MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 2
1. Tính cấp thiết của đề tài. 2
2. Đối tượng nghiên cứu. 2
3. Mục đích nghiên cứu 2
4. Khách thể nghiên cứu 2
5. Nhiệm vụ nghiên cứu. 2
6. Giả thuyết khoa học. 2
7. Phạm vi nghiên cứu. 3
8. Phương pháp nghiên cứu. 3
PHẦN 2: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 4
1. SƠ LƯỢC LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ. 4
2. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI. 4
2.1. Khái niệm giáo dục. 4
2.2. Khái niệm đạo đức. 5
2.3. Khái niệm gia đình. 7
2.4. Khái niệm giáo dục gia đình. 9
2.5. Khái niệm đạo đức gia đình. 10
2.6. Khái niệm thiếu niên. 11
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH CHO THIẾU NIÊN TRONG GIA ĐÌNH. 12
3.1. Bản chất tâm lý của việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia đình. 12
3.2. Các nội dung giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia đình. 13
3.3. Các phương pháp giáo dục đạo đức cho thiếu niên thường được sử dụng trong gia đình hiện nay. 14
CHƯƠNG 2. TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU 18
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 19
1. KẾT LUẬN. 19
2. KHUYẾN NGHỊ. 19
LỜI CẢM ƠN 21
37 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3645 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong các gia đình ở xã Mỹ Thành huyện Lạc Sơn, tỉnh Hoà Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cầu ăn, mặc, học hành, chăm sóc sức khoẻ.... của các thành viên trong gia đình.
- Từ góc độ của văn hoá học, gia đình là một thiết chế xã hội mang màu sắc dân tộc và đánh dấu tiến trình phát triển về văn hoá.
- Từ góc độ tâm lý học xã hội, gia đình được định nghĩa như sau:
“Gia đình là một nhóm nhỏ của xã hội, các thành viên trong nhóm có quan hệ gắn bó về hôn nhân hoặc huyết thống, tâm sinh lý, cùng có chung các giá trị vật chất, tinh thần ổn định trong các thời điểm lịch sử nhất định” (theo Lê Công Hoàn, tâm lý giáo dục.
* Đặc điểm của gia đình.
- Từ định nghĩa trên ta thấy gia đình có các đặc điểm sau đây:
+ Gia đình là một nhóm xã hội, một đơn vị kinh tế, là nơi tái sản xuất ra con người, các thành viên trong gia đình sống chung một mái nhà. Các thành viên trong gia đình có thể thuộc nhiều thế hệ, gắn bó với nhau bởi quan hệ tình cảm, huyết thống, chịu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp với nhau về nếp sống, sinh hoạt, phong tục.... tạo nên bản sắc văn hoá riêng của gia đình.
+ Các thành viên trong gia đình gắn bó với nhau về đặc điểm tâm sinh lý, cha mẹ truyền lại cho con cái những đặc điểm thể chất qua kênh gen di chuyền sinh học và giáo dục con cái hình thành nếp sống theo văn hoá riêng của mỗi gia đình.
+ Các thành viên trong gia đình có quan hệ kinh tế, sống và hoạt động bằng một ngân sách chung do các thành viên trong gia đình lao động đem lại.
*Chức năng của gia đình:
Từ góc độ tâm lý học và giáo dục học, gia đình có chức năng sau đây:
- Chức năng sinh sản ra con người duy trì nòi giống:
Đây là một chức năng rất quan trọng của gia đình, vì con người là “sản phẩm” quý nhất của xã hội, là điều kiện và nhân tố không thể thiếu để xã hội tồn tại và phát triển. Việc sinh con không chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu, mong ước của người chồng, người vợ còn là một vấn đề xã hội, vấn đề duy trì tính liên tục của xã hội loài người.
- Chức năng xã hội hoá và giáo dục con cái.
Trong lịch sử phát triển nhân loại, gia đình là nhân tố đầu tiên giáo dục thế hệ trẻ, góp phần quan trọng làm cho họ lĩnh hội được kinh nghiệm xã hội lịch sử, có thái độ hành động phù hợp với yêu cầu của xã hội. Chính trong quá trình này mỗi cá nhân được xã hội hoá. Theo G.Andreeva đây là một quá trình gồm hai mặt, mặt cá nhân tiếp nhận khái niệm xã hội bằng cách thâm nhập vào môi trường xã hội, vào hệ thống các quan hệ xã hội. Mặt khác cá nhân tái sản xuất một cách chủ động các mối quan hệ xã hội qua chính việc họ tham gia vào các hoạt động và thâm nhập vào các mối quan hệ xã hội. Như vậy, trong quá trình xã hội hoá, cá nhân không chỉ đơn thuần thừa nhận kinh nghiệm xã hội mà còn chuyển nó thành giá trị tâm thế, xu hướng.... của cá nhân và trên cơ sở đó tham gia tái tạo sản xuất chúng trong xã hội.
Không thể phủ nhận vị trí quan trọng của giáo dục gia đình, bởi gia đình là môi trường xã hội, môi trường giáo dục đầu tiên, quan trọng vào bậc nhất của mỗi cá nhân. Trong quá trình sống, trước khi tiếp thu những yếu tố văn hoá chung của xã hội, mỗi người tiếp nhận đặc điểm văn hoá của gia đình mình. Những kinh nghiệm sống, các quy tắc ứng xử, các giá trị.... đầu tiên của con người được tiếp nhận từ chính quá trình quan hệ với các thành viên trong gia đình (với bố, mẹ, ông, bà). Một đặc điểm cơ bản trong việc lĩnh hội những nét văn hoá đặc trưng này củaatrer là bắt chước, noi theo, kết quả của sự bắt chước, noi theo của trẻ có thể diễn ra ngay thời điểm đó, nhưng cũng có thể xuất hiện bột phát trong ứng xử của trẻ tại một thời điểm khác. Vì vậy, “tấm gương toàn diện trong nhân cách của ông bà, cha mẹ, anh, chị” có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tinh thần của trẻ. Củaộc sống đời thường qua nói năng ứng xử, đi lại, những thói quen quan trọng trong gia đình đều có thể được trẻ “sao chép nguyên mẫu” trong nhận thức của trẻ, dần xuất hiện thói quen trong nói năng, ứng xử của trẻ mà không ít người ngộ nhận đó là sự “duy truyền tâm lý”. N.I.Noricôp đã từng nói rằng: “không gì có thể tác động lên tâm hồn non nớt của trẻ mạnh hơn quyền lực của sự làm gương, còn giữa muôn vàn tấm gương thì không có gì gây ấn tượng sâu sắc và bền chặt bằng sự mẫu mực của bố mẹ”.
- Chức năng kinh tế:
Gia đình là một đơn vị kinh tế, đồng thời cũng là một đơn vị tiêu dùng của xã hội, có trách nhiệm tổ chức cuộc sống cho mọi thành viên trong gia đình, đảm bảo sự hoạt động bình thường của các cá nhân trong gia đình sống chung dưới một mái nhà.
- Chức năng thoả mãn các nhu cầu tâm lý của các thành viên trong gia đình:
Để thoả mãn các nhu cầu tâm lý của các thành viên trong gia đình thì trước hết, gia đình phải là tổ ấm, tổ ấm gia đình chứa đựng nội dung tình cảm rõ nét. Nơi đây mọi thành viên được thoả mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần ở mức tối đa có thể có được.
Chức năng thoả mãn nhu cầu tâm ly, tình cảm của các thành viên trong gia đình là một chức năng quyết định sự bền vững và phát triển của gia đình. Hạnh phúc hay bất hạnh của gia đình phần lớn cũng do chức năng này có đảm bảo hay không, trong đó, yếu tố quyết định đến việc thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu tâm lý, tình cảm của các thành viên trong gia đình là tình yêu thương. Bắt đầu từ sự hình thành tình yêu đôi lứa (giữa nam và nữ) rồi nảy sinh thành tình yêu vợ chồng, cha con, mẹ con, và anh chị em. Đây là chất keo dính các thành viên trong gia đình. Thiếu vắng tình yêu thương, gia đình không còn là tổ ấm, không còn là chỗ dựa tinh thần của mỗi thành viên trong gia đình. Tình cảm gia đình là yếu tố quyết định sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa các thành viên trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của họ.
Tóm lại, gia đình là trường học đầu tiên của củaộc đời mỗi người, có ý nghĩa quan trọng nhất đối với việc hình thành và phát triển nhân cách của thế hệ trẻ. Làm thế nào để gia đình là nơi hình thành những phẩm chất nhân cách tốt đẹp cho trẻ là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm hàng đầu đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay.
2.4. Khái niệm giáo dục gia đình.
*Định nghĩa:
Giáo dục gia đình là toàn bộ những tác động có mục đích, có nội dung và phương pháp cụ thể được tiến hành ngay trong gia đình, nhằm hình thành và phát triển nhân cách của các thành viên trong gia đình, trước hết là thế hệ trẻ.
*Những nét đặc thù của giáo dục gia đình.
Giáo dục gia đình có những nét đặc thù mà giáo dục nhà trường và giáo dục xã hội không thể có.
- Giáo dục gia đình có sự tham gia của tất cả các thành viên trong gia đình, mỗi người đều có tác động và ảnh hưởng đến các thành viên khác. Ông bà dạy dỗ con cháu, cha mẹ giáo dục con, anh chị em học hỏi lẫn nhau, đồng thời cha mẹ, ông bà tự giáo dục hoàn thiện, điều chỉnh bản thân mình.
- Bao trùn lên giáo dục gia đình là việc nuôi, dạy đan xen vào nhau. Trong nuôi có dạy, dạy và nuôi cho con ăn là nuôi, ăn thế nào là dạy. Nuôi nhằm phát triển thế chất; dạy giúp con khôn lớn về tinh thần cho trẻ.
- Đặc điểm nổi bật của giáo dục gia đình là sự giáo dục bằng tình yêu thương. Ông bà, cha mẹ luôn dành cho con, cháu tình yêu thương tràn đầy, vô bờ bến. Thậm chí, ông bà, cha mẹ còn sẵn sàng hi sinh điều kiện vật chất tinh thần của bản thân, dành mọi thuận lợi cho con, cháu miễn sao con, cháu nên người.
- Giáo dục gia đình mang tính đa dạng và nhiều chiều, thể hiện ở chỗ: Đa dạng về nội dung, phương pháp giáo dục, đa dạng về giới tính, lứa tuổi, kinh nghiệm.... của các thành viên trong gia đình. Nhiều chiều, có tác động từ bà, cha mẹ đến con cháu; từ anh, chị đến em.
- Giáo dục gia đình là hình thức giáo dục toàn diện, không chỉ truyền đạt tri thức mà còn truyền đạt lối sống cách ứng xử....
Đồng thời giáo dục gia đình còn mang tính cụ thể hoá, cá biệt hoá cao. Cha mẹ dạy con cách đi đứng, nói năng. Tuỳ thuộc vào giới tính, đặc điểm, tính cách của trẻ.
Ví dụ: Trẻ trai ưa hoạt động thì cha mẹ dạy con đi đứng thong thả, nói năng từ tốn, còn nếu trẻ nhút nhát thì cha mẹ dạy con đi đứng đàng hoàng, nhanh nhẹn, nói năng rõ ràng.
*Một số nguyên tắc trong giáo dục gia đình.
Giáo dục gia đình là một bộ phận của giáo dục xã hội nên càng phải tuân theo nguyên tắc chung của công tác giáo dục, đồng thời tuân theo các nguyên tắc riêng của mình, đó là:
+ Nguyên tắc bảo đảm tính khoa học khách quan.
Việc giáo dục con cái bao giờ cũng phải xuất phát từ cơ sở tự nhiên - xã hội mà người đó đang sống. Trong gia đình, giáo dục con cần dựa vào các quy luật tâm sinh lí của người được giáo dục để chọn ra nội dung và phương pháp tác động thích hợp. Đồng thời cần dựa vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể đề ra những yêu cầu giáo dục cho phù hợp. Thiếu sự hiểu biết về tâm lí của trẻ, các bậc cha mẹ rất dễ mắc sai lầm, tiến hành giáo dục con người một cách phản khoa học cản trở phát triển và hoàn thiện nhân cách của trẻ.
+ Nguyên tắc tôn trọng nhân cách của trẻ.
Con cái chưa đến tuổi trưởng thành phải sống phụ thuộc vào cha mẹ là lẽ đương nhiên, nhưng không vì thế mà cha mẹ lại lạm dụng quyền hành của mình để tước bỏ những quyền lợi tối thiểu của trẻ. Xã hội càng phát triển càng làm nảy sinh nhiều nhu cầu, hững thú hoạt động mà trước đây ở thế hệ ông bà, cha mẹ chưa có. Tuy vậy, trên thực tế, vẫn còn tình trạng “quyền của trẻ em” bị phụ thuộc hoàn toàn vào các khuôn khổ lớn hay bé, rộng hay hẹp do cha mẹ quy định. Mỗi người một khác. Thậm chí có những lúc cha mẹ dùng quyền của mình để thủ tiêu, chèn ép những nhu cầu, nguyện vọng của trẻ.
+ Nguyên tắc nghiêm khắc và bao dung, độ lượng:
Nghiêm khắc trước hết thể hiện ở việc cha mẹ tự nghiêm khắc với bản thân mình bằng sự mẫu mực trong lời nói và việc làm đầy trách nhiệm với con cái, với tư cách là người chủ gia đình. Trên cơ sở đó đề ra yêu cầu cao đối với hành vi, hoạt động của con cái. Tuy nhiên, cần tuyệt đối tránh nghiêm khắc quá mức dẫn đến độc đoán, cực đoan, dễ gây ra hậu quả nặng nề.
Trên thực tế không phải bậc cha mẹ nào cũng có ý thức được sự cần thiết phải nghiêm khắc đúng mức với con cái, mà thường tỏ ra khoan dung độ lượng một chiều với con cái. Sự khoan dung, độ lượng xuất phát từ lòng yêu thương con trẻ, thể hiện sự tôn trọng, tin tưởng của cha mẹ dành cho con là rất cần thiết đối với sự phát triển của mối đứa trẻ, nhưng nó không đồng nhất với thái độ quá dễ dãi, vì quá chiều con, để con muốn gì được nấy, tự do, tuỳ tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật.
+ Nghiên tắc đòi hỏi cao nhưng vừa sức:
Các bậc làm cha, làm mẹ ai cũng muốn con mình khôn ngoan, công thành doanh toại. Đó là nguyện vọng chân chính, song để đạt được điều đó, không có nghĩa là cha mẹ luôn đặt ra yêu cầu quá cao đối với con, thậm chí dù con có cố gắng hết sức cũng không thể đạt tới. Điều đó dễ làm nảy sinh bi quan, chán nản, tự ti ở trẻ. Vì vậy trong gia đình cha mẹ cần nắm vững sự phát triển tâm lí của trẻ để đặt ra những yêu cầu cao nhưng vừa sức với con trẻ. Chúng chỉ cần cố gắng trong hành động là có thể đạt được. Có như vậy mới thúc đẩy sự tiến bộ, sự phát triển của trẻ.
+ Nguyên tắc thống nhất mục tiêu giáo dục:
Giáo dục trẻ trong giả định sẽ đạt được kết quả tốt đẹp nếu cha mẹ, ông bà.... đều có sự tác động định hướng thống nhất nhằm mục đích hình thành và ở trẻ những phẩm chất hành vi, thói quen tốt, phù hợp với đặc điểm truyền thống của gia đình. Nêu trong gia đình, giữa ông bà cha mẹ không có sự thống nhất trong việc giáo dục trẻ thì sẽ tạo ra kẽ hở để trẻ dựa vào đó tìm lí do biện minh cho sai trái của mình. Do đó ảnh hưởng xấu đến hiệu quả giáo dục. Tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong giáo dục gia đình sẽ cản trở sự định hướng, hình thành niềm tin trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách của trẻ.
+ Nguyên tắc giáo dục cá biệt:
Trong gia đình, việc giáo dục thế hệ trẻ cần hướng vào giáo dục cá biệt, vì gia đình có điều kiện thuận lợi để làm điều đó. Giáo dục cá biệt tức là tuỳ từng cá nhân để lựa chọn nội dung, phương pháp giáo dục phù hợp. Đồng thời giáo dục gia đình cần theo một phép tắc, lịch trình nhất định một cách nghiêm túc, liên tục thì mới giáo dục con người có nhân cách nhất quán, cẩn thận không bừa bãi....
2.5. Khái niệm đạo đức gia đình.
Đạo đức gia đình được hiểu là hệ thống những giá trị tốt đẹp, tích cực trong lối sống của một gia đình, phù hợp với các giá trị truyền thống, với phong tục tập quán và với mong muốn của xã hội. Đạo đức gia đình được hình thành từ đạo đức của mỗi cá nhân thành viên trên cơ sở nhu cầu giữ mối quan hệ hợp lí giữa các thành viên trong gia đình, dưới sức ép của các chuẩn mực xã hội, đặc biệt là các phong tục tập quán, truyền thống xã hội.
Giữa đạo đức gia đình và đạo đức xã hội có một số điểm tương đồng nhau vì nó đều là sự thể hiện những nét tốt đẹp trong lối sống, trong quan hệ người - người. Nhưng đạo đức gia đình có những nét đặc thù riêng bởi những thành viên gia đình, đối tượng mà nó hướng đến giáo dục, điều chỉnh ngoài quan hệ xã hội ra còn có một quan hệ đặc thù gia đình, đó là quan hệ huyết thống hôn nhân.
2.6. Khái niệm thiếu niên.
Lứa tuổi thiếu niên bao gồm các em ở độ tuổi từ 11 - 15 tuổi, đó là những em đang theo học từ lớp 6 - 9 ở các trường trung học cơ sở. Vị trí đặc biệt của lứa tuổi thiếu niên, trong quá trình phát triển tâm lý trẻ em nói chung, được một số nhà tâm lý học gọi đây là “thời kỳ khó khăn”, “tuổi khủng hoảng”, “tuổi khó bảo”....
Lứa tuổi thiếu niên khác biệt với các lứa tuổi khác ở chỗ đây là thời kỳ chuyển từ thời thơ ấu sang tuổi trưởng thành. Lứa tuổi thiếu niên là thời kỳ diễn ra những biến đổi căn bản trong cơ thể của trẻ trên con đường trưởng thành về mặt sinh học, triển khai quá trình phát dục. Khởi đầu của sự cải tổ cơ thể có liên quan đến sự tăng cường hoạt động của các tuyến nội tiết (như tuyến sinh dục, tuyến giáp trạng....). Từ đó tạo ra nhiều thay đổi trong cơ thể của trẻ, trong đó rõ nhất là sự tăng vọt về chiều cao. Chính sự tăng vọt về mặt giải phẫu sinh lý đã tạo ra sự mất cân đối tạm thời giữa các chức năng sinh lý, do đó có liên quan tới sự mất cân bằng tạm thời trong tâm lý.
Do sự phát triển không cân bằng giữa tim và mạch máu gây ra sự thiếu máu ở từng bộ phận trên vỏ não và đôi khi làm cho hoạt động của hệ tim mạch bị hỗn loạn, do đó trẻ ở lứa tuổi thiếu niên tuy rất sôi nổi, hiếu động nhưng cũng dễ mệt mỏi, dễ bị kích thích, dễ nổi nóng, đôi khi có những phản ứng vô cớ, những hành vi bất thường.
Một trong những đặc điểm quan trọng của sự phát triển nhân cách ở lứa tuổi thiếu niên là sự hình thành tự ý thức. Sự bắt đầu hình thànhvà phát triển tự ý thức có ảnh hưởng mạnh mẽ đến toàn bộ đời sống tâm lý của thiếu niên, đến hoạt động học tập, đến sự hình thành mối quan hệ qua lại với mọi người. Sự tự ý thức của lứa tuổi này bắt đầu từ sự nhận thức, hành vi của mình, rồi đến nhận thức về những phẩm chất đạo đức, tính cách và khả năng của mình. Các em có khuynh hướng muốn đi sâu khám phá bản thân mình. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý, ở lứa tuổi thiếu niên, các em thường đánh giá bản thân mình cao hơn thực tế. Vì vậy, ta thấy ở các em thường xuyên xuất hiện sự ganh đua, hiếu thắng trong giao tiếp. Các em thiếu niên thường bận tâm đên việc làm thế nào để mọi người đếy đến mình. Các em thiếu niên cho rằng mình không còn là trẻ con và có nguyện vọng được đối sử như người lớn. Đây là nguyện vọng chính đáng của các em, đòi hỏi cha mẹ phải có thái độ đúng đắn, tế nhị. Tuy nhiên nhiều bậc cha mẹ vẫn giữa nguyên tắc thái độ coi các em là trẻ con nên đòi hỏi các em phải nhất nhất vâng lời người lớn. Đó là nguyên nhân gây “đụng độ”, “mâu thuẫn” giữa các em với cha mẹ và người lớn nói chung.
Hiện nay, lứa tuổi thiếu niên ở nước ta đang có nhiều biến đổi, có nhiều đặc điểm khác so với thế hệ thiếu niên vài ba thập kỷ trước. Lứa tuổi thiếu niên hiện nay tiếp nhận nhiều thông tin nên sự hiểu biết phong phú hơn, niềm tin ở các em mang nhiều yếu tố lý tính. Một mặt các em tin vào sự đúng đắn của lời khuyên, răn dạy, giáo huấn của người lớn mà chúng yêu mến, tin cậy. Song mặt khác, niềm tin ấy còn bao hàm cả sự cân nhắc, tính phê phán, hoài nghi, bởi trên thực tế chúng thường phát hiện ra hiện tượng không có sự ăn khớp giữa những điều tốt đẹp trong lời nói của một số người lớn với hành động của họ.
Tóm lại, lứa tuổi thiếu niên là lứa tuổi hồn nhiên, trong sáng, vô tư, tiềm tàng những khả năng tốt đẹp để trở nên những con người tốt đẹp với những biểu hiện tốt như: hào hiệp, chân thành, vị tha, khát khao hiểu biết, khát khao được tin cậy, kết giao bạn bè không vụ lợi, rung động tinh tế trước vẻ đẹp của thiên nhiên, con người và củaộc sống.... Đây là lứa tuổi tiềm ẩn khả năng dễ giáo dục, tuổi đặt nền móng cho sự phát triển nhân tính, song trong tâm lý của các em thiêu niên chứa đầy những mâu thuẫn phức tạp đòi hỏi các bậc cha mẹ phải có những phương pháp giáo dục phù hợp thì sự giáo dục của cha mẹ mới đạt hiệu qủa cao. Đồng thời cần phải đặt các em thiếu niên trong môi trường giáo dục thuận lợi - như Xukhomlinxky gọi đó là “môi trường kỷ cương, tình thương, trách nhiệm”.
Lứa tuổi thiếu niên, do sự hình thành và phát triển mạnh mẽ của sự ý thức, do sự mở rộng quan hệ xã hội nên đạo đức của các em được phát triển mạnh mẽ. Giáo dục đạo đức cho thiếu niên cần dựa trên nền tảng tôn trọng nhân cách của họ, dựa trên lòng nhân ái, bao dung, sự cổ vũ, khích lệ trẻ hướng thiện.
Một đặc điểm tâm lý quan trọng trong quá trình hình thành đạo đức ở lứa tuổi thiếu niên là sự hình thành ý thức đạo đức và lĩnh hội tiêu chuẩn của hành vi đạo đức, những giá trị. Do tự ý phát triển nên hành vi của các em thiếu niên bắt đầu chịu sự chỉ đạo của những quan điểm riêng, những sáng kiến riêng và niềm tin của thiếu niên.
Đạo đức của thiếu niên hình thành phụ thuộc vào việc thiếu niên có được các kinh nghiệm đạo đức như thế nào, thực hiện hành động đạo đức nào? Do đó, cha mẹ cần lưu tâm đến sự hình thành cơ sở đạo đức ở độ tuổi thiếu niên, vì đôi khi trong ý thức thiếu niên có thể hình thành những khái niệm đạo đức và niềm tin đạo đức mâu thuẫn với nhận thức và niềm tin đạo đức mà cha mẹ muốn hình thành ở các em. Do đó, khi giáo dục đạo đức cho các em, cha mẹ cần chú ý giúp các em hiểu khái niệm đạo đức một cách chính xác, khắc phục những quan điểm chưa đúng của các em. Bằng những câu chuyện thân mật, giải thích cho các em thấy thực chất chỗ chưa đúng của mình, đồng thời chú ý tổ chức hành động để thiếu niên có được kinh nghiệm đúng đắn, để các em tin vào sự công bằng và sự hiển nhiên của các chuẩn mực đạo đức, tin rằng cần phải làm theo những chuẩn mực đó.
3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC GIA ĐÌNH CHO THIẾU NIÊN TRONG GIA ĐÌNH.
3.1. Bản chất tâm lý của việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia đình.
Giáo dục đạo đức là nội dung bao trùm và xuyên suốt toàn bộ hoạt động giáo dục của gia đình, nhà trường và xã hội, nhằm hình thành nhân cách cho thế hệ trẻ. Giáo dục đạo đức phải trở thành mối quan tâm của toàn xã hội, là vấn đề của mọi vấn đề trong chiến lược giáo dục đạo đức vì sự phát triển con người và vì sự phát triển xã hội.
Nhà trường có vai trò định hướng trong giáo dục đạo đức còn gia đình là môi trường phương tiện để giáo dục đạo đức. Giáo dục đạo đức cho thế hệ trẻ không thể tách rời gia đình và nhà trường, đoàn thể, xã hội.
Mục đích của giáo dục đạo đức của thiếu niên trong gia đình là nhằm giáo dục các em trở thành con ngoan, trò giỏi, sau này trở thành những công dân gương mẫu, có những phẩm chất tốt đẹp trong lao động và trong lối sống, có ý chí bản lĩnh, sáng tạo, năng động, trách nhiệm cao.
Trước hết muốn giáo dục đạo đức cho thiếu niên, cha mẹ phải hiểu con cái. C.Mác đã từng nói: “để tác động mang lại kết quả thì cần phải biết được thứ vật liệu mà ta sẽ tác động vào nó”, ý kiến này của C.Mác rất đúng với việc giáo dục đạo đức cho thiếu niên. Lứa tuổi thiếu niên có những đặc điểm tâm lý khác với những lứa tuổi khác, đòi hỏi cha mẹ phải có phương pháp giáo dục đúng đắn, phù hợp thì sự giáo dục của cha mẹ mới đạt hiệu quả cao. Nhiều công trình nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Người lớn thường không hiểu “cái tôi” của trẻ. Chỉ có thể hiểu con cái khi cha mẹ tôn trọng và gần gũi vì con cái. Sự vội vàng, không lắng nghe, không tìm hiểu những gì đang diễn ra trong thế giới nội tâm của con, chỉ tin tưởng vào kinh nghiệm của mình.... là những nguyên nhân tạo nên hàng rào tâm lý ngăn cách cha mẹ với con cái, đồng thời còn tạo ra khả năng “tự vệ tâm lý” của trẻ em với cha mẹ, người lớn.
Ngoài ra, cha mẹ cũng cần phải cung cấp cho con những tri thức đạo đức, như sự hiểu biết về bổn phận, trách nhiệm phải làm, thái độ phải có.... Đây là một khâu quan trọng của giáo dục đạo đức trong gia đình. Việc làm này có tác dụng làm cho đạo đức của trẻ em được xây dựng trên cơ sở lí trí, từ đó các em có thể nhìn nhận, đánh giá cái thiện, cái ác, cái cao thượng, cái nhỏ nhen.
Mặt khác, cha mẹ cũng cần phải tác động vào tình cảm và ý chí của con trẻ để chuyển tri thức đạo đức thành niềm tin đạo đức, tình cảm đạo đức. Việc tổ chức cho trẻ tiếp xúc với người thật, việc thật có tác động mạnh gấp nhiều lần so với lý thuyết dài dòng về những điều nên làm và những điều không nên làm. Việc thực người thực có khả năng đi thẳng vào niềm tin của trẻ, trở thành hành vi mẫu mực để trẻ noi theo. Gia đình có nhiều thuận lợi để làm việc đó. Tấm gương của ông, bà, cha mẹ trong gia đình có ý nghĩa quan trọng trong giáo dục đạo đức. nhất là đối với cá em thiếu niên, bởi vì các em đã có một vốn kiến thức nhất định nên đã có thể phân tích, so sánh, đánh giá các hiện tượng xung quanh mình. Nếu cha mẹ làm những điều sai, điều xấu, uy tín của họ đối với con cái sẽ giảm sút, dẫn đến làm giảm sút niềm tin đạo đức của con trẻ. Việc xây dựng niềm tin đạo đức phải dựa trên cơ sở hài hoà giữa nhận thức và tình cảm đạo đức, tập luyện hành vi và trau dồi thói quen ứng xử đạo đức của trẻ với ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, bạn bè.... để hình thành nhu cầu đạo đức và văn hoá đạo đức ở trẻ. Đó là nhu cầu hàng đầu của đời sống tinh thần, thế giới tinh thần, nói lên trình độ trưởng thành đạo đức và nhân cách của con người. Điểm căn bản trong giáo dục đạo đức cho thiếu niên là cha mẹ cần đặc biệt chú trọng tới thực hành đạo đức của trẻ, cần giáo dục con sao cho trẻ luôn chứng minh được tính đạo đức, sự trung thực đạo đức của mình trong củaộc sống lao động và học tập.
3.2. Các nội dung giáo dục đạo đức cho thiếu niên trong gia đình.
Từ xưa đến nay, lòng kính trọng, hiếu thảo đối với ông, bà, cha, mẹ vẫn được coi là yếu tố đạo đức quan trọng nhất dối với trẻ ở trong gia đình. Bởi lẽ nếu một con người không có lòng hiếu thảo, nghĩa là không biết tôn kính, chăm sóc ông, bà, cha mẹ - những người ruột thịt đã sinh thành, nuôi dưỡng mình - thì cũng không thể có tình cảm yêu thương cộng đồng, dân tộc, lòng nhân ái đối với con người.
Cha mẹ cần giáo dục trẻ sự cảm thông sâu sắc với điều kiện, hoàn cảnh gia đình để trẻ biết sống “tuy gia phong kiệm” không đòi hỏi, ganh tỵ với những gia đình khá giả giàu có hơn gia đình mình nhằm tạo nên không khí thuận hoà, ấm cúng, đồng cam cộng khổ trong gia đình.
Cha mẹ cũng cần giáo dục cho trẻ biết làm theo lẽ phải và biết hoàn thành những công việc được giao với thái độ vui vẻ, với tinh thần trách nhiệm cao.
Mặt khác cha mẹ cần giáo dục con cái ý thức tôn trọng quan hệ tôn ty trật tự ở trong gia đình, làm anh làm chị phải tôn trọng, bao dung, nhường nhịn các em; làm em phải tôn trọng anh chị, phải có thái độ yêu thương, cư sử đúng mực với anh, chị em trong gia đình, với cô, gì, chú, bác trong gia tộc.
Cha mẹ cần giáo dục trẻ sống nhân ái, đó là giáo dục lòng yêu thương con người, sẵn sàng giúp đỡ những người gặp khó khăn, hoạn nạn, không tham lam, độc ác để trở thành người lương thiện. Hiện nay trong điều kiện của nền kinh tế phát triển theo cơ chế thị trường, việc giáo dục lòng nhân ái cho thế hệ trẻ của gia đình lại càng có ý nghĩa quan trọng, giúp các em hình thành và phát triển những phẩm chất của người công dân biết dung hoà quyền lợi của cá nhân mình với quyền lợi của tập thể, của gia đình và xã hội, góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, tiến bộ.
Gia đình cũng cần phải có giáo dục cho trẻ tính khiêm tốn, chân thực, không tự cho mình hơn người khác, không dối trá, lừa lọc mọi người. Người có tính chân thực, khiêm tốn không những biết học tập ở người khác những điều hay mà còn biết cư sử chu đáo, cẩn thận, biết tôn trọng nhân cách, phẩm giá của mình, không để người khác coi thường mình. Khiêm tốn, chân thực là những nét nhân cách đẹp của con người, song để rèn luyện giáo dục được nó vô cùng khó khăn. Bởi vậy cha mẹ cần đặc biệt quan tâm giúp đỡ trẻ nỗ lực ý trí, chiến thắng bản thân mình, biểu hiện ở việc: biết nhận lỗi, biết tôn trọng sự thật, lời nói phải đi đôi với việc làm...
Ngoài ra gia đình cần quan tâm giáo dục con tình cảm yêu quê hương đất nước, sẵn sàng làm mọi việc để quê hương thoát khỏi cảnh nghèo nàn, lạc hậu. Trên cơ sở đó giáo dục thiếu niên lòng yêu nước, yêu Chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng hi sinh phấn đấu vì sự nghiệp xây dựng nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội, dân chủ, văn minh.
Tóm lại, ngày nay giáo dục đạo đức trong các gia đình Việt Nam đang đứng trước những thử thách lớn lao, khi nền kinh tế theo cơ chế thị trường đang làm thay đổi nhiều giá trị chuẩn mực, tạo ra biết bao tệ nạn xã hội, ảnh hưởng xấu đến nhân cách của trẻ em, nhất là lứa tuổi thiếu niên - lứa tuổi đang sống và học tập dưới sự bảo trợ của gia đình. Vì vậy c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- TLH (14).doc