MỤC LỤC
Lời nói đầu 6
Chương I: Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và kinh nghiệm thu hút FDI của một số nước 9
I. Những khái niệm cơ bản về FDI 9
1. Khái niệm 9
2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp 10
3. Các hình thức chủ yếu của đầu tư trực tiếp 10
4. Vai trò của nguồn vốn FDI đối với các nước đang phát triển 11
II. Xu hướng vận động của vốn FDI trên thế giới sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á năm 1997-1998 12
1. Dòng vốn FDI đang phục hồi từ sau khủng hoảng Châu Á và vẫn chịu sự chi phối chủ yếu của các nước công nghiệp phát triển 12
2. ĐTNN dưới hình thức hợp nhất hoặc mua lại các chi nhánh công ty ở nước ngoài vẫn là chiến lược hợp tác phát triển chính của các công ty xuyên quốc gia (TNCs). 15
3. Có sự thay đổi sâu sắc trong lĩnh vực đầu tư trên thế giới. 17
4. Các tập đoàn xuyên quốc gia đóng vai trò quan trọng trong luồng vốn FDI của thế giới. 18
5. Các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước ở Châu Á sau khủng hoảng đang là trung tâm thu hút mạnh mẽ vốn FDI. 19
III. Một số kinh nghiệm thu hút vốn FDI từ các nước trong khu vực sau cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ Châu Á. 20
1. Kinh nghiệm từ Thái Lan 21
2. Kinh nghiệm từ Hàn Quốc 22
3. Kinh nghiệm từ Trung Quốc 24
4. Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam 26
Chương II : Thực trạng thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam trong giai đoạn 1996-10/2002 28
I. Quan điểm và chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam. 28
II. Thực trạng việc thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam giai đoạn 1996-10/2002. 33
1. Thực trạng thu hút và sử dụng FDI giai đoạn 1996-10/2002 33
1.1 Lượng vốn, lượng dự án, quy mô dự án qua các năm 33
1.2 Cơ cấu đầu tư 35
2. Tình hình thực hiện dự án FDI trong giai đoạn này 42
3. Đánh giá vai trò của FDI trong phát triển kinh tế xã hội 46
III. Những tồn tại trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI vào Việt Nam. 51
1. Nhận thức quan điểm về ĐTNN chưa quán triệt, nhất quán 51
2. Sự chưa hoàn chỉnh trong hệ thống luật pháp và chính sách ĐTNN: 52
2.1. Những hạn chế về luật pháp 52
2.2 Những hạn chế trong chính sách 54
3. Công tác quy hoạch còn chậm, chất lượng chưa cao, thiếu cụ thể dẫn đến cơ cấu vốn đầu tư chưa hợp lý 59
4. Môi trường đầu tư của Việt Nam chưa được chuẩn bị tốt để thu hút và sử dụng vốn FDI hiệu quả 61
Chương III: Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào Việt Nam giai đoạn 2003-2010.
68
I. Triển vọng thu hút vốn FDI của nước ta giai đoạn 2003-2010 68
1. Mục tiêu, nhiệm vụ thu hút FDI tại Việt Nam trong thời tới 68
2. Những thuận lợi và khó khăn trong thu hút FDI 69
2.1 Những thuận lợi 69
2.2 Những khó khăn 71
II. Giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư vào Việt Nam trong giai đoạn 2003-2010 72
1. Thống nhất nhận thức, xây dựng chiến lược và nâng cao chất lượng quy hoạch vốn FDI 73
2. Hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động ĐTNN 74
3. Đổi mới và triển khai hiệu quả các chính sách về vốn FDI 79
4. Nâng cao hiệu quả quản lý và hiệu lực điều hành của Nhà nước trong lĩnh vực ĐTNN 87
5. Đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động và xúc tiến đầu tư 90
6. Chú trọng công tác đào tạo cán bộ, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức đoàn thể trong các doanh nghiệp ĐTNN 91
Kết luận chung 93
Tài liệu tham khảo 95
Phụ lục 98
98 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1767 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Triển vọng và giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam giai đoạn đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ớc ta - phải chịu những ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu á, thêm nữa trong giai đoạn 1996-2000, môi trường kinh doanh của Việt Nam bộc lộ nhiều mặt hạn chế, kém thuận lợi... làm cho các dự án khó triển khai dự án hơn, thậm chí ngay cả các dự án đang trong quá trình thẩm định cũng có những hoài nghi về tính khả thi của nó.
Mặt khác, các nhà đầu tư khi lập dự án đã tính toán chưa thật sát với thực tế nên khi triển khai dự án họ gặp phải một số vấn đề phát sinh vượt khả năng tài chính cũng như những yếu tố điều kiện cho doanh nghiệp vận hành, nên dự án mất khả năng thực hiện...
Tuy nhiên bước sang năm 2001, thông qua các nghị định thông tư, nhà ĐTNN đã được hưởng thêm nhiều ưu đãi mới. Vì thế, năm 2001, chỉ có khoảng 60 dự án bị giải thể trước hạn với số vốn đăng ký là 1,45 tỷ USD, bằng 79% so với năm 2000.
e. Tình hình triển khai các hoạt động vận động, xúc tiến đầu tư:
Để tăng khả năng cạnh tranh thu hút vốn FDI trong những năm qua, Việt Nam đã rất quan tâm đến việc tăng cường các hoạt động xúc tiến, vận động đầu tư.
Tháng 7 năm 2000, sau gần 5 năm đàm phán, Nhà nước Việt Nam đã ký kết thành công Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ. Đến tháng 11 năm 2001, Quốc hội nước ta đã chính thức phê chuẩn Hiệp định này, dẫn đến việc Hiệp định chính thức có hiệu lực vào ngày 10/12/2001. Đây là bước đánh dấu quan trọng trong tiến trình mở cửa hội nhập kinh tế của Việt Nam, đồng thời cũng mở một chương mới trong quan hệ kinh tế thương mại với Hoa Kỳ - vốn là một đất nước nắm trong tay công nghệ nguồn và đứng đầu trong danh sách các nước đầu tư vốn ra nước ngoài.
Trong năm 2001, hoạt động xúc tiến đầu tư càng được đẩy mạnh:
- Tháng 2/2001, tổ chức Hội thảo xúc tiến và triển khai dự án ĐTNN tại Việt Nam.
- Tháng 3/2001, tiếp tục tổ chức Hội nghị hướng tới thành công tại Singapo có sự tham gia của tổ chức tài chính quốc tế (WB-IFC) nhằm học hỏi kinh nghiệm và tìm các giải pháp thiết thực thúc đẩy việc thu hút và thực hiện thành công ĐTNN tại Việt Nam.
- Tháng 10/2001, Bộ kế hoạch đầu tư phối hợp với các bộ ngành tổ chức Hội thảo vấn đề hướng tới thành công trong ngành công nghiệp, nhằm phác thảo phương hướng cho ngành công nghiệp nước ta trong thời gian tới, đã thu hút được đông đảo các doanh nghiệp ĐTNN tham dự.
- Tháng 12/2001, trong chuyến thăm chính thức của Đoàn địa biểu Chính phủ Việt Nam tại Hoa Kỳ, Bộ kế hoạch đầu tư đã phối hợp với Phòng Thương Mại Công Nghiệp và các Hiệp Hội kinh doanh của Hoa Kỳ tổ chức thành công diễn đàn kinh tế Việt Nam với sự tham gia đông đảo của các Công ty đầu tư, thương mại và tài chính lớn của Hoa Kỳ.
- Những tháng đầu năm 2002, UBND tỉnh Lào Cai phối hợp cùng với Bộ Kế hoạch và đầu tư, Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam tổ chức hội nghị: “Lào Cai - cầu nối với thị trường Tây Nam Trung Quốc, cơ hội đầu tư và phát triển”
- Tháng 10/2002, tại Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra hội thảo “Làm thế nào để Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một địa điểm đầu tư hấp dẫn”.
... ...
*
* *
Tóm lại, giai đoạn 1996-2001 là những năm đầy sóng gió trong quá trình thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp của Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam chịu tác động của cuộc khủng hoảng theo “hiệu ứng trễ” làm tốc độ tăng trưởng kinh tế sụt giảm nghiêm trọng những năm 1998-1999, và tất yếu kéo theo thời kỳ khó khăn trong việc thu hút ĐTNN.
Song, đến nay, sóng gió đã qua, bằng mọi biện pháp khắc phục và cải tổ, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam đang có những dấu hiệu hồi phục. Năm 2001-2002, nguồn vốn FDI đã lấy lại đà phát triển không đơn thuần tăng lên về số lượng, mà thực sự đang chuyển sang một thời kỳ đổi mới về chất. Có thể nói FDI là một yếu tố quan trọng góp phần đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ở Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Đánh giá vai trò của FDI trong phát triển kinh tế xã hội:
Hoạt động thu hút FDI tại Việt Nam trong thời gian qua đã đóng góp tích cực ngày càng rõ rệt vào việc thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế- xã hội của đất nước, góp phần quan trọng vào thành công của quá trình đổi mới.
a. Tạo vốn để phát triển.
Trong 15 năm thu hút vốn ĐTNN, FDI bổ sung nguồn vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. Vốn FDI thực hiện qua các năm tăng nhanh: thời kỳ 1991-1995 đạt trên 7 tỷ USD chiếm trên 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, thời kỳ1996-2000 vốn thực hiện đã tăng gấp 1,8 lần giai đoạn trước, chiếm 24% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, góp phần cải thiện về tình trạng thiếu vốn kéo dài.
Tỷ trọng đóng góp của GDP của khu vực có vốn FDI tăng đều qua các năm: năm 1996 chiếm 7,39%, năm 1997, 1998, 1999 mặc dù chịu ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng làm suy giảm luồng vốn này song vẫn chiếm tương ứng là 9,07%, 10,03%, 12,24%; và vẫn tăng đều năm 2000 là 13,25% và năm 2001 chiếm 13,5%. Có thể minh hoạ qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 9 : Tỷ trọng đóng góp GDP của khu vực có vốn FDI
Vốn ĐTNN còn góp phần khai thác và nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực trong nước (lao động, đất đai, tài nguyên...); đồng thời Nhà nước cũng chủ động hơn trong việc bố trí cơ cấu vốn đầu tư, trong đó giành nhiều vốn ngân sách cho lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội, khuyến khích đầu tư trong nước vào vùng kinh tế-xã hội còn gặp khó khăn, nhằm tăng tốc độ tăng trưởng tương đối đồng đều và hợp lý giữa các ngành và các địa phương.
Cùng với quá trình phát triển, mức đóng góp của vốn FDI vào thu ngân sách ngày càng gia tăng, tạo khả năng chủ động trong cân đối ngân sách, giảm bội chi. Giai đoạn 1996-2001, bình quân chiếm 6-7% tổng thu ngân sách, nếu kể cả dầu khí, tỷ lệ này đạt 20%. Ngoài ra thông qua FDI bằng ngoại tệ vào Việt Nam cũng góp phần cải thiện rõ rệt cán cân vãng lai, cán cân thanh toán của ta giai đoan vừa qua tạo thế và lực phát triển mới cho nền kinh tế. [32]
b. Tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Quán triệt chủ trương của Đảng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế hướng vào CNH, HĐH, việc thu hút FDI được phân theo cơ cấu ngành. Đến năm 2001, lĩnh vực công nghiệp và xây dựng đã thực sự trở thành khu vực chủ yếu thu hút vốn đầu tư với 84,4% tổng vốn đăng ký; kế tiếp là lĩnh vực nông lâm thuỷ sản chiếm 14% và ngành sản xuất phi vật chất chỉ chiếm 1,6% tổng vốn. Tháng 5/2002, Nhà nước vừa ban hành danh mục dự án quốc gia gọi vốn đầu tư FDI giai đoạn 2001-2005, trong đó tập trung vào 3 ngành công nghiệp: công nghiệp chế biến dầu khí, công nghiệp khai khoáng và công nghiệp hoá chất- phân bón.
Về cơ cấu đầu tư theo lãnh thổ cũng hình thành rõ rệt, tạo nên vùng kinh tế trọng điểm phát triển kinh tế các vùng khác. Trên cả nước, ba vùng kinh tế trọng điểm gồm vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, miền Trung và phía Nam, có tốc độ tăng trưởng kinh tế vượt trội so với mức tăng trưởng trong cả nước (9,4%).
c. Góp phần mở rộng và tăng nhanh hiệu quả kinh tế đối ngoại:
Qua các lần Đại hội, Đảng và Nhà nước ta giữ vững chủ trương gia tăng xuất khẩu để kích thích tăng trưởng sản xuất trong nước, chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế, cải thiện môi trường ĐTNN, kinh doanh hàng xuất khẩu để chủ động và tích cực thâm nhập thị trường quốc tế.
Kim ngạch xuất khẩu (chưa kể dầu khí) của khu vực ĐTNN tăng nhanh trong những năm qua. Giai đoạn 1996-2001 đạt trên 15 tỷ USD, tăng 13 lần so với giai đoạn 1991-1995 là 1,12 tỷ USD, chiếm 30% kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Trong đó, các mặt hàng chủ lực của Việt Nam được sản xuất trong các doanh nghiệp có vốn ĐTNN cũng tăng nhanh không ngừng: chiếm 42% đối với hàng giầy dép, 25% hàng may mặc và 84% hàng điện tử, tạo cầu nối cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu tại chỗ hoặc tiếp cận với các thị trường quốc tế.[32]
Mặt khác, ĐTNN cũng tạo nhiều hàng hoá cung ứng cho thị trường trong nước, là phong phú thêm hàng hoá, dịch vụ, trong đó có những hàng hoá thay thế hàng nhập khẩu làm tiết kiệm ngoại tệ, góp phần thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng.
Như vậy, trong những năm qua, việc tăng cường thu hút ĐTNN hướng về xuất khẩu đã tạo thuận lợi cho việc tiếp cận và mở rộng thị trường quốc tế, nâng cao năng lực xuất khẩu của Việt Nam, đồng thời thúc đẩy thị trường hàng hoá trong nước phát triển sôi động.
d. Tạo năng lực sản xuất mới, ngành sản xuất mới, phương thức kinh doanh mới có tác động dây chuyền đến thị trường và khách hàng ở nước ta:
Trong điều kiên phát triển kinh tế mang tính chất toàn cầu hoá như hiện nay, công nghệ có tính chất quyết định đến sự phát triển của mỗi nước, đặc biệt là trong giai đoạn đầu của công cuộc CNH, HĐH như nước ta.
Trong những năm vừa qua, thông qua ĐTNN, công nghệ được cải thiện trong các lĩnh vực viễn thông, khai thác dầu khí, hoá chất... hầu hết là các công nghệ hiện đại, đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Phần lớn các dự án công nghiệp điện tử, vật liệu xây dựng, ôtô, xe máy được trang bị dây chuyền công nghệ tương đối hiện đại. Đây là khâu quyết định để sản phẩm nước ta có sức cạnh tranh và tồn tại lâu dài, có khả năng tìm kiếm lợi nhuận cao trên thị trường thế giới.
Trong nhiều trường hợp, do trình độ kiểm tra, kiểm dịch, nhiều ngành sản xuất đã phải nhập về các thiết bị, dây chuyền công nghệ đã lạc hậu so với trình độ của thế giới. Đây là vấn đề bức xúc cần sớm giải quyết, vì tỷ lệ các máy móc này chiếm một phần không nhỏ trong tổng số thiết bị nhập về (55%).
Bên cạnh việc cung cấp nguồn công nghệ mới cho sản xuất trong nước, ĐTNN cũng góp phần thúc đẩy các ngành sản xuất mới của nước ta. Hiện ĐTNN chiếm 100% công suất khai thác dầu thô, 90% lắp ráp ôtô, xe máy, điện tử, 70% chế biến kết cấu thép, đèn hình, 59% kéo sợi, 24% sản xuất xi măng...
ĐTNN cũng giúp mang vào Việt Nam những phương thức kinh doanh mới như các phương thức bán hàng, kinh doanh, tiếp thị... tạo một môi trường kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài.
e. Khai thác tiềm năng lao động, giải quyết công ăn việc làm, nâng cao trình độ quản lý trong doanh nghiệp:
Tính đến nay, doanh nghiệp FDI đã tạo công ăn việc làm cho hàng chục vạn lao động trực tiếp và gián tiếp trong các ngành xây dựng, dịch vụ, thương mại. Phần lớn các lao động được tuyển chọn thông qua các kỳ thi, sau đó được bồi dưỡng tay nghề, sử dụng thiết bị hiện đại, làm việc tác phong công nghiệp và kỷ luật nghiêm túc. Trong số lao động trong các dự án FDI, có khoảng 6000 cán bộ quản lý, 25000 cán bộ kỹ thuật và số lượng đáng kể công nhân lành nghề, phần lớn đã trưởng thành và nắm được công nghệ. Qua hợp tác đầu tư, quan hệ lao động trong doanh nghiệp từng bước cải thiện. Như vậy thực tế, trình độ lao động của người Việt Nam đã được nâng cao đáng kể, ngày một trưởng thành và tích luỹ được nhiều kinh nghiệm quản lý.
ĐTNN cũng đem lại một bộ phận thu nhập đáng kể cho người lao động, cải thiện đời sống của dân cư và tăng sức mua cho thị trường. Mức thu nhập bình quân của người lao động trong các doanh nghiệp này bình quân đạt 70 USD/tháng, cao hơn các ngành nghề ở các khu vực khác từ 30-50%. Trong đó công nghiệp nhẹ khoảng 60% USD/tháng, công nghiệp nặng khoảng 80USD/tháng, dịch vụ 120USD/tháng. Tổng thu nhập của người lao động trong khu vực ĐTNN ước tính hàng năm lên tới khoảng 500 triệu USD.
Như vậy, FDI đã góp phần tích cực không chỉ khai thác một số tiềm năng lao động, mà còn góp phần nâng cao chất lượng nguồn lao động vốn vẫn ở trình độ thấp của nước ta theo xu thế hiện đại.
f. Góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới:
Trong 15 năm mở cửa kinh tế đất nước, ĐTNN đã góp phần rất lớn đưa nền kinh tế thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội những năm 86, phá thế bao vây cấm vận quốc tế đối với đất nước ta do Mỹ khởi xướng, tạo thế và lực mới cho đất nước, là thất bại hoàn toàn âm mưu của kẻ thù nhằm phá hoại chế độ XHCN trên đất nước ta. Sức hấp dẫn của môi trường đầu tư Việt Nam trong thời gian này đã thu hút gần 70 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau trên thế giới đầu tư tại Việt Nam.
Trong tổng số vốn đăng ký đã cấp giấy phép, nguồn vốn đăng ký đã cấp giấy phép, nguồn vốn từ Châu Âu, Mỹ, Canada, úc chiếm gần 40%, vốn từ các nước châu á, đặc biệt là các nước Đông Bắc á chiếm 39%, từ các nước ASEAN chiếm 25%. Ước tính gần 100 công ty xuyên quốc gia có tiềm lực hàng đầu thế giới cũng đang ra sức tìm kiếm cơ hội làm ăn lâu dài ở Việt Nam.
Ngay cả chính phủ Mỹ cũng đã thay đổi chính sách kinh tế đối ngoại với nước ta, thể hiện trong việc xoá bỏ cấm vận và việc ký kết Hiệp định Việt Mỹ. Chính các doanh nghiệp Mỹ cũng đang nhận thấy sự trở lại khá chậm chễ của mình trên thị trường Việt Nam.
Những tồn tại trong việc thu hút và sử dụng vốn FDI vào Việt Nam.
Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã thực sự có tác động tích cực, có vị trí quan trọng, góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng một nền kinh tế công nghiệp hoá.
Tuy vậy, không phải bất cứ lúc nào ĐTNN cũng mang lại những kết quả như mong muốn. Thực tế thu hút FDI vừa qua đã cho thấy cái được và cái chưa được luôn đan xen và chế định lẫn nhau. Cái chưa được trong việc thu hút vốn đã tạo sức cản lớn, làm giảm sút dòng FDI vào nước ta giai đoạn vừa qua.
1. Nhận thức quan điểm về ĐTNN chưa quán triệt, nhất quán:
Các kỳ Đại hội Đảng đã khẳng định rõ sự cần thiết và vai trò quan trọng của nguồn vốn FDI, song trên thực tế nhận thức về nguồn vốn này chưa quán triệt, thông suốt, chưa có sự nhận thức thống nhất ở các cấp, các ngành.
Việc hoạch định các chủ trương và chính sách liên quan đến ĐTNN không đứng độc lập, mà nằm trong mối liên hệ tổng thể với nhiều lĩnh vực khác, như kinh tế chính trị, an ninh quốc phòng, mở rộng hợp tác kinh tế... Do đó, cần thiết phải quán triệt các quan điểm về phạm vi, bản chất, phương thức sử dụng vốn, từ đó xử lý những vấn đề cụ thể về vai trò và hiệu quả của vốn đầu tư, hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, quy mô phát triển của một doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài...
Sự thiếu nhất quán về quan điểm sẽ dẫn đến việc chậm chễ trong hoạch định chính sách, làm chậm tiến độ xem xét dự án, bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư, làm xấu đi môi trường đầu tư..., từ đó ảnh hưởng xấu đến những đánh giá thiếu khách quan về tác động của vốn đầu tư đối với sự phát triển của nền kinh tế. Đây là hạn chế rất lớn, không phải dễ khắc phục, nhưng nếu không có những biện pháp chấn chỉnh kịp thời sẽ trở thành lực cản đối với tiến trình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
2. Sự chưa hoàn chỉnh trong hệ thống luật pháp và chính sách ĐTNN:
2.1 Những hạn chế của luật pháp:
Thứ nhất, một bất cập lớn nhất trong hệ thống luật pháp liên quan đến ĐTNN, là vẫn tồn tại song song 2 luật đầu tư. Đó là luật đầu tư trong nước và luật ĐTNN.
Điều này tất yếu dẫn đến một môi trường đầu tư không bình đẳng cho nhà ĐTNN về thủ tục đầu tư, điều kiện đầu tư, phạm vi hoạt động, cũng như những ưu đãi khác. Mặt khác, đối với nền kinh tế trong nước, khi chưa thể tạo ra thế cân bằng về lợi thế cạnh tranh giữa các doanh nghiệp có vốn ĐTNN và các doanh nghiệp nội địa thì khó có thể tạo ra một động lực thực sự cho sự phát triển sống còn của chính các ngành sản xuất trong nước. Hơn nữa, điều này cũng hoàn toàn đi ngược lại với thông lệ quốc tế về bình đẳng cạnh tranh, gây tâm lý bất ổn cho nhà đầu tư khi tiến hành hoạt động đầu tư, kinh doanh của mình.
Thứ hai, hệ thống luật pháp, chính sách liên quan đến ĐTNN còn thiếu tính hệ thống, tính ổn định, tính minh bạch và tính khả thi.
Nhiều văn bản dưới luật ban hành chậm so với quy định, chậm đi vào cuộc sống. Lại có tình trạng thay đổi quá nhanh, đôi khi quá tuỳ tiện, nên đã làm đảo lộn nhiều dự án kinh doanh, và gây không ít thiệt hại cho nhà đầu tư. Một số văn bản khác của các cơ quan Bộ ngành lại có xu hướng mâu thuẫn, tăng thêm thủ tục, quy trình, dẫn đến tình trạng “trên thoáng, dưới chặt”. Tình hình đó tạo ra nhiều lỗ hổng về pháp lý, gây khó khăn cho các nhà đầu tư chân chính, tạo cơ hội cho các hoạt động phi pháp, gây thất thu cho ngân sách nhà nước.
Không ít nhà đầu tư đã cho kêu ca về tính không rõ ràng trong Luật. Ví dụ, trong Nghị định số 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 đưa ra danh mục các dự án được khuyến khích và các dự án có điều kiện, những lại có sự chồng chéo trong danh mục các hàng hoá, như sản phẩm thép chất lượng cao... Tương tự, các quy định về tỷ lệ đối với hàng xuất khẩu cũng không nhất quán và rõ ràng trong các luật. Một đại diện của ngân hàng Nhật Bản cũng tỏ rõ quan điểm: sự thay đổi trong luật pháp của Việt Nam đang làm người nước ngoài chưa muốn đầu tư và có khuynh hướng chờ đợi đến khi môi trường pháp lý được cải thiện hẳn.
Như vậy, trong quá trình đầu tư tại Việt Nam, mọi nhà ĐTNN đều mong muốn được đảm bảo về tính ổn định và dự báo được của luật pháp để ít nhất có thể tính toán được phần nào lợi ích và rủi ro của việc đầu tư. Do vậy, Nhà nước ta cần có những điều chỉnh hợp lý trong khâu nghiên cứu và ban hành luật, tạo tâm lý thoải mái cho nhà đầu tư khi tham gia kinh doanh ở Việt Nam.
Thứ ba, Hệ thống luật đang trong quá trình hoàn thiện, do đó còn thiếu nhiều đạo luật cần thiết cho sự phát triển của một nền kinh tế bậc cao, như luật cạnh tranh, luật chống độc quyền; nhiều điều luật cũng được thi hành chưa nghiêm, như luật bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp...
Theo Luật sư John Hickin (Công ty Luật JohnsonStoke &Master) thì một lĩnh vực khác cũng còn nhiều bức xúc, đó là hệ thống luật của ta còn thiếu một hệ thống văn bản pháp quy về Phá sản đủ mạnh để điều chỉnh các hoạt động phá sản của doanh nghiệp. Điều này là thực sự cần thiết trong giai đoạn hiện nay, do thực tế khi nhiều công ty xuất hiện thì không thể tránh khỏi hiện tượng một số công ty khác sẽ lâm vào tình trạng khó khăn và buộc phải phá sản và cải tổ lại.
Luật của chúng ta cũng chưa có những chế tài cụ thể nhằm giải quyết các tranh chấp giữa các bên Việt Nam và các đối tác bên ngoài. Vấn đề nóng nhất là hiện nay với một trường hợp tranh chấp, các bên liên quan có thể đưa ra nhiều kiểu phán quyết khác nhau. Có thể thấy rõ rằng hệ thống luật nước ta cần được quan tâm củng cố nhiều, kể cả các văn bản pháp quy, quy trình xét xử, các cách thức giải quyết tranh chấp cũng như nâng cao năng lực của một bộ phận không nhỏ công chức hành pháp.
Thứ tư, hình thức đầu tư còn hạn chế.
Luật ĐTNN của Việt Nam chưa cho phép áp dụng một số hình thức đầu tư như doanh nghiệp FDI đa mục tiêu, doanh nghiệp có vốn FDI được cổ phần hoá ... Do đó, công ty thành lập theo Luật ĐTNN vào Việt Nam không thể phát hành cổ phiếu, phá sản hay chia quyền sở hữu công ty và quản lý công ty. Điều này khiến chi phí đầu tư cao và làm mất hiệu lực quản lý. Mặt khác, cũng làm mất đi cơ hội tăng được số vốn tự có của công ty bằng cách khơi thông dòng vốn từ nhân dân.
Những hạn chế của chính sách ĐTNN:
Về chính sách thuế:
Hệ thống thuế thu vào các doanh nghiệp có vốn ĐTNN là một bộ phận cấu thành trong hệ thống thuế hiện hành, được ban hành nhằm khuyến khích thu hút ĐTNN, song trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều nhược điểm.
- Hệ thống thuế hiện hành được hình thành dưới hình thức một hệ thống thuế đa thuế suất cho từng sắc thuế, mỗi loại thuế đánh vào một đối tượng theo đuổi các mục tiêu khác nhau. Kết quả là hệ thống thuế ngày càng trở nên phức tạp, gây khó khăn cho việc hành thu và quản trị của ngành thuế, vừa tạo kẽ hở cho việc trốn và tránh thuế.
- Mặt khác, hệ thống thuế với nhiều khoản thuế khác nhau này được hoạch định tách rời và chưa kết hợp thành một cấu trúc hoàn chỉnh, cũng chưa có khả năng bao quát được các nguồn thu và các hoạt động kinh tế [7]. Do đó, công tác thu thuế càng trở nên khó khăn, không có sự phân định rõ về quyền hạn, trách nhiệm giữa các cấp quản lý, gây nên tình trạng trốn thuế và tránh thuế xảy ra khá phổ biến.
- Một số chính sách thuế gần đây, chưa đi xuất phát từ thực tế, gây khó khăn cho nhà đầu tư thông qua việc tăng chi phí sản xuất của một số ngành hàng, mặt hàng, tăng giá bán trên thị trường, làm co hẹp tiêu thụ. (ví dụ như sắc thuế tiêu thụ đặc biệt). Chính sách thuế theo tỷ lệ nội địa hoá cao mang lại những tiêu cực ngược chiều, gây cản trở cho nhiều ngành vốn là trọng tâm hoạt động của các doanh nghiệp có vốn ĐTNN (như lĩnh vực cơ khí, điện tử, máy móc...)
- Khi áp dụng các văn bản thuế, Nhà nước thường có xu hướng bổ sung sửa đổi, làm cho hệ thống các chính sách thuế không ổn định.
- Nhiều quy định thuế hiện hành không phù hợp với thông lệ hiện hành trong khu vực và trên thế giới. Sở dĩ như vậy là do trong sắc thuế hiện hành còn quá nhiều khoản mục ưu đãi, yếu tố này làm giảm tính cạnh tranh bình đẳng của môi trường kinh doanh, trực tiếp làm giảm khả năng và tốc độ hoà nhập với các nước trong khu vực. Mặt khác, không phải bất cứ ưu đãi nào cũng đem lại hiệu quả như mong. Thực tế cho thấy, nhiều biện pháp ưu đãi tỏ ra không hiệu quả và không cần thiết.
Về chế độ bảo lãnh, thế chấp:
Cho đến nay, ở nước ta chưa có một các văn bản pháp quy về hệ thống thế chấp tự do đối với các khoản cho vay nước ngoài. Đối với những dự án có quy mô lớn, để có đủ 30% vốn góp vào liên doanh, các doanh nghiệp Việt Nam đối khi phải thế chấp bằng tài sản của họ tại địa phương hoặc bằng các khoản cầm cố và thế chấp của các đối tác phía Việt Nam (như các trái phiếu kho bạc Nhà nước hoặc các khoản tiền gửi có kỳ hạn ở ngân hàng). Điều này mới nghe tưởng có lý, song thực chất, chính tài sản của phía Việt Nam vốn được dùng để góp vốn pháp định, lại tiếp tục được đem đi thế chấp để vay tiền, theo nguyên tắc tín dụng của ngân hàng là hoàn toàn mâu thuẫn.
Hơn nữa, do trình độ phát triển về kinh tế còn hạn chế, ở nước ta vẫn chưa có các cơ quan phân tích tài chính lớn, do đó nhà ĐTNN khó có thể kiểm tra được việc tái đăng ký của các công ty quốc doanh hữu quan.
Về chính sách tỷ giá:
Hiện nay, Nhà nước ta vẫn đang theo đuổi chính sách tỷ giá hối đoái cố định gắn vào đồng đôla, do đó vẫn còn không ít lo ngại từ phía các nhà ĐTNN. Bài học về chính sách tỷ giá cố định của các nước trong khu vực trong cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua vẫn còn được nhắc đến nhiều. Chính sách tỷ giá này nếu diễn ra trong một thời gian dài sẽ dẫn đến những hậu quả nặng nề như: giảm sức cạnh tranh xuất khẩu, làm méo mó môi trường kinh doanh, dẫn đên sự lệch hướng trong đầu tư (do giá cả bị bóp méo, những chỉ báôch biết việc lựa chọn hướng đầu tư bị sai lệch), cơ cấu kinh tế của đất nước mất cân đối và kém hiệu quả...[9]
Chính sách đất đai:
Được đánh giá là yếu tố quan trọng để thu hút nguồn vốn từ nước ngoài, Nhà nước ta đã ban hành một số văn bản pháp luật điều chỉnh các vấn đề liên quan đến đất đai gắn với ĐTNN. Song thực tế, các chính sách ưu đãi về đất đai vẫn còn những hạn chế nhất định:
- Giá thuê đất của Việt Nam cao hơn rất nhiều so với các nước trong khu vực. Đấy là chưa kể các chi phí phụ cần thiết phát sinh. Theo thống kê của Bộ kế hoạch và đầu tư, giá thuê đất chưa có hạ tầng của Việt Nam trung bình là 1-12$/m2/năm, trong khi đất trong khu công nghiệp thuê ở Malaysia là 0,044$/m2/năm, Philipin là 0,17-2$/m2/năm. Với sự so sánh chênh lệch như thế này, chắc chắn làm giảm sức cạnh tranh thu hút vốn FDI.
Theo ông Nguyễn Mạnh Thản, chủ tịch hội đồng quản trị Công ty Du lịch Ao vua cũng cho biết, mức giá 3000 đồng/m2 ở khu vực này là khá cao. Thử làm một phép tính đơn giản, mỗi khu du lịch có diện tích khoảng 10ha, nếu giá thuê đất giảm 1000đồng/m2 thì nhà đầu tư sẽ tiết kiệm được khoảng trên dưới 100 triệu đồng/năm. Bên cạnh đó, giá thuê đất ở vùng sâu vùng xa cũng vẫn còn cao, lại thêm cơ sở hạ tầng còn kém. Vì thế các nhà đầu tư vẫn chưa thấy mặn mà trong việc rót vốn vào khu vực này.
- Thủ tục thuê đất: còn phức tạp gây mất cơ hội và thời gian của các nhà đầu tư. Công tác giao đất còn gây nhiều khó khăn. Theo đánh giá của Bộ kế hoạch đầu tư tháng 3/2002, có 4 dự án trồng rừng và chế biến gỗ đi vào hoạt động đầu năm 2002, song đều gặp phải khó khăn để giao đất đầy đủ cho nhà đầu tư theo như đã cam kết khi cấp giấy phép đầu tư [12]. Mặt khác, diện tích rừng trồng còn manh mún, không liền khoảng, liền ô. Một số dự án hầu như không trồng rừng mà chuyển sang thu mua gỗ và băm dăm xuất khẩu. Cả một số dự án về mía đường, chè... đường cũng gặp khó khăn không chỉ trong việc giao đất mà trong cả tranh chấp về vùng nguyên liệu.
- Do thiếu quy hoạch chi tiết về thu hút vốn đầu tư FDI nên một số địa phương tuỳ tiện xử lý các vấn đề đất đai áp dụng đối với các nhà ĐTNN, tạo nên môi trường cạnh tranh không lành mạnh trong thu hút vốn giữa các địa phương; mặt khác giảm hiệu quả thực tế của nhiều dự án. Đây cũng là khó khăn rất lớn đòi hỏi Nhà nước cần có biện pháp giải quyết.
Chính sách công nghệ:
Đảng và Nhà nước ta đã khẳng định vai trò động lực của khoa học-công nghệ đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, trong đó chuyển giao công nghệ là vũ khí hàng đầu. Đến nay, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về những yêu cầu kỹ thuật đối với máy móc thiết bị đã qua sử dụng như: Thụng tư 02/TT-BKHCNMTngày 15/2/2001, Quyết định 491/QĐ/BKH/CNMT ngày 29/4/1998, quyết định 2019/1997/QĐ-BKHCN&MT của Bộ trưởng Bộ Khoa học, Cụng nghệ và Mụi trường… song công nghệ tiên tiến được nhập vào chưa nhiều, mức độ hiện đại tinh vi của chính bản thân công nghệ còn thấp. Trừ một số công nghệ nhập vào tương đối hiện đại nh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V8202.Doc