt nên đun sôi liên tục trong 2 giờ.
Các đồ hộp thịt, cá thấy bị phòng thì loại ngay.
Các biện pháp kiểm soát
Các biện pháp để ngăn chặn botulism bao gồm giảm mức độ ô nhiễm vi sinh vật, quá trình acid hóa, giảm mức độ ẩm, và bất cứ khi nào có thể, tiêu hủy tất cả các bào tử botulism trong thực phẩm. Chế biến thực phẩm đóng hộp đúng cách sẽ không có sự hiện diện của C. botulinum.
Một thực phẩm có thể chứa C. botulinum vẫn không có khả năng gây ra botulism nếu các sinh vật không phát triển, không có độc tố được sản xuất. Mặc dù, nhiều loại thực phẩm đáp ứng các yêu cầu về dinh dưỡng cho sự phát triển của C. botulinum, không phải tất cả đều cung cấp các điều kiện kỵ khí cần thiết.
2.2.9. Những ứng dụng tuyệt vời của C.botulinum
2.2.9.1. Trong y học
- Chữa chứng giật mi mắt
Vài chục năm trước, các thầy thuốc đã có suy nghĩ độc đáo: tiêm botulotoxin (BoNT-A) vào cơ mắt, làm liệt có mức độ các cơ này sẽ chữa được bệnh mắt hay giật. Thử nghiệm này thành công, trở thành liệu pháp chữa giật mi mắt hiệu quả.
- Chữa chứng co cứng cơ
Tiêm vào cơ ở chỗ tận cùng thần kinh BoTX-A ức chế sự phóng thích chất dẫn truyền acetylcholin, làm giảm sự co cứng cơ. Sau tai biến mạch máu não có 60% người bị co cứng cơ chi trên và chỉ 5% trong số này có thể hồi phục. Co cứng chi trên cùng với việc mất đi các phản ứng kết hợp khéo léo làm cho người bệnh khó khăn trong vận động, không thể chủ động trong cuộc sống (khó mặc quần áo, cầm thìa nĩa, khó rửa lòng bàn tay). Tiêm tại chỗ, BoTX-A chỉ cho tác dụng khu trú, không tác động trên các cơ lành, cũng không gây ra các tác dụng độc chung. Tương tự như cơ chế trên, tiêm BoTX-A vào ở chỗ nối thần kinh - cơ sẽ gây liệt cơ vân nên chống được tắc nghẽn niệu do phì đại tiền liệt tuyến.
- Chữa chứng tiết nhiều nước bọt
Trong các bệnh thần kinh như Parkinson, bại não, thoái hoá thần kinh, đột quỵ, xơ cứng bên (amyotrophic lateral sclerosis) thường có chứng tiết nhiều nước bọt, ảnh hưởng không tốt đến hình ảnh, hoạt động giao tiếp của người bệnh. Lần lượt có nhiều tác giả Friedman, Potuska, Jongerius (2001); Suskin, Tuilon, Bothwell (2002), Ellies (2002-2003); Cheng, Mancini (2003) đã nghiên cứu dùng BoTX-A và BoTX-B chữa chứng này. Các nghiên cứu này tuy chưa lớn, nhưng đều nhận thấy có hiệu quả, chưa ghi nhận tai biến, trừ trường hợp trong bệnh xơ cứng bên. Tuy nhiên, trong bệnh xơ cứng bên, nếu tiêm vào tuyến mang tai hay các tuyến dưới hàm cũng giảm thiểu được tai biến này.
Điều trị bướu lành tuyến tiền liệt
Tiêm độc tố botulinum không phải là phương pháp điều trị dứt điểm triệu chứng bí tiểu do bướu lành tiền liệt tuyến mà chỉ là điều trị triệu chứng nhằm cải thiện chất lượng cuộc sống của bệnh nhân thông qua việc làm giảm co thắt của các cơ vùng cổ bọng đái và theo nghiên cứu có thể một phần làm giảm kích thước bướu thông qua quá trình chết có lập trình nên chỉ định của chúng tôi là bệnh nhân già yếu không thể thực hiện phẫu thuật được và không hy vọng có thể điều trị dứt điểm bệnh lý bướu của bệnh nhân. Vì thế vấn đề truy tầm ung thư tiền liệt tuyến đối với các bệnh nhân này là không đặt ra. Tuy nhiên theo nghiên cứu của một số tác giả sau khi tiêm thuốc một thời gian thì PSA có giảm nhưng chúng tôi hoàn toàn không có kinh nghiệm về vấn đề này. Để hiểu biết hơn lý do tại sao PSA có giảm và thời gian tác dụng lâu hơn 6 tháng chúng tôi có tiến hành sinh thiết tiền liệt tuyến trước và sau tiêm độc tố botulinum thì nhận thấy các tế bào tuyến dẹt đi nhiều nên có thể phỏng đoán độc tố botulinum có khả năng làm giảm các tế bào tuyến chứ không chỉ đơn thuần tác động trên thần kinh, và do ảnh hưởng trên tế bào tuyến tiền liệt nên làm giảm PSA.
Trong nhóm nghiên cứu này chúng tôi có một bệnh nhân có tổng trạng tương đối nhưng mắc đồng thời bướu tiền liệt tuyến và bướu bàng quang nên không giải quyết bướu tiền liệt tuyến đồng thời với bướu bàng quang vì sợ gieo rắc tế bào bướu nên bệnh nhân chấp nhận cắt đốt bướu bàng quang trước và bơm độc tố botulinum để có thể tạm tiểu được và sẽ giải quyết triệt để bướu tiền liệt tuyến sau. Ngoài ra chúng tôi cũng có một bệnh nhân có ca gan phối hợp,đơn vị bạn ngại giải quyết phẫu thuật nên chuyển thực hiện tiêm độc tố botulinum. Từ đó chúng tôi nhận thấy tiêm độc tố botulinum là phương pháp điều trị thích hợp cho các bệnh nhân bị ung thư giai đoạn tiến xa và đồng thời bị bí tiểu do bướu tiền liệt tuyến
+ Đường tiêm độc tố botulinum
Có 2 đường dùng để tiêm thuốc là đường qua tầng sinh môn: có thể thực hiện mù dưới sự hướng dẫn của ngón tay hay dưới hướng dẫn của siêu âm qua ngã trực tràng. Còn đường thứ hai là qua niệu đạo với máy soi niệu đạo bàng quang. Đường tiêm thuốc qua tầng sinh môn được thực hiện đầu tiên và tỏ ra có hiệu quả. Tuy nhiên theo một số tác giả đường nào cũng hiệu quả như nhau, lựa chọn đường tiêm thuốc chủ yếu là theo kinh nghiệm của thầy thuốc cũng như dựa vào trang thiết bị của cơ sở. Vấn đề chủ yếu là tiêm được vào tiền liệt tuyến ở gần cổ bàng quang và ở gần vùng cơ trơn niệu đạo. Thường các nhà Niệu khoa thích tiêm thuốc ngã xuyên niệu đạo còn nếu được thực hiện bởi một bác sĩ chẩn đoán hình ảnh thì chọn ngã qua tầng sinh môn.
+ Thời gian để có hiệu quả
Theo các nghiên cứu trước để có hiệu quả nên chờ đợi từ 5-7 ngày để có tác dụng . Ở các bệnh nhân của chúng tôi sau thời gian 7 ngày bệnh nhân được rút thông và tự tiểu được nhưng vì còn tiểu gấp với lượng nước tiểu ít nên chưa kịp khảo sát niệu dòng đồ, chúng tôi có hẹn bệnh nhân quay trở lại sau một tuần để khảo sát niệu dòng đồ thấy tiểu thông Qmax ≤ 10ml/giây tuy dòng tiểu vẫn còn yếu hơn ở người trẻ nhưng các bệnh nhân đều rất hài lòng. Có một số trường hợp sau đặt thông tiểu một thời gian bệnh nhân có thể tiểu được sau khi rút thông nên có thể lầm với hiệu quả của thuốc nhưng ở các bệnh nhân trong nhóm nghiên cứu bị bí tiểu từ nhiều tuần đã được đặt thông tiểu lưu và dùng nhiều thuốc vẫn không hiệu quả, chỉ sau khi tiêm thuốc bệnh nhân mới tự tiểu được nên chúng tôi cho là do hiệu quả của thuốc.
+ Lý do thất bại
Như đã đề cập trong phần kết quả trong loạt nghiên cứu này chúng tôi có một trường hợp thất bại do bọng đái không co bóp nên có thể phải thực hiện đo áp lực đồ bọng đái như là xét nghiệm tiền phẫu trước khi tiêm độc tố botulinum nhưng việc này ít khả thi vì đa số bệnh nhân đều quá già, nhiều bệnh phối hợp nên ít nhiều đều có ảnh hưởng lên trương lực cơ chóp bọng đái nên nếu thấy giảm trương lực bọng đái cũng không thể cho là chống chỉ định của thủ thuật tiêm độc tố botulinum.
KẾT LUẬN
Cho tới thời điểm hiện nay cắt đốt nội soi tiền liệt tuyến là phương pháp điều trị chủ yếu cho các bế tắc đường tiểu do bướu tiền liệt tuyến nhưng vẫn không thể giải quyết được tất cả những tình huống phức tạp như ở các bệnh nhân quá già, có nhiều bệnh lý phối hợp, tiêm độc tố botulinum có thể là một trong các biện pháp hữu hiệu để giải quyết các tình huống này. Tuy nhiên, do chưa có nhiều kinh nghiệm nên để xác định được hiệu quả của phương pháp này chúng ta cần phải có những nghiên cứu lâu dài với số lượng bệnh nhân lớn hơn.
- Chữa chứng tiết mồ hôi khu trú nguyên phát
Nghiên cứu của Naumann (2001 và 2002) cho biết: trong trường hợp đổ mồ hôi vừa và nặng, dùng BoTX-A tiêm dưới da cho hiệu quả tới 94% trong khi ở nhóm chứng chỉ đạt 36%. Trong thử nghiệm này, nhóm chứng cho tác dụng phụ nhiễm khuẩn cao hơn nhóm tiêm BoTX-A. Các tác giả sau đó Dressler, Benecke, Baumann, Halem (2003) cũng lặp lại thử nghiệm này với BoTX-B cho kết quả tương đương, tuy nhiên có gặp tác dụng phụ là làm khô miệng, gây khó khăn trong điều tiết mắt. Hiện BoTX-A được chỉ định chính thức dùng cho chứng tiết mồ hôi khu trú vừa và nặng tại nhiều nước như Canada, Australia, Vương quốc Anh.
Hình2.8 Botox giúp ngăn đổ mồ hôi và chữa chứng đau cơ xương
-Chữa chứng đau cơ xương
Foster (2001) đã thử nghiệm dùng BoTX-A điều trị đau cơ xương thắt lưng mãn tính. Các kết quả cho thấy: trên nhóm dùng BoTX-A có 73% người dùng giảm được 50% các triệu chứng (tính theo thang điểm nhìn) và có 67% giảm được sự tàn tật (đánh giá bằng bộ thang điểm câu hỏi đau thắt lưng OLBPD), trong khi trên nhóm chứng các tỷ lệ tương ứng này chỉ là 25-19%. Lang (2003) cũng đề nghị dùng BoTX-A để cải thiện đau do làm giảm trương lực, giảm hoạt động quá mức của cơ, coi như một liệu pháp giảm đau đa phương thức, có lợi hơn cách trước đó là làm hồi phục chiều dài bình thường và sự cân bằng sinh học của cơ.
-Chữa các chứng đau nhức đầu
Có thể tiêm BoTX-A vào các cơ vùng mặt hay vào các điểm đau cho các trường hợp nhức đầu mà nguyên nhân chưa xác định rõ. Nghiên cứu hồi cứu (Blumenfeld-2003): trong 271 người (bao gồm 29 nhức đầu Migraine, 19 nhức đầu do căng thẳng, 74 bị nhức đầu hỗn hợp, 154 nhức đầu mãn tính xảy ra hàng ngày) dùng BoTX-A thấy làm giảm được số ngày nhức đầu tính theo tháng từ 19 xuống 8 ngày, giảm được cường độ đau từ 2,4 điểm xuống 1,8 điểm. Cũng như thế với 263 người khác cũng thấy có 85% số người dùng BoTX-A giảm được về số ngày nhức đầu trong tháng, giảm được cường độ đau. Trước đó Silberstein (2000) và Foster (2001) thực hiện các thử nghiệm có đối chứng với giả được cho biết BoTX-A thực sự có lợi ích trên chứng nhức đầu. Tsui (1986) và Brashear (1999) cũng thấy BoTX-A, BoTX-B có làm giảm đau trên các rối loạn trương lực cổ.
Tổ chức thực phẩm và dược phẩm (Mỹ FDA) cho phép Fidaxomicin điều trị nhiễm Clostridium difficile (CD) cho trẻ từ 16 tuổi trở xuống
Mỗi năm nhiễm C.difficile ảnh hưởng đến 700.000 người dân Mỹ và thường được chỉ định các kháng sinh phổ rộng (Cephalosporin hay Flouroquinolone) tuy nhiên việc sử dụng này ảnh hưởng đến hệ vi khuẩn đường ruột và cho phép C.difficile phát triển. Vấn đề được đặt ra ở bệnh viện và cả cộng đồng là khi sử dụng các kháng sinh trên thì thất bại điều trị và tỷ lệ tái phát ngày càng tăng.
Fidaxomicin là thuốc đầu tiên trong nhóm kháng sinh Macrolide mới phổ hẹp hoạt động bằng cách ức chế men Polymerase RNA. Qua quan sát các nghiên cứu lâm sàng, Fidaxomicin tiêu diệt C.difficile một cách chọn lọc, ít ảnh hưởng đến hệ vi khuẩn đường ruột. Điều này giúp ruột trở lại điều kiện sinh lý bình thường và từ đó giảm tỷ lệ tái phát C.difficile .
Theo các báo cáo trước đây đăng trên Medscape Medical News, dữ liệu từ 2 thử nghiệm lâm sàng giai đoạn 3 đã chứng minh Fidaxomicin hiệu quả điều trị không kém hơn so với Vancomycin. Tỷ lệ tái phát thấp hơn khi điều trị C.difficile cho người lớn.
Fidaxomicin hiện đang được FDA và Hội đồng Châu Âu xem xét tiêu chuẩn trong điều trị nhiễm C.difficile ở người lớn và dự phòng tái phát.
Hình 2.9 Hình ảnh về thuốc diều trị nhiễm Clostridium difficile
2.2.9.2. Trong thẩm mỹ
Sự co các cơ đã gây nên các vết nhăn gợn sóng ở trán, vết nhăn chân chim ở khoé mắt. Trước cả khi ứng dụng vào y học, các thầy thuốc thẩm mỹ đã táo bạo tiêm vào cơ bắp trên mặt, làm liệt có mức độ các cơ này, xoá vết nhăn. Mãi đến tháng 4/2002, FDA (Mỹ) mới chính thức cho lưu hành, nhưng ngay từ năm 2001 đã có 1,6 triệu người Mỹ tự nguyện dùng thử, doanh số bán ra hàng năm lúc ấy 301 triệu USD và đến năm 2006 thì vượt qua ngưỡng 1 tỷ USD. Đối với việc dùng BoTX-A, nếu trong y học đi từng bước thăm dò, dè dặt thì trong thẩm mỹ lại sớm được ưa chuộng và dùng phổ biến.
Hình 2.110 Tiêm BoTX-A điều trị vết nhăn
2.2.9.3. Hạn chế của C.botulinum
BoTX-A chỉ xoá được các nếp nhăn do co cơ (ví dụ co cơ khi vui, khi buồn) nhưng không thể xoá vết nhăn do lão hoá (do giãn và trùng cơ). Vì thế, không thể làm cho người già tươi tắn lại như nhiều người vẫn nhầm tưởng. Khi vui, khi buồn thì có sự co cơ tương thích tạo nên nét rạng rỡ hay ủ dột. Làm liệt các cơ này thì xoá được nếp nhăn, song cũng lại mất đi sự co cơ để biểu lộ tình cảm. Nói một cách khác, xoá vết nhăn sẽ tạo nên người đẹp nhưng nhìn bên ngoài dường như là "người đẹp vô hồn". Mỗi lần xoá nếp nhăn chỉ kéo dài được 5-6 tháng, sau đó sẽ nhăn trở lại, và nếu muốn tiếp tục thì lại phải đến điều trị trở lại nhưng dường như sự vô cảm bên ngoài càng rõ hơn.
Dùng BoTX-A cần có hai thủ thuật cực kỳ quan trọng là phải tiêm đúng cơ bị bệnh, tiêm đúng vào đầu thần kinh cơ. Trong thẩm mỹ, nếu tiêm không đúng sẽ làm liệt cơ chỗ khác, sinh ra nếp nhăn khác, kéo lệch hay biến dạng mặt. Trong y khoa, nếu tiêm không đúng sẽ không chữa được bệnh tại nơi cần trong khi đó lại gây giảm trương lực cơ tại nơi khác. Dùng BoTX-A còn có một điều quan trọng thứ hai là phải thăm dò, chọn được liều thích hợp. Cả trong thẩm mỹ cũng như trong y học, việc dùng quá liều sẽ gây phản tác dụng, tức là gây ra tác dụng ngoài ý muốn, làm liệt hay ức chế đau quá mức. Kể từ khi BoTX-A được dùng tới nay cũng đã có nhiều vụ kiện do các tai biến này gây ra. Hiện nay, hầu hết các nghiên cứu phần lớn là trên BoTX-A, thấy có hiệu quả, ít độc, nhưng chưa nhiều trên BoTX-B, thấy có hiệu quả tương đương nhưng có độc hơn.
2.2.10. Các loại thực phẩm nhiễm C.botulinum
Botulin là độc tố đã được chứng minh có nhiều trong các loại thực phẩm đồ hộp như ngô đóng hộp, ớt, đậu xanh, súp, củ cải, măng tây, nấm, chín ô liu, rau bina, cá ngừ, thịt gà và gan gà và pate gan, và các loại thịt, xúc xích, tôm hùm, thịt hun khói và cá muối...
Hình2.11 Đồ hộp và trái cấy nhiễm C.botulinum
2.2.11 Tình hình nhiêm C.botulinum trên thế giới và tại Việt Nam
Ở Hoa Kỳ nhiễm C.botulinum chủ yếu trong đồ hộp rau quả như: ớt, đậu xanh, súp, củ cải, măng tây, nấm, chín ô liu, rau bina, cá ngừ, thịt gà. Gần đây, tại Hoa Kỳ sản phẩm tương ớt đóng hộp thuộc nhiều nhãn hiệu đang được thu hồi sau khi có 4 người nhập viện vì bệnh botulism phát sinh từ độc tố có trong sản phẩm của công ty Castleberry"s.
Ở Nga, ngộ độc cá.
Ở Đức do ăn các thức ăn làm bằng thịt chế biến sẵn, ăn nguội, dăm bông, xúc xích...
Nhật Bản - 36 người bị bệnh và 11 người đã thiệt mạng sau khi ăn chiên nhồi rễ sen. Rễ sen được chân không đóng gói và bán unrefrigerated. Các điều kiện này được cho phép cho sự phát triển và sản xuất độc tố của
C. botulinum.
Canada - Ít nhất 37 người đã bị ảnh hưởng sau khi ăn tại một nhà hàng mà được sử dụng một nhiệt độ lạm dụng unacidified tỏi trong dầu vốn đã được bảo quản ở nhiệt độ phòng.
USA - Các trường hợp ngộ độc đã xảy ra do việc tiêu thụ khoai tây salad. Ba ổ dịch đã xảy ra, kết quả là 50 người bị bệnh và tử vong một. Người ta cho rằng các C.botulinum được hiện diện trong khoai tây nướng được sử dụng cho salad này. Những đã được lưu trữ ở nhiệt độ môi trường xung quanh trong nhiều ngày trước khi sử dụng.
Mỹ - Xào hành tây đã được liên quan đến một ổ dịch tại một nhà hàng ở Mỹ. 28 người đã bị ảnh hưởng, với một tử vong.
Anh - bị ô nhiễm sữa chua hazelnut chịu trách nhiệm về một ổ dịch dẫn đến 27 người bệnh và tử vong một. C.botulinum là nghiền hazelnut được sử dụng trong da ua.
Vào ngày 23/3, 17 bệnh nhân nặng nhất trong vụ ngộ độc do ăn măng tre ở tỉnh Nan (Thái Lan) đã được đưa lên Bangkok điều trị. Năm 1991, 90 người ở Ai Cập đã phát bệnh sau khi ăn thức ăn chứa vi khuẩn C.botulinum.Theo Christopher Braden, chuyên gia Trung tâm Atlanta của Trung tâm Kiểm soát và Phòng bệnh của Mỹ (CDC). Chủ yếu do cá.
Việt Nam – Trẻ sơ sinh bị nhiễm độc tố botulin do cha mẹ trơ lưởi bằng mật ong.
Chương 3: PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH
3.1. Phương pháp truyền thống để xác định C.botulinum [6]
3.1.1. Thiết bị và vật liệu
Tủ lạnh
Giấy thấm khô
Đèn cồn
Dụng cụ vô trùng
Cối và chày vô trùng
Kẹp ghép vô trùng
Pipet có nút và bông gòn vô khuẩu
Dụng cụ phân phối chất lỏng
Ống nghiệm vô trùng ( một số cần có nút bần)
Bình ủ yếm khí
Que cấy chuyền
Tủ ấm, 35± 10C và 26 ±10C
Bình vô khuẩn bảo quản mẫu dự trữ
Giá đựng ống nghiệm
Kính hiển vi nền sáng hay đối đa
Đĩa petri vô trùng 15 x 100 mm
Ống ly tâm
Máy ly tâm lạnh tốc độ cao
Ống tiêm vô trùng, 1 hoặc 3ml, với kích cỡ 25cm, 1cm, 6cm để tim vào chuột.
Chuột (khoảng 15-20g)
Chuồng nhốt chuột, thức ăn cho chuột
3.1.2 Môi trường, dụng cụ, hóa chất
Pepton đệm bufer pepton water (BPW)
Iron suphide Agar (ISA)
Perfringns selective Agar ( shahidi ferguson ferfringens, SFP)
Môi trường dịch thể gan băm hay môi trường thịt chín
Môi trường dịch thể TPGY hay với trypsin ( TPGYT)
Môi trường thạch – lòng đỏ trứng – gan – thịt bê hay thạch – lòng đỏ trứng yếm khí.
Dung dịch cồn – odine (iodine 4% trong cồn 70%)
Đệm gen – phosphate vô trùng, pH = 6.2
Dung dịch nước muối vô trùng
Dung dịch NaOH 1N
Dung dịch HCl 1N
Cồn tuyệt đối
Dung dịch trypsin (Difco, 1:250)
Thuốc nhuộm gam, tím kết tinh, hay xanh methylene
3.1.3. Quy trình phân tích
3.1.3.1. Chuẩn bị mẫu trước khi phân tích
Mẫu được giải đông ở nhiệt độ không quá 450C và được phân tích ngay sau khi giải đông. Cân 10g (hoặc 25g) mẫu trong túi PE vô trùng, bổ sung 90ml (hoặc 225ml) nước pepton đệm và đồng nhất mẫu bằng máy dập mẫu. Mẫu được tiếp tục pha loãng theo dãy thập phân tùy mật độ hiệ