Khóa luận Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156 Bộ luật hình sự lý luân và thực tiễn

MỤC LỤC

 

LỜI NÓI ĐẦU 1

CHƯƠNG I 4

LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH SỰ VIỆT NAM QUY ĐỊNH VỀ 4

TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ 4

1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985 4

2. Giai đoạn từ khi BLHS năm 1985 ra đời đến khi ban hành BLHS năm 1999 8

2.1. BLHS năm 1985 quy định về tội làm hàng giả, tội buôn bán hàng giả 8

2.2. BLHS năm 1999 và những tiến bộ của nó về tội sản xuất, buôn bán hàng giả so với BLHS năm 1985 12

CHƯƠNG HAI 14

TỘI SẢN XUÂT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ THEO QUY ĐỊNH TẠI ĐIỀU 156 BỘ LUẬT HÌNH SỰ 14

1. Dấu hiệu pháp lý của tội sản xuất, buôn bán hàng giả 14

1.1. Khách thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả 14

1.2. Mặt khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả 22

1.3. Chủ thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả 27

2. Mặt chủ quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả 30

3. Hình phạt đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả 33

3.1. Hình phạt chính 33

3.2. Hình phạt bổ sung 38

4. Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với một số tội phạm khác của BLHS năm 1999 39

4.1. Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp tại Điều 171 BLHS 39

4.2. Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với các tội sản xuất , buôn bán hàng giả khác tại Điều 157, 158 BLHS 40

4.3. Phân biệt tội sản xuất, buôn bán hàng giả với các tội làm giả khác tại các Điều 164,180,181 BLHS 41

CHƯƠNG III 43

THỰC TIỄN XÉT XỬ TỘI SẢN XUẤT, BUÔN BÁN HÀNG GIẢ TRONG NHỮNG NĂM GÂN ĐÂY(2003-2007) 43

1. Thực tiễn xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả từ năm 2003 đến năm 2007 43

2. Những hạn chế của hoạt động xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả và những nguyên nhân của những hạn chế đó 46

3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động xét xử tội sản xuất, buôn bán hàng giả 51

CÁC CHỮ VIẾT TẮT 54

 

 

doc56 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10073 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Điều 156 Bộ luật hình sự lý luân và thực tiễn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho nên nền sản xuất hàng hóa có một ý nghĩa quyết định đến sự phát triển này. Chúng ta không chỉ cần sản xuất ra nhiều hàng hóa mà chất lượng của những loại hàng đó còn phải đáp ứng được yêu cầu của con người đang ngày một tăng lên. Hàng giả xuất hiện trên thị trường với nhiều hình thức tinh vi, bề ngoài giống như hàng thật lưu thông, phân phối trên thị trường hoặc được trộn lẫn với hàng thật để dễ bán. Từ đó gây ra những tác động xấu về mặt kinh tế, xã hội, giảm lòng tin của người tiêu dùng với nhà sản xuất nhằm cạnh tranh không lành mạnh và còn có thể gây thiệt hại tính mạng sức khỏe con người. Đối với nền kinh tế, hàng giả và buôn bán hàng giả có ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc dân, đến việc thực hiện chính sách kinh tế gây khó khăn cho việc quản lý thị trường của cơ quan chức năng, nhà nước sẽ mất đi một khoản thu cho ngân sách, gặp nhiều khó khăn trong lĩnh vực quản lý các lĩnh vực sản xuất, điều phối, lưu thông hàng hóa. Là nguyên nhân gây mất ổn định thị trường, ảnh hưởng tới hợp tác kinh tế quốc tế. Đối với nhà sản xuất thì hàng giả không chỉ gây ra những thiệt hại về tài chính mà nó còn giảm uy tín, lòng tin của người tiêu dùng đối với nhà sản xuất, đây là một thủ đoạn canh tranh không lành mạnh. Đối với người tiêu dùng thì ngoài những thiệt hại về tiền bạc, nhu cầu sử dụng không được đáp ứng thì hàng giả không có giá trị sử dụng hoặc có giá trị sử dụng nhưng không đạt tiêu chuẩn cho phép có thể gây ra những tổn hai sức khỏe và tính mạng đối với người tiêu dùng. Ví dụ : Đầu năm 2008, dư luận trong nước đang xôn xao vì vụ mỹ phẩm giả gây chết người, đó là trường hợp của nạn nhân Nguyễn Ngọc Bích ở Châu Thành –Đồng Tháp chết vì sử dụng kem tắm trắng giả… Do vậy, hàng giả và buôn bán hàng giả cần phải được ngăn chặn và xử lý nghiêm minh để bảo vệ những quan hệ xã hội nêu trên. 1.2. Mặt khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả Bất kỳ một tội phạm nào khi xảy ta cũng đều có những biểu hiện diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài mà con người có thể trực tiếp nhận biết được nó như: hành vi, hậu quả cho xã hội, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả, các điều kiện bên ngoài khi thực hiện hành vi. Tổng hợp những điều kiện trên tạo thành mặt khách quan của tội pham. Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm bao gồm những biểu hiện của tội phạm bao gồm những biểu hiện của tội phạm diễn ra hoặc tồn tại bên ngoài thế giới khách quan. Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và cũng không có tội phạm. “ Trong mặt khách quan của tội phạm thì hành vi khách quan là biểu hiện cơ bản, những biểu hiện khác của mặt khách quan chỉ có ý nghĩa khi có hành vi khách quan”. Điều 156 “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả” thọat nhìn ban đầu thì có thể cho đây là điều luật quy định một hành vi khách quan là hành vi sản xuất buôn bán hàng giả nhưng khi xem xét ta thấy đây là một điều luật nhưng quy định hai hành vi khách quan đó là: hành vi sản xuất hàng giả và hành vi buôn bán hàng giả Hành vi sản xuất hàng giả là hành vi làm ra (tạo ra) các loại hàng giả (như đã nêu ở 2.1.1). Làm ra hàng giả là làm với hoàn toàn hoặc lắp ráp từ những bộ phận giả của hàng hóa. Người phạm tội có thể tham gia vào cả quá trình làm ra hàng giả từ đầu đến cuối hoặc chỉ có thể tham gia vào một công đoạn của quá trình làm ra hàng giả như: lắp ráp, chế biến, đóng gói, dán nhãn hiệu để tạo ra hàng giả. Hàng giả được sản xuất ra chủ yếu bằng phương pháp công nghiệp theo một quy trình từ nguyên liệu đến sản phẩm. Điều 156 BLHS năm 1999 không sử dụng thuật ngữ “làm” hàng giả như Điều 167 BLHS năm 1985 mà sử dụng thuật ngữ “sản xuất” hàng giả, sự khác biệt này có những ý nghĩa nhất định. Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức sản xuất mà trong đó có sự phân công lao động và sản phẩm được làm ra phải trải qua nhiều khâu khác nhau của một quá trình sản xuất, được thực hiện theo một quy trình từ nguyên liệu đến sản phẩm. Sản xuất hàng giả như vậy, việc sản xuất hàng giả là việc tạo ra hàng giả trong đó cũng có sự phân công lao động ra các khâu của quá trình sản xuất, hàng giả làm ra phải trải qua các khâu đó. Do vậy để sản xuất phải có từ hai người trở lên hoặc phải có máy móc và trang thiết bị kỹ thuật số lượng hàng giả làm ra là tương đối nhiều. Còn việc “làm” hàng giả là tạo ra sản phẩm giả trên cơ sở bắt chước kiểu dáng, tính năng của một loại hàng hóa nào đó, người làm hàng giả làm ra nó theo phương pháp thủ công, không có quy trình kỹ thuật nhất định nào, số lượng hàng giả làm ra là không nhiều. Việc Điều 156 quy định như vậy có tính hợp lý hơn rất nhiều, do mục đích của tội phạm là hàng giả làm ra để lừa dối khách hàng nhằm thu lợi bất chính. Với mục đích như vậy mà sử dụng thuật ngữ “làm” để chỉ hành vi khách quan của tội phạm này có thể dẫn đến nhầm lẫn với hành vi khách quan của tội phạm khác và cũng có thể là hành vi khác mà không phải tội phạm. Cụ thể là: nếu một người làm ta một sản phẩm được coi là hàng giả, người này đem bán cho người khác nói dối về chất lượng của sản phẩm hay tên gọi của sản phẩm đó để thu tiền “từ 500 nghìn đồng đến dưới 50 triệu đồng hoặc dưới 500 nghìn đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng” thì người đó phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 139 BLHS. Nhưng nếu người đó chỉ làm ra sản phẩm giả đó để sử dụng cho nhu cầu sinh hoạt của bản thân và gia đình mình thì người đó không được coi là hành vi làm hàng giả và không vi pham pháp luật. Do vậy việc sử dụng thuật ngữ “sản xuất” để thực hiện hành vi khách quan của tội sản xuất hàng giả là chính xác và không gây nhầm lẫn. Đối với hành vi buôn bán hàng giả thì hành vi buôn bán hàng giả là hành vi dùng tiền hoặc lợi ích vật chất khác để mua đi, bán lại những hàng hóa mà biết là hàng giả để thu lợi bất chính. Có thể thấy hành vi khách quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả đều được thể hiện dưới dạng hành động. Người phạm tội phải tiến hành một hoạt động cụ thể tác động một cách trực tiếp vào quan hệ xã hội cụ thể. Đối với hành vi sản xuất hàng giả người phạm tội phải tiến hành một loạt các hành động như: lắp ráp, dán nhãn… ngoài ra người phạm tội phải chuẩn bị trước mọi thứ như nguyên liệu, máy móc, nhà xưởng, dự trù loại hàng hóa sản xuất, móc nối để tiêu thụ do vậy họ bắt buộc phải thể hiện bằng hành động. Đối với hành vi buôn bán hàng giả: là hành vi mua đi bán lại hàng hóa giả. Người phạm tội phải tìm mối mua hàng giả sau đó bán lại hàng giả đó cho người khác để thu lợi bất chính. Về thời gian thực hiện tội phạm, thì hành vi sản xuất hàng giả phải xảy ra trong một thời gian dài có tính liên tục còn hành vi buôn bán hàng giả thì khác nó vừa có thể xảy ra trong một thời gian dài liên tục, có thể xảy ra trong thời gian ngắn và không liên tục. Hành vi sản xuất hàng giả và hành vi buôn bán hàng giả có mối quan hệ khăng khít với nhau. Người phạm tội có thể thực hiện một trong hai hành vi hoặc là sản xuất hàng giả hoặc là buôn bán hàng giả; hoặc thực hiện cả hai hành vi vừa sản xuất vừa buôn bán hàng giả. Có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thì hàng giả mới đến tay người tiêu dùng và gây hậu quả. Có hành vi buôn bán hàng giả thì mới tạo ra nhu cầu, và cần có sản xuất để đáp ứng cho nhu cầu này. Ví dụ: Ngày 10/9/2007 Viện kiểm soát nhân dân tối cao đã hoàn thành bản cáo trạng vụ án “cố ý làm trái, buôn bán hàng giả, trốn thuế” xảy ra tại Công ty điện lực thành phố Hồ Chí Minh. Tại bản cáo trạng số: 11/ VKSNDTC – V1B của Viện kiểm sóat nhân dân tối cao thì nhóm bị can nguyên là lãnh đạo nhân viên Công ty Linkton Vina gồm: Trần Thị Liên (Phó chủ tịch hội đồng quản trị); Trần Công Điền (Phó Tổng giám đốc); Phạm Huy Quang (Quản đốc phân xưởng); Nguyễn Trọng Hiển (Trưởng phòng kinh doanh); Đặng Thị Kim Liên (Kế toán trưởng) bị truy tố về tội sản xuất, buôn bán hàng giả theo Khoản 3 Điều 156 BLHS. Những bị can này đã có vi phạm sản xuất ra 312.000 chiếc điện kế điện tử mang nhãn hiệu Linkton Xingapo nhưng thực chất là dùng những linh kiện mua ở trong nước cũ hỏng lắp vào vỏ điện kế điện tử Linkton Xingapo 312.000 chiếc điện kế điện tử này là hàng giả về nguồn gốc xuất xứ, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hóa, kiểu dáng công nghiệp. Những đối tượng này đã móc nối với nhiều người có chức năng tại công ty điện lực thành phố Hồ Chí Minh để tiêu thụ những chiếc điện kế điện tử giả này với giá 580.000đ/ cái. Tổng giá trị hàng giả tương đương với giá trị hàng thật là 181 tỷ đồng. Hành vi của các đối tượng trên là vừa sản xuất vừa có hành vi buôn bán hàng giả. Hành vi nguy hiểm cho xã hội tác động lên các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ không phải theo hướng có lợi mà gây thiệt hại cho quan hệ đó. Hậu quả của tội phạm là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho quan hệ xã hội là khách thể bảo vệ của luật hình sự. Thiệt hại gây ra cho khách thể được thể hiện qua sự biến đổi tình trạng bình thường của các bộ phận cấu thành quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm. Tính chất, mức độ của thiệt hại được xác định bởi tính chất; mức độ biến đổi của các đối tượng tác động của tội phạm. Hậu quả của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là từ sự biến đổi về chất của hàng hóa dẫn đến những thiệt hại cho khách thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả đó là những thiết hại vật chất và phi vật chất cho xã hội như: tính mạng, nhân phẩm, danh dự của con người, những thiệt hại về tài sản cho xã hội và những thiệt hại về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Theo quy định của Điều 156 BLHS thì yếu tố hậu quả của tội phạm không phải lúc nào cũng là dấu hiệu bắt buộc đối với mặt khách quan của tội phạm. Nó chỉ có ý nghĩa là dấu hiệu bắt buộc trong trường hợp “…hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị…dưới 30 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng…” Có ý kiến cho rằng tội sản xuất, buôn bán hàng giả là tội có cấu thành vật chất có nghĩa là phải có các dấu hiệu của mặt khách quan của tội phạm là hành vi, hậu quả và mối quan hệ giữa hành vi hậu quả, thì mới được coi là tội phạm. Nhưng khi nghiên cứu thực tế tội phạm này, chúng tôi thấy rằng tội sản xuất, buôn bán hàng giả có cấu thành hình thức nghĩa là chỉ cần có hành vi “sản xuất, buôn bán hàng giả tương đương số lượng hàng thật có giá trị 30 triệu đồng” đã cấu thành tội phạm mà không cần xem xét dấu hiệu hậu quả của tội phạm. Ví dụ: Khoảng 7h sáng ngày 14/9/2007 công an Thành phố Hà Nội phát hiện một xe ô tô chở 79 cuộn dây điện mang nhãn hiệu SANGJIN – MADE IN KOREA nghi là hàng giả. Sau quá trình điều tra làm rõ thì toàn bộ 79 cuộn dây điện trên là hàng giả và khám xét kho hàng và nơi sản xuất hàng giả của bọn chúng thu được khối lượng hàng giả và nguyên liệu với giá trị tương đương giá trị hàng thật khoảng 255.066.000 đồng và chủ của những cuộn dây điện giả là Phạm Ngọc Anh sinh năm 1981 và Trần Quốc Tuấn sinh năm 1975. Thủ đoạn của bọn chúng là vào khoảng giữa năm 2007 nhận thấy nhãn dây điện SANGJIN bán chạy nên chúng sử dụng dây điện gia công không đảm bảo chất lượng in nhãn hiêu SANGJIN – MADE IN KOREA để bán kiếm lời. Đang trên đường đi tiêu thụ thì bị phát hiện. Theo bản án ngày 14/3/2008 tòa án nhân dân thành phố Hà Nội căn cứ vào Điểm e Khoản 2 Điều 156, Khoản 1 Điều 46, Khoản 1 Điều 60 quyết định: Phạm Ngọc Anh – 1981: 36 tháng tù cho hưởng án treo, phạt tiền 5 triệu đồng; Trần Quốc Tuấn – 1975: 24 tháng tù cho hưởng án treo, phạt tiền 5 triệu đồng. Hành vi của Phạm Ngọc Anh và Trần Quốc Tuấn đã đủ cấu thành tội phạm và thể hiện được tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà không cần gây ra hậu quả. Thủ đoạn của bọn tội phạm sản xuất, buôn bán hàng giả rất đa dạng từ đơn giản đến tinh vi rất khó phát hiện, với cách thức quy mô nhỏ lẻ, phân tán đến sản xuất hàng loạt, có tổ chức, có tính chuyên nghiệp… Đối với hàng giả sản xuất trong nước thì thường làm giả về nhãn hiệu, kiểu dáng tương tự giống hàng thật hoặc sản xuất hàng giả dùng nhãn nhác hàng thật có cả chỉ dẫn địa lý hẳn hoi khiến người tiêu dùng khó phân biệt. Đối với hàng giả sản xuất tại nước ngoài, phần lớn đây là những hàng giả trong nước không sản xuất được hoặc sản xuất phải chi phi cao như: hàng điện tử, điện lạnh, phụ tùng ôtô, thiết bị viễn thông… các hàng giả này thường được gắn nhãn hiệu của các nhà sản xuất lớn có uy tín trong nước và trên thế giới. Có trường hợp chúng “đội lốt” rất tinh vi đặt sản xuất một số bộ phạn của hàng thật như: nhãn tem nhập khẩu, tem chống hàng giả, sau đó nhập lậu vào trong nước để bán. Thủ đoạn thường là buôn bán nhỏ lẻ, phân tán nhiều nơi, khi nào hết sản phẩm mới sản xuất tiếp nhằm trốn tránh việc phát hiện của các cơ quan chức năng. Thủ đoạn khác là cho hàng giả trôn lẫn với hàng thật để tránh sự phát hiện của người tiêu dùng hay chuyên nghiệp hơn là các đối tượng móc nối với các đại lý độc quyền phân phối sản phẩm… Chúng sản xuất các mặt hàng phù hợp với từng thời điểm tiêu thụ. Ví dụ: Xi măng giả tập trung vào mùa xây dựng; hàng điện gia dụng giả tập trung vào mùa tiêu thụ như mùa hè và giáp tết âm lịch; bánh kẹo giả tập trung và dịp tết âm lịch, tết trung thu; mỹ phẩm giả thì bầy bán ngang nhiên trong các cửa hàng sang trọng lẫn lộn với mỹ phẩm thật… 1.3. Chủ thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả Chủ thể của tội phạm là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể. Chủ thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả là người có năng lực TNHS, đạt độ tuổi và có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Khác với một số pháp luật hình sự của một số nước trên thế giới, pháp luật hình sự Việt Nam không coi pháp nhân là chủ thể của tội phạm do vậy trong trường hợp pháp nhân có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả thỏa mãn các dấu hiệu của cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 156 BLHS thì pháp nhân đó không bị truy cứu TNHS. Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì chỉ cá nhân mới phải chụi TNHS. Do vậy pháp nhân phạm tội thì người đại diện của pháp nhân sẽ là người bị truy cứu TNHS hay người đại diện đó mới là chủ thể tội phạm. Việc quy đinh như vậy sẽ có trường hợp dẫn đến bỏ lọt tội phạm; do nếu một pháp nhân phạm tội thì tất cả các thành viên của pháp nhân đó đều thực hiện hành vi phạm tội nhưng chỉ có một người phải chịu TNHS. Từ thực tế này cho thấy, quy định của pháp luật hình sự là chưa phù hợp cần có những sửa đổi hợp lý hơn. Chủ thể của tội sản xuất, buôn bán hàng giả có thể là chủ thể đặc biệt “lợi dụng quyền hạn, chức vụ” quy định tại Điểm d Khoản 2 Điều 156. Nếu người phạm tội là người nước ngoài (người có quốc tịch nước khác hoặc không có quốc tịch) phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả trên lãnh thổ Việt Nam thì vẫn bị truy cứu TNHS theo quy định của BLHS Việt Nam trừ những trường hợp được hưởng quyền ưu đãi miễn trừ theo quy định của pháp luật Việt Nam và ĐƯQT mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia thì khi đó TNHS của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao. Về tuổi chịu TNHS: theo tinh thần của các Điều 8, Điều 12 BLHS thì độ tuổi của người phạm tội theo quy định tại Điều 156 sẽ như sau: Nếu người phạm tội từ đủ 14 tuổi đến 16 tuổi không phải chịu TNHS về tội phạm này quy định tại Khoản 1 của điều luật, nhưng phải chịu TNHS về tội phạm này quy đinh tại Khoản 2 và Khoản 3 của điều luật. Vì Khoản 1 của điều luật là “tội phạm nghiêm trọng” là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội là mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy đến 7 năm tù (Khoản 3 Điều 8) mà Khoản 1 Điều 156 thì mức cao nhất của khung hình phạt là năm năm tù và căn cứ tại Khoản 2 Điều 12 tuổi chịu TNHS “Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu TNHS về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc hoặc tội pham đặc biệt nghiêm trọng”. Còn theo quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 156 là tội rất nghiêm trọng và mức cao nhất của khung hình phạt tại Khoản 2 là đến mười năm tù, Khoản 3 là đến mười lăm năm tù (căn cứ vào Khoản 3 Điều 8). Nếu “người phạm tổi đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm” (Khoản 2 Điều 12 BLHS). Vấn đề nhân thân người phạm tội theo quy định tại Khoản 1 Điều 156 “Người nào sản xuất, buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị… dưới 30 triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại một điều khoản trong các Điều 153, 154, 155, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”. Qua đây ta thấy dấu hiệu đã bị xử phạt hành chính… mà còn vi phạm là người phạm tội đã từng bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả hoặc một trong các hành vi quy định tại Điều 153 (Tội buôn lậu); Điều 154 (Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới); Điều 155 (Tội sản xuất tàng trữ, vận chuyển, buôn bán hàng cấm); Điều 157 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 158 ( Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng vật nuôi); Điều 159 (Tội kinh doanh trái phép); Điều 161 (Tội trốn thuế). Sở dĩ quy định như vậy là do nhóm tội này có tính chất nguy hiểm cho xã hội tương đối giống nhau. Do vậy việc quy định đã bị xử phạt hành chính về các hành vi quy định tại các tội trên cũng có ý nghĩa như quy định đã xử phạt hành chính về các hành vi quy định tại các tội trên cũng có ý nghĩa như quy định đã xử phạt hành chính hành vi quy định về tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Theo quy định tại Điều 11 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính: “… nếu qua một năm kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc từ ngày hết thời hiệu thi hành quyết định xử phạt mà không tái phạm thì được coi là chưa có vi phạm pháp luật.” thì “… đã bị xử phạt hành chính mà còn vi phạm…” là trường hợp người có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả nhưng giá trị hàng giả tương đương với giá trị của hàng thật là dưới 30 triệu đồng nhưng không gây ra hậu quả nghiêm trọng thì bị phát hiện và bị xử phạt hành chính nhưng chưa hết hạn một năm, kể từ ngày chấp hành xong quyết định xử phạt hoặc chưa chấp hành xong quyết định xử phạt thì lại có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Việc người này đã vi phạm lại tiếp tục vi phạm như vậy thể hiên tính ngoan cố của chủ thể vi phạm do vậy cần xử lý thật nghiêm minh. Việc quy định còn cho thấy chính sách hình sự của nhà nước ta là tương đối tiến bộ; trước tiên là giáo dục sau đó mới xử lý bằng hình phạt. Dấu hiệu “ đã bị kết án về một trong các tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm” là trường hợp người phạm tội đã có bản án kết tội về một trong các hành vi quy định tại Điều 153 ,154, 155, 157, 158, 159 và 161 của BLHS… chưa chấp hành xong hình phạt hoặc đã chấp hành xong hình phạt nhưng trong thời gian thử thách lại có hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Đây là các trường hợp tái phạm nguy hiểm (Điều 49 BLHS). Qua quy định trên, ta thấy được thái độ nghiêm khắc của nhà nước đối với hành vi phạm tội liên tiếp này. Các quy định đã thể hiện một chính sách hình sự tiến bộ của nhà nước ta nó vừa mang tính giáo dục vừa nghiêm minh đối với những tội phạm ngoan cố, không chịu hối cải. 2. Mặt chủ quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả Tội phạm là một thể thống nhất của hai mặt khách quan và chủ quan. Mặt khách quan là những biểu hiện ra bên ngoài của tội phạm, còn mặt chủ quan của tội phạm là hoạt động tâm lý bên trong của người phạm tội. Mặt chủ quan của tội phạm bao gồm: lỗi, mục đích, động cơ, trong đó lỗi là dấu hiệu được phản ánh trong tất cả các cấu thành tội phạm. “Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý”. Một người thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi có đủ điều kiện khách quan và chủ quan để lựa chọn và thực hiện xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Đối với “Tội sản xuất, buôn bán hàng giả”, hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng: người thực hiện hành vi quy định tại Điều 156 được thực hiện với lỗi cố ý. Tuy nhiên, để xác định đây là lỗi cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp thì có nhiều quan điểm trái ngược nhau: Quan điểm thứ nhất cho rằng lỗi của tội phạm này là lỗi cố ý trực tiếp, người phạm tội biết rõ hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả do mình thực hiện là nguy hiểm cho xã hội trái pháp luật nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi đó. Quan điểm thứ hai cho rằng người thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả là do lỗi cố ý (cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp) người thực hiện các hành vi này, nhận thức rõ các hành vi của mình là trái pháp luật, thấy trước được hậu quả của hành vi và mong muốn cho hậu quả xảy ra hoặc bỏ mặc cho hậu quả xảy ra. Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ nhất bởi tội sản xuất, buôn bán hàng giả có cấu thành hình thức. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội không phải là dấu hiệu bắt buộc cho nên việc xác định ý chí của người phạm tội đối với hậu quả nguy hiểm cho xã hội không được đặt ra. Người phạm tội đã nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của các hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả song vẫn luôn mong muốn thực hiện các hành vi đó. Do vậy, lỗi trong trường hợp này phải được xác định là lỗi cố ý trực tiếp. Vì tội sản xuất, buôn bán hàng giả gồm hai hành vi là hành vi sản xuất hàng giả và hành vi buôn bán hàng giả. Đối với hành vi sản xuất hàng giả luôn được người thực hiện hành vi với lỗi cố ý trực tiệp đối với hành vi buôn bán hàng giả thì vấn đề lỗi lại có quan điểm khác nhau: Có quan điểm cho rằng hành vi buôn bán hàng giả có thể được thực hiện với lỗi cố ý của người phạm tội. Có nghĩa là có trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi cố ý: biết rõ là hàng giả mà vẫn buôn bán, nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội nhưng vẫn mong muốn thực hiện hành vi; có trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi với lỗi vô ý: họ thực hiện hành vi buôn bán hàng giả nhưng không biết hàng hóa mình đang buôn bán là hàng giả, họ không nhận thức được hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội mặc dù phải thấy trước hoặc có thể thấy trước. Do vậy, nếu một người nào có hành vi buôn bán hàng giả với lỗi vô ý nếu không xảy ra hậu quả nghiêm trọng thì không bị truy cứu TNHS. Quan điểm khác cho rằng hành vi buôn bán hàng giả được quy định trong tội phạm này luôn được người phạm tội thực hiện với lỗi cố ý: biết rõ hàng hóa mình đang mua bán là giả nhưng vẫn mua bán để thu lợi bất chính. Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai này vì theo quy định của Nhà nước và Pháp luật đối với cơ sở kinh doanh phải kiểm soát được chất lượng hàng hoá mà mình bán ra. Mặt khác trong thực tiễn xét xử tội này của các tòa án nước ta, thì tòa án rất ít quan tâm đến xác định hành vi phạm tội đó có lỗi cố ý hay vô ý mà chủ yếu quan tâm đến mức độ nguy hiểm cho xã hội để truy cứu TNHS hay không. Ngoài yếu tố lỗi, trong mặt chủ quan của tội phạm còn có các yếu tố khác như đông cơ phạm tội , mục đích phạm tội. Động cơ là động lực bên trong thúc đẩy người phạm tội thực hiện hành vi phạm tội cố ý. Nhìn chung, động cơ phạm tội không có ý nghĩa quyết định đến tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội phạm. Hầu hết các điều luật đều không quy định dấu hiệu động cơ phạm tội trong cấu thành tội phạm. Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả, thì động cơ phạm tội cũng không phải là dấu hiệu bắt buộc khi định tội hoặc quyết định hình phạt. Tuy nhiên việc làm rõ động cơ phạm tội trong từng trường hợp cụ thể để nắm bắt nguyên nhân của tội phạm sẽ giúp nhà nước đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm và xây dựng các chính sách kinh tế xã hội phù hợp. Thực tế động cơ phạm tội này chủ yếu là do lòng tham, vụ lợi. Các chủ thể thực hiện tội phạm đều hướng tới những mục đích nhất định. Mục đích phạm tội là kết quả trong ý thức chủ quan mà người phạm tội đặt ra phải đạt được khi thực hiện hành vi phạm tội. Tội sản xuất, buôn bán hàng giả được thực hiện lỗi cố ý trực tiếp do vậy mục đích phạm tội là luôn tồn tại. Chủ thể thực hiện hành vi này nhằm mục đích thu lợi bất chính và cạnh tranh không lành mạnh. Do vậy khi giải quyết vụ án phải xác định người phạm tội có mục đích thu lợi bất chính hay không? Nếu không có mục đích này thì không thể định tội danh là sản xuất, buôn bán hàng giả. Ví dụ: Một người làm ra một loại hàng giả (giả chiếc võng xếp Duy Lợi ) nhưng chỉ để phục vụ cho gia đình người đó mà không dùng để bán hay kinh doanh, do vậy họ không có mục đích thu lợi. Họ không phạm tội sản xuất, buôn bán hàng giả. Như vậy, mặt chủ quan của tội sản xuất, buôn bán hàng giả đều nhằm đạt được mục đích nhất định, nhưng mục đích thu lợi bất chính, cạnh tranh không lành mạnh là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Việc xác định động cơ phạm tội không có ý nghĩa đối với việc định tội. 3. Hình phạt đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội. Hình phạt luôn thể hiện chính sách hình sự của nhà nước ta không chỉ mang tính chất của các biện pháp cưỡng chế, trấn áp bao gồm: hành phạt chính và hình phạt bổ su

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (60).doc
Tài liệu liên quan