Thời kỳ văn học Trung Quốc đạt được những thành tựu nổi trội được các khóa luận tập trung nghiên cứu nhiều là văn học thời Đường (37.24%), văn học đời Thanh (15.68%), văn học hiện đại (22.54%). Văn học đời Minh và văn học từ thời thượng cổ đến thời nhà Tùy được nghiên cứu ít hơn. Những thành tựu đạt đượcc của văn học Trung Quốc trên là không thể phủ nhận. Tìm hiểu về những thời kỳ văn học này có ý nghĩa quan trọng trong khi tìm hiểu lịch sử văn học Trung Quốc. Hơn nữa, chúng lại ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam (đặc biệt là giai đoạn văn học trung đại Việt Nam).
31 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5628 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu việc nghiên cứu văn học Trung Quốc của sinh viên khoa ngữ văn - Đại học Tổng hợp Hà Nội (1966-2000) - Nhìn từ góc độ tiếp nhận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n là sự tiếp nhận tức là sự cảm nhận tác phẩm văn học bởi độc giả hoặc thính giả. Để đánh giá một tác phẩm mỹ học tiếp nhận không dùng các tiêu chuẩn của văn học và phê bình văn học mà là “thực tiễn xã hội, hiệu quả xã hội của nghệ thuật theo mức độ biểu lộ của nó trong phản xạ của độc giả” [7, 92]. Với mục đích như thế, mỹ học tiếp nhận chắc chắn sẽ thay thế mỹ học sáng tạo trên con đường nghiên cứu khoa học văn học.
Tiếp nhận văn học được xây dựng trên tính lịch sử của hai yếu tố là tình thế tiếp nhận và chất lượng tiếp nhận thể hiện trong sự đọc hiện tại. Giữa hai giới hạn này có thể tìm ra một quá trình lịch sử tác động nhờ hoạt động thẩm mỹ của sự tiếp nhận.
Lý luận văn học hậu hiện đại cho rằng “nghĩa của văn bản văn học không phải là đối tượng ổn định mà nó mang tính quan hệ, được tạo nên do một quá trình” [2; 108]. Hans George Gadamer đã vận dụng lý thuyết trò chơi cho rằng nghĩa của tác phẩm văn học là sự đối thoại giữa văn bản và người tiếp nhận. Khái niệm “nghĩa đang thiết lập” được xây dựng để đối diện với “nghĩa đang tồn tại” của chủ nghĩa hiện đại. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này. Hiểu như thế, nghĩa của tác phẩm văn học sẽ in đậm dấu ấn nhận thức trong sự vận động về mặt thời gian và là kết quả quá trình cắt nghĩa của tự thân người đọc. “Liên văn bản” (intertextuality) là khái niệm công cụ cơ bản của chủ nghĩa hậu hiện đại coi tác phẩm văn học cũng như chủ thể sử dụng nó tồn tại trong những mối liên hệ của mạng lưới văn bản, vì thế thế giới ý nghĩa văn học luôn mở.
Roman Ingarden (Ba Lan) là một người vận dụng triệt để và hiệu quả nhất với công trình “Tác phẩm văn học” (1931) cho rằng văn bản văn học như là sản phẩm sơ lược, giống như một bộ xương. Và thông qua sự cụ thể hóa (đọc) thì tác phẩm được bồi đắp, bộ xương được bồi đắp thêm da thịt. Như thế, tính chất của sự cụ thể hóa này phụ thuộc vào người đọc và tác phẩm văn học hiện ra với đúng diện mạo của nó nếu văn bản văn học gặp được sự cụ thể hóa lý tưởng. Thực chất, sự cụ thể hóa lý tưởng khó có thể thực hiện được. Nó chỉ diễn ra khi người đọc hội tụ đủ ở một trình độ văn hóa, học vấn và năng lực nghệ thuật cao. Điều này không có tính chất phổ biến, chỉ xuất hiện như là những hiện tượng văn học.
Theo chúng tôi, về khía cạnh này, hiện tượng học đã đồng nhất việc sáng tạo và lý giải tác phẩm. Như thế, nó đã làm mất tính tư tưởng của tác phẩm văn học khi mà “Trong những tác phẩm nghệ thuật chân chính, tư tưởng đâu phải là một khái niệm trừu tượng được thể hiện một cách giáo điều, mà nó là linh hồn của chúng, nó chan hòa trong chúng như ánh sáng chan hòa trong pha lê” (Bêlinxki) và “tư tưởng là linh hồn tác của tác phẩm văn học” (Kôrôlencô). Tác phẩm văn học là công cụ để thể hiện tư tưởng nghệ thuật của tác giả. Người đọc khi tiếp cận tác phẩm văn học không phải là bổ sung thêm chi tiết, hình ảnh (da thịt) cho “bộ xương” đó. Hơn nữa, người đọc cũng không có quyền đó. Quá trình giao tiếp với tác phẩm văn học hay sự tiếp nhận của người đọc là “quá trình chiếm lĩnh thẩm mỹ” [2;42]về tác phẩm văn học (trong người đọc hình thành nghĩa tổng thể của tác phẩm văn học) thông qua các bước đánh giá, giải thích và mô tả.
Việc nghiên cứu tiếp nhận “tác phẩm văn học như là quá trình” [2], Trần Đăng Dung cho rằng cần tiếp cận vấn đề tác phẩm theo cả hai hướng bao gồm quá trình từ sự sáng tạo ra văn bản văn học đến sự tiếp nhận nó như là quá trình thông báo ký hiệu ngôn ngữ (quá trình từ phía người sáng tác, thế giới hiện thực của người sáng tác); quá trình tiếp nhận như là quá trình ấn tượng hay tác động của văn bản văn học đối với người đọc (quá trình từ phía người đọc, thế giới hiện thực từ người đọc). Việc áp dụng lý thuyết này sẽ nhìn nhận tác phẩm một cách toàn diện, coi tác phẩm văn học là “một quá trình tạo nghĩa mang tính chất quan hệ với văn bản đọc” [2; 46].
1.2.2. Tiếp nhận văn học dưới góc độ khóa luận tốt nghiệp
Khóa luận tốt nghiệp là công trình của sinh viên tốt nghiệp ra trường. Sau bốn năm tích lũy kiến thức tại trường đại học, sinh viên đã có đủ những kiến thức lý luận văn học cơ sở và kiến thức chuyên ngành để thực hiện khóa luận. Vì thế, khóa luận tốt nghiệp là công trình thể hiện sự tiếp nhận giữa tác phẩm với người đọc ở một chất lượng cao. Đây không phải là người đọc đơn thuần mà là đọc tác phẩm văn chương ở cấp độ thứ ba Đọc tác phẩm văn học như một hành động văn chương có ba cấp độ tiếp cân. Thứ nhất là cách cảm thụ chỉ tập trung vào nội dung trực tiếp. Thứ hai là cách cảm thụ qua nội dung trực tiếp để thấy được nội dung tư tưởng của tác phẩm. Thứ ba là cách cảm nhận được trình bày ở trên.
- chú ý cả đến nội dung và hình thức biểu hiện của tác phẩm, thấy được giá trị tư tưởng và nghệ thuật của nó, cảm nhận được cái hấp dẫn, sinh động của đời sống dược tái hiện, biết thưởng thức cái hay, cái đẹp của nghệ thuật qua đó không chỉ thấy ý nghĩa xã hội sâu sắc của tác phẩm mà còn nhận thấy ý nghĩa nhân sinh từ đó tác động đến tư tưởng bản thân góp phần vào quá trình cải biến tư tưởng xã hội.
Khi thực hiện đề tài khóa luận, mỗi sinh viên tiếp cận với tư cách là nhà nghiên cứu văn học đích thực. Nó khác hoàn toàn với việc phê bình văn học. Việc phê bình văn học mang tính chất thời sự, gắn với những cảm nghĩ chủ quan cá nhân với nhiệm vụ chủ yếu là định hướng thẩm mỹ cho độc giả. Trong khi đó, nhà nghiên cứu lại là người tạo ra sản phẩm mang tính khoa học, cần thời gian tìm tòi, thấu hiểu và nhận thức lâu dài, người viết có quyền viết theo ý kiến chủ quan mà có thể không cần phụ thuộc hay bị chi phối bởi bất cứ sự ảnh hưởng nào (Tất nhiên, việc lựa chọn những quan điểm, trường phái cho nhà nghiên cứu một cách đúng đắn sẽ giúp con đường khoa học của họ nhanh hơn, chuẩn xác hơn và được xã hội ghi nhận xứng đáng).
Nếu như cho rằng nhà phê bình là người làm nhiệm vụ trả lời cho câu hỏi: Tác phẩm là gì? Nó như thế nào? thì nhà nghiên cứu lại là người lý giải tác phẩm trên mọi khía cạnh, nói cách khác họ trả lời cho câu hỏi: Điều gì làm nên tác phẩm? Phương thức và khả năng tồn tại của nó ra sao? Đây là một gánh nặng khoa học đòi hỏi trình độ cao và sự nỗ lực rất lớn của nhà nghiên cứu, “đưa các nhà nghiên cứu từ sự tiếp nhận nghệ thuật như một hiện tượng độc lập, tự thân, đến vấn đề sự hiểu nó và đọc nó” [7, 93]
Ở trên, chúng tôi đã trình bày về vai trò quan trọng của quá trình tiếp nhận văn học trong đời sống tác phẩm. Tuy nhiên, để cụ thể hóa khía cạnh này, chúng tôi thiết nghĩ cần làm rõ hơn về chủ thể tiếp nhận. Theo quan niệm của Jauss quá trình lý giải tác phẩm không phải là gắn với sự tùy tiện của người lý giải mà là gắn với những khả năng khách quan của độc giả, được quy định bởi kinh nghiệm thẩm mỹ, 10 Đây là những khái niệm của mỹ học tiếp nhận.
và tầm chờ đợi
của anh ta (phân biệt với tầm chờ đợi được mã hóa trong tác phẩm).
Sự cụ thể hóa văn bản hiểu khái quát nhất là sự đọc nó. Sự cụ thể hóa của người nghiên cứu là một trong bốn kiểu trong quá trình cụ thể hóa theo cách phân loại của Ingarden Ingarden cho rằng có 4 kiểu cụ thể hóa:
Từ chỗ đứng người tiêu dùng hồn nhiên
Từ lập trường thẩm mỹ chuyên biệt
Từ lập trường của những quyền lợi chính trị và tôn giáo nhất định với mục tiêu cổ động
Từ lập trường nghiên cứu khoa học
Trong đó kiểu thứ hai được ông cho là quan trọng nhất.
. Nhưng không phải bất cứ sự cụ thể hóa nào là của quan điểm cá nhân cũng là đối tượng của nghiên cứu văn học. Phải có một tầm tri thức nhất định, một vốn sống phong phú, khả năng phát hiện tinh tế ở người nghiên cứu thì mới đưa lại “sự gặp gỡ của cấu trúc tác phẩm và cấu trúc các chuẩn mực văn học do thời đại lịch sử cụ thể quy định”[7,117].
Trở lại vấn đề khóa luận tốt nghiệp của sinh viên - một dạng của tiếp nhận văn học ở mức độ cao: nghiên cứu văn học. Thông qua khóa luận, sinh viên thể hiện sự cụ thể hóa văn bản văn học trên cơ sở lý luận văn học. Đây chính là công trình nghiên cứu khoa học đầu tiên có đóng góp cụ thể về lý luận và thực tiễn.
CHƯƠNG HAI
CÁC CHỦ ĐỀ NGHIÊN CỨU CỦA KHÓA LUẬN
2.1. Phân loại khóa luận
Chúng tôi khảo sát hệ thống đề tài gồm 102 khóa luận, tuy số lượng nhiều như thế nhưng nhìn chung các đề tài chỉ xoay quanh vào những thời kỳ mà văn học Trung Quốc đạt được thành tựu mà tiêu biểu nhất là thơ Đường, kịch Tống và tiểu thuyết Minh - Thanh. Cơ sở phân loại được chúng tôi thực hiện trên các bộ môn nghiên cứu văn học bao gồm Lý luận văn học, Lịch sử văn học, Thư mục học, Phương pháp luận nghiên cứu văn học… Vì thế, để tiện lợi cho khảo sát các khóa luận, người viết thực hiện phân loại đề tài theo hai loại bao gồm nhóm theo hướng tác giả, tác phẩm trong tiến trình lịch sử văn học Trung Quốc và nhóm theo lý luận, dịch thuật.
Mục đích chủ yếu của việc phân loại này là xác định tần số xuất hiện của đối tượng khóa luận nên cách phân chia này mang tính chất tương đối. Chúng tôi xin liệt kê một số trường hợp đặc biệt khi phân loại đề tài.
Một đề tài nhưng lại xếp ở nhiều loại. Ví dụ như trong khóa luận số 24 của sinh viên Hoàng Xuân Bối là: “Hình tượng người phụ nữ trong thơ Đường (chủ yếu qua thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ)” được chúng tôi xếp vào cả nhóm về Lý Bạch, Đỗ Phủ và thơ Đường.
Một đề tài nhưng lại thuộc cả nhóm phân loại theo tác giả - tác phẩm vừa thuộc nhóm lý luận, dịch thuật như khóa luận số 1 của sinh viên Mai Cao Chương: “Sơ lược tổng kết những ý kiến khác nhau trong việc đánh giá cuốn Hồng lâu mộng ở Trung Quốc từ trước đến nay”
2.1.1. Tác giả, tác phẩm
BẢNG PHÂN LOẠI
Thời kỳ
Tác giả - Tác phẩm
Số lượng
Tỉ lệ (%)
Văn học thời Thượng Cổ đến nhà Tùy
(0.98%)
Kinh Thi
1
0.98
Văn học đời Đường
(37.24%)
Lý Bạch
7
6.86
Đỗ Phủ
18
17.64
Bạch Cư Dị
3
2.94
Đường Thi
10
9.8
Văn học đời Minh
(14.7%)
Tam quốc chí diễn nghĩa
8
7.84
Thủy hử
5
4.9
Tây du ký
2
1.96
Văn học đời Thanh
(17.64 %)
Liêu trai chí dị
2
1.96
Nho lâm ngoại sử (Chuyện làng Nho)
2
1.96
Hồng lâu mộng
14
13.72
Văn học hiện đại
(22.54 %)
Lỗ Tấn
9
8.82
Tiểu thuyết
11
10.78
Kịch
3
2.94
2.1.2. Lý luận, dịch thuật (có 7/102 đề tài = 6.86 %)
- Bước đầu phê phán quan điểm văn nghệ của chủ nghĩa Mao trong những năm 1942 - 1969
- Tìm hiểu dịch thuật và nghiên cứu tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc ở Việt Nam thời kỳ trước 1945
- Tình hình giới thiệu, nghiên cứu và phiên dịch thơ ca Trung Quốc ở Việt Nam từ trước đến nay.
- Bước đầu tìm hiểu những nguyên lý văn học do Bạch Cư Dị đề xướng
- Hồ Chủ tịch trong lòng nhân dân thế giới qua một số tác phẩm đã dịch
- Sơ lược tổng kết những ý kiến khác nhau trong việc đánh giá cuốn “Hồng lâu mộng” ở Trung Quốc từ trước đến nay
- Tình hình nghiên cứu Lỗ Tấn ở Việt Nam
2.2. Các chủ đề nghiên cứu của khóa luận
2.2.1. Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của khóa luận
2.2.1.1. Tác giả - tác phẩm
Thời kỳ văn học Trung Quốc đạt được những thành tựu nổi trội được các khóa luận tập trung nghiên cứu nhiều là văn học thời Đường (37.24%), văn học đời Thanh (15.68%), văn học hiện đại (22.54%). Văn học đời Minh và văn học từ thời thượng cổ đến thời nhà Tùy được nghiên cứu ít hơn. Những thành tựu đạt đượcc của văn học Trung Quốc trên là không thể phủ nhận. Tìm hiểu về những thời kỳ văn học này có ý nghĩa quan trọng trong khi tìm hiểu lịch sử văn học Trung Quốc. Hơn nữa, chúng lại ảnh hưởng quan trọng đối với văn học Việt Nam (đặc biệt là giai đoạn văn học trung đại Việt Nam).
2.2.1.2. Lý luận - Dịch thuật
Các vấn đề nghiên cứu chính về lý luận tập trung chủ yếu ở nghiên cứu, phiên dịch và giới thiệu (tiểu thuyết cổ điển, thơ ca). Đây cũng là những đề tài thuộc về lý luận tiếp nhận.
Theo khảo sát, chúng tôi nhận thấy quá trình nghiên cứu, tìm hiểu văn học Trung Quốc ở thời kỳ này chịu ảnh hưởng lớn của xu hướng chính trị - xã hội. Khóa luận số 44 do sinh viên Hoàng Như Phong thực hiện: “Bước đầu phê phán quan điểm văn nghệ của chủ nghĩa Mao trong những năm 1942 - 1949” được thầy giáo phản biện Lê Huy Tiêu đánh giá là đề tài hay, mang tính chất thời sự nhưng khó làm. Khi đọc khóa luận này, chúng tôi thấy rõ nó mang phong cách của loại hình văn - sử - triết bất phân. Từ những lý luận của chủ nghĩa Mác, người viết so sánh với lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa Mao trên mặt trận văn nghệ để tìm ra những mặt phản động của chủ nghĩa Mao. Từ đó, người viết đã đánh giá sự ảnh hưởng của quan điểm của chủ nghĩa Mao đối với văn học Trung Quốc đương đại. Đề tài này tưởng như không thuộc về văn học nhưng xét kĩ thì nó chính lại là thể hiện rõ tư tưởng “…nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị” Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng…Về văn hóa văn nghệ. Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1972, tr.20
và “văn nghệ bày tỏ quan điểm chính trị theo cách của nó, cũng như có cách riêng để tác động tới văn nghệ” [4, 55-56]. Chúng tôi cho rằng, cách nghiên cứu này không chỉ cho thấy xu hướng nghiên cứu bấy giờ mà còn gợi mở hướng nghiên cứu tương tự trên cơ sở vận dụng lý thuyết mới. Với cách tiếp cận thế này, người nghiên cứu phải có một tư tưởng chính trị vững vàng, ổn định, nghiên cứu theo hướng lịch sử văn học. Như thế, quan niệm về nghiên cứu khoa học cần xác định “tính khoa học không thể tách rời tính tư tưởng” [5, 55]
2.2.2. Những mảng trống
Tuy nhiên, bên cạnh những giai đoạn văn học như trên được nghiên cứu một cách kĩ lưỡng thì có những mảng văn học không hề được nghiên cứu đến ngay cả khi nó đạt được những thành tựu đáng kể. Chúng tôi liệt kê cụ thể như sau:
Văn học thời chiến quốc
+ Tản văn lịch sử
+ Tản văn chư tử
+ Khuất Nguyên và các tác giả Sở từ khác
Văn học Tần Hán
+ Truyện ký của Tư Mã Thiên
+ Từ, phú và tản văn từ cuối Tây Hán đến cuối Đông Hán
+ Dân ca nhạc phủ đời Hán
+ Thơ ngũ ngôn trưởng thành
Văn học Ngụy Tấn Nam Bắc triều
+ Văn học cuối Ngụy và văn học Tấn
+ Đào Uyên Minh
+ Việc dịch Kinh Phật
+ Dân ca nhạc phủ Nam triều
+ Các nhà văn Nam triều
+ Dân ca nhạc phủ phương Bắc
+ Nhà văn Bắc triều
+ Tiểu thuyết Ngụy Tấn Nam Bắc triều
+ Văn tâm điêu long
Văn học đời Đường
+ Văn học sơ Đường
+ Các nhà thơ từ Khai Nguyên đến Thiên Bảo
+ Các nhà thơ từ Thiên Bảo đến Đại Lịch
+ Phong trào cổ văn và Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên
+ Các nhà thơ khác thời Trung Đường
+ Các nhà thơ cuối Đường
+ Tiểu thuyết truyền kì đời Đường
+ Từ đời Đường và Ngũ Đại
Văn học đời Tống
+ Văn học đầu đời Tống
+ Văn học giữa Bắc Tống
+ Tô Thức
+ Văn học cuối Bắc Tống
+ Văn học thời Nam Tống thời kỳ đầu
+ Lục Du
+ Tân Khí Tật
+ Văn học cuối Nam Tống
+ Thi thoại đời Tống
+ Thoại bản và hí thúc
+ Văn học Liêu - Kim
Văn học đời Nguyên
+ Quan Hán Khanh
+ Vương Thực Phủ
+ Bạch Phát và Mã Trí Viễn
+ Các nhà soạn tạp kịch khác thời kỳ đầu
+ Các nhà tạp kịch thời kỳ sau và những vở tạp kịch khuyết danh
+ Tản khúc đời Nguyên
+ Thơ ca và tản văn đời Nguyên
+ Nam hí
Văn học đời Minh
+ Kim Bình Mai
+ Truyện ngắn bạch thoại
+ Dân ca đời Minh
Văn học cận đại
+ Thơ ca cận đại
+ Từ cận đại
+ Tiểu thuyết cận đại
+ Hý kịch cận đại
Văn học hiện đại
+ Thơ ca hiện đại
+ Tản văn hiện đại
Có thể thấy chưa có sự khám phá, mở rộng nghiên cứu một cách đầy đủ (chỉ tính riêng bề rộng) của các giai đoạn trong tiến trình lịch sử văn học Trung Quốc ở hệ thống khóa luận khảo sát. Mặc dù nghiên cứu chuyên sâu vào những thành tựu nổi trội của văn học Trung Quốc là hợp lý nhưng không thể lấy một số tác giả, tác phẩm nổi tiếng để nhìn nhận về một nền văn học nhất là khi đó là nền văn học Trung Quốc với bề dày lịch sử hơn 3000 năm được.
Trong một thời kỳ văn học, các khóa luận chỉ tập trung vào những tác giả, tác phẩm nổi tiếng. Văn học đời Đường được nghiên cứu nhiều nhất nhưng lịch sử 300 năm nhà Đường với 5 vạn bài thơ cùng năm, sáu chục nhà thơ được biết tên tuổi thì những nghiên cứu của khóa luận về thời kỳ này còn ít. Các đề tài tập trung nghiên cứu chủ yếu vào Lý Bạch, Đỗ Phủ (thời Thịnh Đường), Bạch Cư Dị (thời Trung Đường) trong khi thời Sơ Đường với Tứ kiệt (Vương Bột, Dương Quýnh, Lư Chiếu Lân, Lạc Tân Vương); thời Thịnh Đường còn có nhóm nhà thơ sơn thủy điền viên và nhà thơ biên ải; Vãn Đường với nhà thơ nổi tiếng như Đỗ Mục, Đỗ Thương Ẩn…đều chưa được nghiên cứu đến.
CHƯƠNG BA
CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU CHÍNH CỦA KHÓA LUẬN
Khi khảo sát hệ thống đề tài khóa luận chúng tôi nhận thấy những người thực hiện khóa luận sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu. Nội dung của khách thể nghiên cứu phong phú đòi hỏi phương pháp nghiên cứu phải đa dạng. Chúng tôi thực hiện chia hệ thống khóa luận làm hai phần với mốc là năm 1986 (năm Việt Nam bắt đầu tiến hành đường lối đổi mới đất nước). Sở dĩ chọn cách chia như thế vì từ năm 1986 đã bắt đầu xuất hiện những cách tiếp nhận văn học mới như thi pháp học, phong cách học và văn học so sánh.
3.1. Đề tài từ 1966 - 1986
Từ thập kỉ 60 đến 80 của thế kỉ XX, với quan niệm chức năng văn học là nhận thức đời sống nên việc nghiên cứu văn học chịu tác động của chính trị. Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp xã hội học, lý luận văn học. Cũng có một số khóa luận thực hiện phương pháp nghiên cứu mới nhưng chỉ tìm hiểu bước đầu, sơ khai.
Khảo sát 45 đề tài (từ 1966 - 1984) chúng tôi thấy các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là:
3.1.1. Phương pháp xã hội học - chính trị (17/102= 16.6%)
3.1.1.1. Con người trong văn học qua các thời kỳ (10/102=9.8%)
- Hình tượng người phụ nữ trong tiểu thuyết Lỗ Tấn
- Hình tượng người phụ nữ trong thơ Đường (chủ yếu qua thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ)
- Hình tượng người phụ nữ trong “Hồng lâu mộng”
- Hình tượng nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết hiện đại Trung Quốc “Đá đỏ”, “Sáng nghiệp sử”
- Hình tượng con người mới xã hội chủ nghĩa trong “Sáng nghiệp sử”
- Hình tượng con người mới trong “Sáng nghiệp sử”
- Hình tượng nhân vật trong chiến tranh qua thơ Đỗ Phủ
- Anh hùng nông dân qua một số nhân vật trong “Thủy hử”
- Tính cách con người của giai cấp thống trị Trung Quốc trong các tác phẩm của Lỗ Tấn
- Nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc (Giới hạn ở hai bộ tiểu thuyết Tam Quốc và Thủy hử)
3.1.1.2. Nội dung chính trị - xã hội (7/102=6.86%)
- Vấn đề biểu hiện mâu thuẫn nội bộ nhân dân trong kịch hiện đại Trung Quốc
- Vấn đề đấu tranh giai cấp được phản ánh trong phần dân ca của Kinh thi
- Hồ Chủ tịch trong lòng nhân dân thế giới qua một số tác phẩm đã dịch
- Hình tượng Tổ quốc và thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ
- Vấn đề trung vua yêu nước trong thơ Đỗ Phủ
- Bước đầu phê phán quan điểm văn nghệ của chủ nghĩa Mao trong những năm 1942 - 1969
- Thơ phản ánh chiến tranh của Đỗ Phủ
3.1.2. Phương pháp lý luận văn học
3.1.2.1. Đề tài, chủ đề và tư tưởng tác phẩm (13/102= 12.74%)
- Sơ lược tổng kết những ý kiến khác nhau trong việc đánh giá cuốn “Hồng lâu mộng” ở Trung Quốc từ trước đến nay Trong 45 đề tài từ 1966 - 1986 có đề tài này chúng tôi coi là bước đầu có ảnh hưởng của lý thuyết tiếp nhận nhưng ngay tên đề tài đã cho thấy cách tiếp cận này mang chủ yếu về nội dung (dưới dạng tổng kết sơ lược) mà chưa đề cập đến phương thức tiếp cận để đưa ra những ý kiến đó. Vì thế, chúng tôi vẫn xếp vào phương pháp nghiên cứu theo lý luận văn học.
- Cái bi và cái hài trong tiểu thuyết Lỗ Tấn
- “Đá đỏ” - một bài ca về chủ nghĩa anh hùng cách mạng
- Tìm hiểu chủ nghĩa nhân đạo trong thơ Đường (qua thơ Lý Bạch và Đỗ Phủ)
- Ảnh hưởng của Đỗ Phủ với các nhà thơ yêu nước Việt Nam
- Vấn đề tình yêu trong “Hồng lâu mộng”
- Về chủ nghĩa nhân đạo trong thơ Đỗ Phủ (2 khóa luận số 35 và 42)
- Sự tàn bạo xảo quyệt của Tào Tháo trong “Tam quốc diễn nghĩa” của La Quán Trung
- Giá trị hiện thực tố cáo của “Chuyện làng Nho”
- Cảnh và tình trong thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ
- Tiếng cười của Lỗ Tấn qua truyện ngắn
Bước đầu tìm hiểu những nguyên lý cơ bản do Bạch Cư Dị đề xướng
3.1.2.2. Nhân vật và tính cách (10/102 = 9.8%)
- Cách thể hiện nhân vật tích cực trong tiểu thuyết đương đại Trung Quốc
- Mối quan hệ giữa hoàn cảnh và tính cách trong kịch và kịch hiện đại Trung Quốc
- Đặc điểm xây dựng hình tượng nhân vật tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc
- Phân tích, so sánh tính cách Lâm Đại Ngọc và Tiết Bảo Thoa trong tác phẩm “Hồng lâu mộng”
- Nghệ thuật xây dựng tính cách nhân vật trong “Tam quốc diễn nghĩa”
- Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật trong “Hồng lâu mộng”
- So sánh anh hùng Thành Cương trong tác phẩm “Đá đỏ” và anh hùng Lương Sinh Bảo trong tác phẩm “Sáng nghiệp sử”
- Bước đầu tìm hiểu mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh trong tác phẩm “Hồng lâu mộng”
- Tìm hiểu nghệ thuật xây dựng nhân vật anh hùng trong “Tam quốc diễn nghĩa”, “Thủy hử’ và “Tây du ký”
- Sơ bộ tìm hiểu tính chất anh hùng trong truyện “Thủy hử” của Thi Nại Am
3.1.2.3. Cốt truyện và kết cấu (1/102=0.98%)
- Niêm luật và kết cấu thơ Đường luật
3.1.2.4. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học: Không có công trình nào nghiên cứu (0%)
3.1.3. Trường hợp khác
Trong 45 đề tài từ 1966 - 1986 có 4 đề tài chúng tôi cho rằng đã bắt đầu đi theo hướng tiếp cận mới là:
Đỗ Phủ ở Việt Nam
Vấn đề thừa kế di sản thơ Đường và sáng tạo cái mới qua “Truyện Kiều” của Nguyễn Du
Tìm hiểu việc dịch thuật và nghiên cứu Đường thi ở Việt Nam trước Cách mạng tháng tám
Tình hình nghiên cứu Lỗ Tấn ở Việt Nam
Những đề tài này được coi là trường hợp bước đầu đã tiếp cận với phương pháp nghiên cứu văn học mới. Tuy nhiên, chỉ với bốn đề tài này thì phương pháp chưa đủ trở thành phổ biến để chúng tôi phân loại thành một nhóm riêng. Đây chỉ là đề tài được coi là tiền đề để phát triển những hướng tiếp cận mới cho việc triển khai đề tài ở thời kỳ sau. Ví dụ như đề tài: “Vấn đề thừa kế di sản thơ Đường và sáng tạo cái mới qua Truyện Kiều của Nguyễn Du” thì đề tài ở giai đoạn sau cũng theo hướng tiếp cận như thế: “Nguyễn Du với tinh hoa thơ cổ điển Trung Quốc”.
Từ góc độ tiếp nhận lý thuyết tiếp nhận văn học thì những vấn đề được tập trung chủ yếu theo phương diện xã hội trong đó đặc biệt chú ý mối quan hệ trong đời sống. Có thể coi đây là những đề tài được ưa chuộng và hợp thời bấy giờ. Nhìn lại một phẩm văn học tức là nhìn lại những tư tưởng chính trị- xã hội quan trọng chi phối trong thời đại đó. Cách tiếp nhận văn học như thế dựa trên tư tưởng văn học có tác dụng phục vụ chính trị. Điều này cũng giải thích một hiện tượng mà chúng tôi khảo sát khi xem các thư mục tham khảo của hầu hết các khóa luận đều là những sách về nguyên lý của chủ nghĩa Mác nói chung và quan điểm của Mác - Enghen bàn về văn học, nghệ thuật nói riêng.
3.2. Đề tài từ 1986 - 2000
Dưới ảnh hưởng quan điểm đổi mới văn nghệ của Đảng, thì bên cạnh những phương pháp Macxit truyền thống có sự du nhập của phương pháp nghiên cứu văn học mới mẻ phương tây như lý luận tiếp nhận, văn học so sánh, ký hiệu học, phương pháp hệ thống, cấu trúc luận….nên tình hình nghiên cứu văn học có những nét đổi mới đáng kể về phương pháp. Đều này thể hiện rõ qua hệ thống đề tài từ 1986. Chúng tôi phân chia các phương pháp của 57 đề tài (từ 1986 - 2000) theo ba hướng chính là: lý luận văn học; thi pháp học, phong cách học; văn học so sánh. Nếu như ở đề tài từ 1966 - 1986 những phương pháp tiếp cận mới xuất hiện như là phương pháp cá biệt (không mang tính phổ biến) thì ở những đề tài trong thời kỳ này khi phương pháp tiếp cận đang dần thay đổi thì những phương pháp nghiên cứu cũ lại trở thành cá biệt và chúng tôi tiếp tục xếp vào các trường hợp khác.
3.2.1. Lý luận văn học
3.2.1.1. Đề tài, chủ đề và tư tưởng tác phẩm(4/102=3.92%)
- Tìm hiểu tư tưởng chính thống thể hiện qua một số nhân vật tiêu biểu trong “Thủy hử toàn truyện”
- Đề tài gia đình trong tiểu thuyết “Hồng lâu mộng”
- Tình yêu và hôn nhân trong “Hồng lâu mộng”
- Vấn đề tình yêu trong “Hồng lâu mộng”
3.2.1.2. Nhân vật và tính cách (10/102=9.8%)
- Tìm hiểu nghệ thuật biểu hiện nhân vật trong tiểu thuyết “Thủy hử”
- Nhân vật trong hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng hoàng” của Lỗ Tấn
- Phương pháp xây dựng nhân vật của Lỗ Tấn trong hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng hoàng”
- Nghệ thuật xây dựng nhân vật Phượng Thư trong “Hồng lâu mộng”
- Bước đầu tìm hiểu hình tượng nhân vật Vương Hi Phượng
- Phân tích tính cách một số mặt - nhóm nhân vật và nghệ thuật biểu hiện trong tác phẩm “Hồng lâu mộng”
- Tìm hiểu hình tượng nhân vật kì ảo trong đoản thiên tiểu thuyết “Liêu trai chí dị” của Bồ Tùng Linh
- Tìm hiểu nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật của Lỗ Tấn qua hai tập truyện ngắn “Gào thét” và “Bàng hoàng”
- Nghệ thuật biểu hiện tính cách “li biệt” và “hội ngộ” trong thơ Đỗ Phủ
- Tìm hiểu thủ pháp nghệ thuật miêu tả tâm lý trong tiểu thuyết “Hồng lâu mộng”
3.2.1.3. Cốt truyện và kết cấu (7/102=6.86%)
- Kết cấu truyện ngắn Lỗ Tấn
- Không gian và thời gian nghệ thuật trong thơ Đường luật của Đỗ Phủ
- Không gian và thời gian nghệ thuật trong truyện ngắn Lỗ Tấn
- Không gian và thời gian nghệ thuật trong “Tam quốc diễn nghĩa”
- Thời gian, không gian nghệ thuật và tính cách nhân vật trong tiểu thuyết “Một nửa đàn ông là đàn bà” của Trương Hiền Lượng
- Cái xảo - nghệ thuật kết cấu tiểu thuyết Trung Quốc của La Quán Trung
- Các cung bậc của tiếng cười châm biếm trong “Nho lâm ngoại sử”
3.2.1.4. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học (1/102=0.98%)
- Hệ thống ngôn ngữ gốc Hán trong “Cung oán ngâm khúc”
3.2.1.5. Lý luận chung (7/102=6.86%)
- Nghệ thuật viết kịch của Tào Ngu qua vở “Lôi Vũ”
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khóa luận nghiên cứu văn học Trung Quốc của SV Khoa Ngữ văn, ĐHTH Hà Nội (1966-2000) - Nhìn từ góc độ tiếp nhận.doc