Khóa luận Trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập

MỤC LỤC

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TRỢ CẤP XUẤT KHẨU.8

I. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu.8

1. Khái niệm về trợ cấp xuất khẩu.8

2. Các hình thức trợ cấp xuất khẩu.8

II. Vai trò của trợ cấp xuất khẩu.9

1. Trợ cấp xuất khẩu giữ vị trí trọng yếu trong việc thực hiện mục tiêu

đẩy mạnh xuất khẩu của đất nước.10

2. Trợ cấp xuất khẩu giúp nâng cao khả năng cạnh tranh xuất khẩu của

doanh nghiệp. 11

III. Kinh nghiệm về trợ cấp xuất khẩu của một số nước và gợi ý đối với Việt Nam. .12

1. Các hình thức trợ xuất khẩu cấp chủ yếu các nước đã áp dụng.12

a. Trợ cấp xuất khẩu của Nhật bản.12

b. Trợ cấp xuất khẩu của Hàn Quốc.12

c. Trợ cấp xuất khẩu của Thái Lan.14

d. Trợ cấp xuất khẩu của Philippin.15

2. Những gợi ý đối với Việt Nam trong điều kiện hội nhập.17

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG TRỢ CẤP XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM VÀ NHỮNG THÁCH THỨC KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

I. Vài nét về hoạt động xuất khẩu của Việt nam trong những năm gần đây .21

II. Thực trạng trợ cấp xuất khẩu của Việt nam.25

1. Một số thành tựu đã đạt được.26

1.1. Về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu năm 2003.26

1.2. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu.34

1.3. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm.35

1.4. Về chi phí giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp.35

1.5. Điều chỉnh một số quy định về GTGT.36

1.6. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu.36

1.7. Về quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.36

2. Những thách thức đối với trợ cấp xuất khẩu ở Việt nam .39

CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRỢ CẤP XUẤT KHẨU Ở VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

I. Cơ sở đề ra giải pháp.46

1. Những thuận lợi và khó khăn.46

2. Phương hướng hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. .50

3. Những quan điểm chính về trợ cấp xuất khẩu.52

II. Một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả trợ cấp xuất khẩu ở Việt nam.54

1. Các giải pháp ở tầm vĩ mô.54

2. Các giải pháp ở tầm vi mô.59

KẾT LUẬN 70

Danh mục tài liệu tham khảo 72

 

 

 

 

 

doc76 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5893 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam trong điều kiện hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác doanh nghiệp chỉ có thể bán được hàng khi chấp nhận bán hàng trả chậm, trả gối đầu. Song việc thu hồi nợ bán hàng gối đầu đang ngày càng trở thành nỗi lo của các doanh nghiệp XNK. Nguy cơ mất trắng hàng trăm tỷ đồng từ phương thức bán hàng trả chậm, gối đầu đang là thực tế đáng lo ngại cho các doanh nghiệp. Tín dụng XNK của NH đã khiến cho các nhà XNK yên tâm hơn trong hoạt động kinh doanh của mình, từ đó khắc phục được nguy cơ sụt giảm trong hoạt động bán hàng trả chậm nói riêng và nguy cơ sụt giảm trong doanh số bán hàng XNK nói chung. - Trong quá trình đàm phán, thương lượng, ký kết hợp đồng ngoại thương, một doanh nghiệp đã được NH đứng ra bảo lãnh, cấp tín dụng sẽ có lợi thế rất lớn. Bởi vì khi đó, khả năng thực hiện hợp đồng của doanh nghiệp được khẳng định. Cùng với nghệ thuật đàm phán, và vị thế sẵn có của mình, doanh nghiệp hoàn toàn có thể giành được nhiều điều kiện có lợi cho mình trong quá trình thực hiện thương vụ. - Tín dụng XNK giúp cho doanh nghiệp đạt được hiệu quả cao trong quá trình thực hiện hợp đồng: Thông qua tài trợ của NH, doanh nghiệp sẽ có đủ vốn để thực hiện thương vụ. Đối với doanh nghiệp XK, vốn tài trợ giúp doanh nghiệp thu mua hàng đúng thời vụ, gia công, chế biến và giao hàng đúng thời điểm. Đối với doanh nghiệp NK, vốn tài trợ của NH giúp doanh nghiệp mua được những lô hàng lớn, giá hạ, đáp ứng kịp thời nhu cầu của thị trường trong nước. Qua đó, giúp các doanh nghiệp XNK chớp được thời cơ kinh doanh thu lợi nhuận cao, tạo điều kiện mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tồn tại, đứng vững và cạnh tranh được trên thị trường; đồng thời thực hiện được các nghĩa vụ đối với nhà nước. - Bên cạnh đó, tín dụng XNK của NH còn giúp cho các doanh nghiệp có vốn để nhập máy móc thiết bị hiện đại, đổi mới trang thiết bị kỹ thuật, dây truyền sản xuất, chế biến, trên cơ sở đó, nâng cao chất lượng hàng hoá, hạ được giá thành sản phẩm, tạo khả năng cạnh tranh cả trên thị trường trong nước và quốc tế. - Ngoài ra, tài trợ của NH còn góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp XNK trên thị trường quốc tế. Sở dĩ như vậy là do nhờ có tài trợ của NH, doanh nghiệp XNK có khả năng thực hiện có hiệu quả những thương vụ lớn, có khả năng quan hệ, làm ăn với các khách hàng tầm cỡ trên thế giới, từ đó củng cố, nâng cao được uy tín, vị trí của mình trên thị trường thế giới. - Đối với nền kinh tế đất nước: - Tín dụng XNK của NHTM tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh XNK và lưu thông hàng hóa XNK. Nhờ có tài trợ của ngân hàng, hàng hoá được xuất, nhập phù hợp với yêu cầu của thị trường về số lượng, chất lượng, thời vụ..., đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng thiết yếu cho đời sống và sinh hoạt của nhân dân, góp phần làm ổn định thị trường và tăng tính năng động của nền kinh tế. - Với các khoản tín dụng XNK của NH, doanh nghiệp XNK có điều kiện thay đổi, hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, máy móc thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất... Nhờ đó, có điều kiện phát triển, tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh, tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, giảm tỷ lệ thất nghiệp, làm tốt các nghĩa vụ đối với nhà nước và làm động cơ thúc đẩy nền kinh tế phát triển. - Tín dụng XNK còn góp phần đáng kể phục vụ chương trình, mục tiêu phát triển kinh tế đất nước của Đảng và Nhà nước, góp phần mở rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới. Từ những phân tích trên đây, có thể thấy rằng, với tư cách là một thành viên hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế, các NHTM cùng với hoạt động tài trợ thương mại quốc tế của mình, đã có những đóng góp đáng kể cho sự phát triển của nền kinh tế đất nước, cho cân bằng cán cân thanh toán quốc gia. Và tín dụng XNK của NHTM chính là một trong những công cụ để triển khai có hiệu quả các chiến lược phát triển kinh tế - chính trị - xã hội của một đất nước. Cùng với sự phát triển của ngoại thương và hệ thống ngân hàng, hoạt động tín dụng XNK của NH cũng phát triển ngày càng phong phú.Từ hình thức đơn giản ban đầu là cho vay trực tiếp, ngắn hạn, đến nay, các NHTM đã thực hiện nhiều hình thức tín dụng XNK đa dạng và có hiệu quả cao. 1.2. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu: Tại văn bản số 78/CP-KTTH Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Thương mại cùng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng cơ chế thưởng khuyến khích xuất khẩu đối với phần kim ngạch vượt so với kim ngạch xuất khẩu năm 2002 (theo danh mục mặt hàng đã được thưởng xuất khẩu năm 2002). Để triển khai thực hiện, Bộ Thương mại đang trao đổi với các bộ, ngành hữu quan để xây dựng cơ chế thị thưởng theo hướng tiếp cận như sau: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch bình quân toàn ngành của mặt hàng được thưởng năm 2003 so với năm 2002 sẽ là căn cứ tham khảo để xác định điều kiện được thưởng đối với doanh nghiệp. Trong quý II/2003, trên cơ sở đánh giá tiềm năng xuấ khâu cả năm và biến động của thị trường, Bộ thương mại sẽ công bố mục tiêu tăng trưởng đối với từng mặt hàng trong năm 2003 để doanh nghiệp có định hướng phấn đấu. Chỉ những doanh nghiệp nào có mức tăng kim ngạch đối với mặt hàng được thưởng cao hơn mức tăng bình quân mà Bộ thương mại công bố mới được xét thưởng. Sau khi đánh giá tiềm năng của ngành rau quả, Bộ thương mại công bố mục tiêu phấn đấu đối với mặt hàng rau quả năm 2003 (ví dụ) là tăng kim ngạch 10%. Như vậy, chỉ những doanh nghiệp nào có kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng từ 10% trở lên mới thuộc diện xét thưởng. Nếu chỉ đạt mức tăng thấp hơn10% thì không được thưởng. 1.3. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm: Ngày 24/01/2003 Bộ Thương mại đã ban hành Quyết định số 0104/2003/QĐ-BTM về Quy chế xây dựng và quản lý chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm quốc gia. Theo quyết định này các tổ chức xúc tiến thương mại thuộc Bộ, cơ quan ngang Bộ, các hiệp hội ngành hàng; các Tổng công ty ngành hàng là cơ quan đầu mối đề xuất chương trình gửi về Bộ Thương mại. Trên cơ sở các đề xuất này, Bộ thương mại thẩm định, đánh giá và xây dựng chương trình và tổng hợp trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Trước mắt đối với năm 2003, trên cơ sở đề xuất của các Bộ, ngành, Hiệp hội và Tổng Công ty, Bộ Thương mại đang khẩn trương tổng hợp các chương trình xúc tiến thương mại để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Dự kiến sẽ hoàn thành trong tháng 4/2003. 1.4. Về chi phí đối với giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp: Đối với hoạt động giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp, Bộ Tài chính qui định mức chi phí tối đa đối với các hoạt động này không được vượt quá 7% tổng chi phí của doanh nghiệp. 1.5. Điều chỉnh một số quy định về thuế GTGT a. Về việc thanh toán qua ngân hàng trong hoạt động xuất khẩu Thời gian qua, các quy định về thuế GTGT đã được siết chặt hơn để hạn chế gian lận thương mại. Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13/09/2002 của Chính phủ quy định cơ sở kinh doanh xuất khẩu các hàng hóa, dịch vụ được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% phải thanh toán tiền bán hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có văn bản 1186/NHHH - QLNH ngày 1/11/2002 hướng dẫn quy định trên. b. Về phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng: Đề nghị Bộ Tài chính ra soát lại các quy định về việc áp dụng phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng. Theo quy định của Bộ Tài chính, phương pháp thu này được áp dụng đối với một số doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ. 1.6. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu: Vấn đề chi phí dịch vụ đầu vào đối với hàng xuất khẩu đã được các Bộ ngành và nhiều doanh nghiệp phản ảnh. Tại Nghị quyết số 05/2002/NQ-CP ngày 24/04/2002 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với một số Bộ, ngành hữu quan tiến hành rà soát lại các chi phí này để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Thực hiện chủ trương trên của Chính phủ, từ 1/4/2003 Bộ Bưu chính Viễn thông sẽ áp dụng giảm giá cước đối với một loạt các dịch vụ viễn thông, trong đó có cước dịch vụ điện thoại quốc tế, cước truy cập Internet, cước hòa mạng và thông tin điện thoại di động. Đây là đợt giảm giá có quy mô lớn nhất từ trước đến nay của ngành bưu chính viễn thông nhằm rút ngắn lộ trình đưa giá cước viễn thông của ta xuống mức bằng và thấp hơn so với một số nước trong khu vực. 1.7. Về quỹ bảo lãnh tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để khuyến khích sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tháng 11/2001 Chính phủ đã ban hành Nghị định về trợ giúp phát triển các doanh nghiệp nhỏ và (SME). Tháng 12/2001, trên cơ sở đề xuất của Bộ Tài chính, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quy chế giao cho các tỉnh, thành tự đứng ra thành lập các quỹ bảo lãnh tín dụng cho SME. Nhờ có các chính sách trợ cấp của Chính phủ cho các mặt hàng xuất khẩu nên Việt nam đã đạt được mức xuất khẩu cao. Các mặt hàng của Việt nam đã có mặt trên nhiều thị trường quốc tế. Do được trợ cấp từ khâu nguyên liệu đến thành phẩm nên có sức canh tranh mạnh Hiện gạo do Việt Nam sản xuất có chi phi thấp hơn nhiều so với gạo nhập khẩu. Chính vì vậy, trong nhiều năm qua Việt Nam luôn là một trong số những nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới. Tuy nhiên, đối với một số chủng loại gạo cao cấp, chủ yếu được tiêu dùng ở các đô thị thì gạo nhập khẩu từ Thái lan đang có khả năng cạnh tranh tương đối cao so với gạo được trồng trong nước. Hiện tại, lượng nhập khẩu gạo chưa nhiều nên có lẽ ta cũng chưa nên đánh thuế chống trợ cấp đối với gạo nhập khẩu. Tuy nhiên, trong tương lai nếu lượng nhập khẩu gia tăng thì ta có thể xem xét đánh thuế chống trợ cấp đối với gạo Thái lan. Do được nhà nước cho vay vốn đầu tư nuôi trồng thuỷ sản, Việt nam được đánh giá là nước xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu thế giới hiện nay. Có thể nói hàng thuỷ sản xuất khẩu là mặt hàng có thị trường xuất khẩu còn triển vọng sáng sủa. Trên thị trường thế giới, hàng thuỷ sản được xếp vào nhóm sản phẩm cơ bản, luôn trong tình trạng cung không đáp ứng được cầu ở quy mô toàn cầu. Buôn bán hàng thuỷ sản thế giới đã tăng với nhịp độ trung bình hàng năm trên 10% vào thời kỳ 1985 -1995. Từ năm 1995 trở lại đây, tuy nhịp độ tăng ngach xuất khẩu thuỷ sản có chậm hơn thời kỳ trước, nhưng thị trường thuỷ sản thế giới vẫn tiếp tục mở rộng với kim ngạch xuất khẩu của toàn thế giơí xấp xỉ 60 tỷ USD. Xu hướng thị trường tương lai dự báo vẫn phát triển ổn định, đặc biệt đối với các sản phẩm thuỷ sản thực phẩm chế biến sâu, thuỷ sản ăn liền và thuỷ sản sống có giá trị gia tăng cao. Sản lượng thuỷ sản của Việt nam liên tục tăng thời gian từ năm 1995 trở lại đây: năm 2000 sản lượng thủy sản cả nước đạt 2,22 triệu tấn, tăng gần 1 triệu tấn so với năm 1995, trong đó thuỷ sản khai thác đạt 1,65 triệu tấn chiếm 74,3% tổng sản lượng còn thuỷ sản nuôi trồng đạt 0,57 triêu tấn, chiếm 25,7%. Nhịp độ tăng sản lượng thuỷ sản trung bình hàng năm thời kỳ 1996-2000 là 12,3%. Năm 2001 sản lượng thuỷ sản cr nước đạt 2,4 triệu tấn, tăng 7,7% so với 2000, trong đó sản lượng thuỷ sản khai thácđạt 1,74 triệu tấn chiếm 72,5%tổng sản lượng còn thuỷ sản nuôi trồng đạt 0,66 triệu tấn, chiếm 27,5%. Xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam đã tăng từ 239 triệu USD năm 1990 lên 979 triệu USD năm 1999, 1475 triệu USD năm 2000 và 1800 triệu USD năm 2001. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng gấp 6,2 lần so với năm 1990. Nhịp độ tăng xuất khẩu trung bình hàng năm thời kỳ 1991-2000 đạt 20%. Năm 2001, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng 22% so với năm 2000. Với kim ngạch xuất khẩu lơn ( đứng thứ ba sau dầu thô -3,17 tỷ USD và dệt may - 2 tỷ USD) và nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu cao, thuỷ sản thực sự trở thànhmột trong những động lực thúc đẩy tăng xuất khẩu chung của đất nước. Đóng góp của của riêng xuất khẩu thuỷ sản vào nhịp độ tăng xuất khẩu chung của đất nước năm 2001 đã là 2,58%. Cùng với việc đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, vấn đề đa dạng hoá thị trường xuất khẩu cũng đạt được những thành tích rất đáng khích lệ. Đến nay thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam đã có mặt ở hơn 60 nước trên thế giới. Trước đây, thị trường Nhật bản thường chiếm tỷ trọng 50-60% xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam, đến nay giảm xuống chỉ còn dưới 30%. Đặ biệt, từtháng 8/2001, Mỹ đã vượt lên thay thế Nhật bản trở thành thị trường xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt nam, đẩy Nhật bản xuống hàng thứ hai. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam sang Nhật bản năm 2001 đạt 471 triệu USD, chiếm 26,2% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam. Thị trường Mỹ là một trong ba thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn nhất thế giới và là thị trường nhập khẩu lớn nhất hàng thuỷ sản xuất khẩu của Việt nam hiện nay. Tỷ trọng của thi trường Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩuthuỷ sản của Việt nam tăng lên nhanh chóng trong thời gian 5 năm trở lại đây: Năm 1997, thị trường Mỹ mới chiếm khoảng 7%-8% xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam, năm 1999 tăng lên 13,3%, năm 2000 lên 21%, năm 2001 lên 28,5% tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt nam. Ngoài những mặt hàng kể trên thì kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm khác như may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ cũng tăng lên đáng kể. 2. Những thách thức đối với trợ cấp xuất khẩu ở Việt nam. Việt Nam đã áp dụng những chính sách trợ cấp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu và đã đạt được kết quả tốt tuy vẫn còn một số tồn tại cần được giải quyết như sau: 2.1. Về thưởng kim ngạch xuất khẩu: Chính phủ đã có văn bản số 78/CP-KTTH về chế độ thưởng khuyến khích xuất khẩu đối với phần kim ngạch vượt so với kim ngạch xuất khẩu năm trước (theo danh mục mặt hàng đã được thưởng xuất khẩu năm trước) và sau khi đánh giá tiềm năng của ngành rau quả, Bộ thương mại công bố mục tiêu phấn đấu đối với mặt hàng rau quả năm 2003 (ví dụ) là tăng kim ngạch 10%. Như vậy, chỉ những doanh nghiệp nào có kim ngạch xuất khẩu rau quả tăng từ 10% trở lên mới thuộc diện xét thưởng. Nếu chỉ đạt mức tăng thấp hơn 10% thì không được thưởng. Nếu do khó khăn về thị trường, nguồn hàng hay giá cả mà kim ngạch của cả ngành hàng tăng trưởng âm thì những doanh nghiệp nào đạt tăng trưởng dương đều được thưởng trên phần kim ngạch vượt trội. Phương pháp tiếp cận này nhằm khuyến khích, động viên những doanh nghiệp xuất khẩu giỏi hơn mức bình quân của ngành, đồng thời cũng loại trừ được yếu tố biến động khách quan về giá hoặc sản lượng (Chẳng hạn giá mặt hàng X năm 2003 tăng hơn 30% so với mức bình quân của năm 2002 như vậy nếu lượng xuất không đổi thì các doanh nghiệp trong ngành có thể đạt được mức tăng trưởng xấp xỉ 30% mà không cần phải nỗ lực nhiều, trong khi những ngành hàng giá không tăng hoặc gặp khó khăn về thị trường lại khó đạt được mức tăng trưởng). Tuy nhiên, cũng cần phải xem xét lại quyết định này bởi tiềm lực tài chính của các tỉnh và thành phố là có hạn, lại không đồng đều. Nếu mỗi tỉnh, thành đều phải tự tìm nguồn để thành lập quỹ cho riêng mình thì hiệu quả thực tế sẽ không cao do nguồn lực bị dàn trải. Đó là chưa kể các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME) ở những tỉnh có hoàn cảnh khó khăn sẽ ở vào thế bất lợi hơn so với SME ở những tỉnh có tiềm năng. Vấn đề tín dụng cho doanh nghiệp nói chung và cho SME nói riêng hiện nay đang là vấn đề hết sức búc xúc. Vì vậy, đề nghị có một cơ chế tập trung nguồn lực để thành lập 01 quỹ bảo hành tín dụng cho SME tại trung ương, chỉ thành lập tại địa phương các chi nhánh hoặc đại lý (là chi nhánh các quỹ hỗ trợ phát triển hoặc tổ chức tín dụng địa phương). Khi có nhu cầu, mọi "đại lý" đều có thể tiếp cận với nguồn lực tập trung, hiệu quả thực tiễn vì vậy sẽ cao hơn, các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại tất cả các tỉnh cũng ở vào thế bình đẳng hơn. 2.2. Về việc xây dựng các chương trình xúc tiến thương mại trọng điểm: Việt Nam chưa có được những chương trình xúc tiến trọng điểm 2.3. Sửa đổi qui định về chi phí đối với giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp: Đối với hoạt động giao dịch, tiếp thị của các doanh nghiệp, Bộ Tài chính qui định mức chi phí tối đa đối với các hoạt động này không được vượt quá 7% tổng chi phí của doanh nghiệp. Theo nhiều doanh nghiệp, qui định này là chưa hợp lý và hạn chế các hoạt động phát triển thị trường vì doanh nghiệp thuộc các ngành hàng, lĩnh vực khác nhau, thậm chí ngay trong một doanh nghiệp thì chi phí cho hoạt động tiếp thị tại các thời điểm kinh doanh cũng khác nhau. Mặt khác, quy định này dẫn đến một nghịch lý là doanh nghiệp nào có tổng chi phí giảm thì chi phí giao dịch, tiếp thị cũng phải giảm theo. Vì vậy, Thủ tướng Chính phủ nên giao cho Bộ Tài chính nghiên cứu và điều chỉnh lại quy định trên theo hướng bãi bỏ mức quy định tối đa đối với các chi phí này hoặc nâng mức quy định tối đa từ 7% lên 15 - 20%. 2.4. Điều chỉnh một số quy định về thuế GTGT 2.4.1. Về việc thanh toán qua ngân hàng trong hoạt động xuất khẩu Nghị định số 76/2002/NĐ-CP ngày 13/09/2002 của Chính phủ quy định cơ sở kinh doanh xuất khẩu các hàng hóa, dịch vụ được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0% phải thanh toán tiền bán hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu qua ngân hàng. Tuy qui định này đã góp phần hạn chế tình trạng gian lận thương mại nhưng mặt khác cũng đã làm phát sinh một số vướng mắc trong xuất khẩu qua đường biên mậu, nhất là xuất khẩu qua biên giới Trung Quốc. Thực tiễn hoạt động buôn bán với Trung Quốc thời gian qua cho thấy hình thức thanh toán qua ngân hàng mới chỉ chiếm khoảng 15 - 20% trong tổng kim ngạch giữa hai nước, còn lại đa phần là thanh toán theo các hình thức khác như hàng đổi hàng, thanh toán bằng tiền mặt, thanh toán theo hình thức tạm ứng.v.v...Theo phản ảnh của một số doanh nghiệp thì việc thực hiện quy định về thanh toán qua ngân hàng có một số vướng mắc do phía đối tác Trung Quốc không muốn áp dụng hình thức này, chưa kể đến việc thanh toán qua ngân hàng sẽ làm phát sinh một số chi phí giao dịch (ước các khoản chi phí lên tới 0,3% kim ngạch xuất khẩu). Do có những vướng mắc này mà hoạt động xuất nhập khẩu với Trung Quốc cũng đã có dấu hiệu không nhộn nhịp như trước. (Theo số liệu hải quan, xuất khẩu ra quả và thuỷ sản vào Trung Quốc sau 2 tháng đã giảm hơn 60% so với cùng kỳ). Theo Bộ Thương mại, về lâu dài hoạt động thương mại nói chung, trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu qua đường biên mậu, cần từng bước chuyên nghiệp hóa, trong đó có việc áp dụng phương thức thanh toán ngân hàng. Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù trong hoạt động xuất nhập khẩu biên mậu hiện nay, nhất là trong điều kiện việc hoàn khống thuế GTGT đã được bãi bỏ để hạn chế gian lận về thuế GTGT, Thủ tướng Chính phủ nên cho phép tạm thời có một cơ chế riêng đối với buôn bán qua đường biên mậu, cụ thể là xuất khẩu biên mậu được hưởng thuế suất thuế GTGT 0% đối với các hình thức thanh toán hợp pháp, không chỉ áp dụng đối với các trường hợp thanh toán qua ngân hàng. 2.4.2. Về phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng: Kiến nghị Bộ Tài chính ra soát lại các quy định về việc áp dụng phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng. Theo quy định của Bộ Tài chính, phương pháp thu này được áp dụng đối với một số doanh nghiệp chưa thực hiện đầy đủ các điều kiện về kế toán, hóa đơn chứng từ để làm căn cứ tính thuế theo phương pháp khấu trừ. Do mức thuế phải nộp căn cứ vào mức doanh thu "khoán" nên phương thức này cũng dễ làm phát sinh một số kẽ hở khi doanh thu thực tế của đơn vị vượt quá mức "khoán" nhưng doanh nghiệp lại không báo cáo đầy đủ với cơ quan thuế. Do vậy, vô hình chung đã tạo ra sự không bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ và các doanh nghiệp nộp thuế khoán trong cùng một ngành hàng kinh doanh, từ đó ảnh hưởng đến lưu thông hàng hóa trong nước và nhà nước cũng bị thất thu một lượng tiền thuế. Để khắc phục tình trạng này, Thủ tướng Chính phủ cũng nên giao cho Bộ Tài chính rà soát lại các quy định về việc áp dụng phương pháp tính thuế GTGT trực tiếp trên giá trị gia tăng và việc tổ chức thực hiện thu thuế GTGT theo phương pháp này theo nguyên tắc bảo đảm thu đúng, thu đủ và công bằng đối với các doanh nghiệp được tính thuế GTGT theo các phương pháp khác nhau. 2.5. Rà soát để giảm chi phí dịch vụ đầu vào đối với xuất khẩu: Tại Nghị quyết số 05/2002/NQ-CP ngày 24/04/2002 của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã giao Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với một số Bộ, ngành hữu quan tiến hành rà soát lại các chi phí dịch vụ đầu vào đối với hàng xuất khẩu để báo cáo Thủ tướng Chính phủ. Tuy nhiên, việc rà soát một số loại chi phí dịch vụ khác vẫn chưa hoàn thành. Kiến nghị Bộ Tài chính khẩn trương thực hiện rà soát các loại phí, lệ phí theo tinh thần Nghị quyết số 05/2002 của Chính phủ. Cần có đoàn kiểm tra thực tế, không nên dựa vào báo cáo của các cơ sở cung cấp dịch vụ. Kết quả kiểm tra cũng nên được công bố công khai trên báo chí cho các doanh nghiệp biết. Các loại phí cần được rà soát kỹ là phí ở cảng, phí ở các tỉnh biên giới và lệ phí cầu, đường trên một số trục đường chính, hàng xuất khẩu thường đi qua. Theo một số doanh nghiệp phản ảnh, mức thu phí đường bộ 80.000 đồng/ lượt đối với xe tải từ 18 tấn trở lên (theo Thông tư số 109/2002 của Bộ Tài chính quy định về chế độ thu, quản lý, sử dụng phí giao thông đường bộ) là quá cao (tăng thêm 20.000 đồng so với trước), mặt khác có những trạm thu phí trên cùng một tuyến đường cách nhau không đủ 70km như quy định tại Thông tư (như trên đường 5 trạm Quán Toan cách trạm Hải Dương chỉ có 30km) làm cho doanh nghiệp bị đội chi phí vận tải. 2.6. Những khó khăn đối với việc áp dụng trợ cấp xuất khẩu của Việt Nam khi gia nhập WTO Các mặt hàng đã và đang được trợ cấp xuất khẩu của Việt nam sẽ bị đánh thuế chống trợ cấp khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới. Thuế chống trợ cấp là một loại thuế nhập khẩu đặc biệt nhằm chống lại trợ cấp của Chính phủ nước ngoài cho hàng xuất khẩu, thường được áp dụng sau khi đã có điều tra cho thấy có tổn hại do trợ cấp đó gây ra. Tổ chức thương mại thế giới định nghĩa rằng "thuế chống trợ cấp được hiểu là một khoản thuế đặc biệt nhằm mục đích bồi hoàn cho khoản trợ cấp đã được cung cấp một cách trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình chế tác, sản xuất hoặc xuất khẩu của bất kỳ loại hàng hoá nào”. Đây là định nghĩa chặt chẽ về mặt luật pháp và thường được các nước chấp nhận. Tuy nhiên, định nghĩa này phải được hiểu trong bối cảnh rộng của WTO, có nghĩa là các quy định của WTO liên quan đến quá trình điều tra, thủ tục áp dụng v.v… cũng phải được tuân thủ đầy đủ. Về mặt kinh tế, thuế chống trợ cấp là một hình thức thuế đánh vào hàng hoá được trợ cấp nhằm triệt tiêu lợi thế do khoản trợ cấp đó đem lại. Để đạt được mục tiêu trên, thuế chống trợ cấp phải tương đương với lợi ích mà trợ cấp đem lại cho hàng hoá, hay chính xác hơn, thuế chống trợ cấp phải triệt tiêu được lợi thế hàng nhập khẩu có được do nhận được trợ cấp của chính phủ so với loại hàng tương tự được sản xuất tại nước nhập khẩu. Do đó, sau khi đánh thuế chống trợ cấp, hàng hoá nhận được trợ cấp không còn lợi thế so với hàng tương tự được sản xuất trong nước không được trợ cấp. Tuy nhiên, thuế chống trợ cấp cũng không được đánh quá cao, vượt quá lợi ích thực sự mà hàng nhập khẩu nhận được. Về hình thức bên ngoài, thuế chống trợ cấp lại có nhiều điểm tương đồng với thuế nhập khẩu. Vì vây, xét về mặt hình thức, ở một chừng mực nhất định cũng có thể coi thuế chống trợ cấp là một hình thức thuế nhập khẩu đặc biệt. Thuế chống trợ cấp giống với thuế nhập khẩu ở các điểm sau: Đối tượng chịu thuế là hàng nhập khẩu; Phương pháp quản lý thuế tương đối giống với thuế thông thường: cùng được cơ quan hải quan thu tại cửa khẩu; Tác động tương đối rõ ràng và minh bạch ở khâu áp dụng nếu so với các biện pháp phi thuế quan khác (mặc dù quá trình điều tra có thể bị các cơ quan áp dụng lạm dụng vì một số mục đích nhất định). Tuy nhiên, thuế chống trợ cấp có một số điểm khác căn bản so với thuế nhập khẩu thông thường: Thuế nhập khẩu thông thường chủ yếu nhằm mục đích bảo hộ cho sản xuất trong nước còn thuế chống trợ cấp nhằm đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa hàng trong nước và hàng nhập khẩu; Thuế nhập khẩu thông thường mang tính ổn định, trong khi thuế chống trợ cấp mang tính tình huống rõ rệt. Dù là nhằm bảo hộ cho sản xuất trong nước, tạo nguồn thu cho ngân sách hay đảm bảo công bằng xã hội, thuế nhập khẩu đều được áp dụng theo một định hướng tương đối ổn định. Trong khi đó, thuế chống trợ cấp chỉ xuất hiện khi phát sinh trợ cấp làm ảnh hưởng đến nhà sản xuất trong nước. Thuế chống trợ cấp sẽ mất đi khi không còn trợ cấp nữa hay khi các nhà sản xuất trong nước không còn chịu ảnh hưởng bất lợi của hàng hoá được nước ngoài trợ cấp nữa. Chương III: một số giảI PHáP NHằM nâng cao hiệu quả trợ cấp XUấT KHẩU ở VIệT NAM TRONG ĐIềU KIệN HộI NHậP I. Cơ sở đề ra giải pháp 1. Những thuận lợi và khó khăn Dự kiến của những năm tới, hoạt động xuất khẩu của ta có một số thuận lợi cơ bản. Sau khi thi hành các biện pháp nhằm giải phóng tiềm năng, Chính phủ đã và đang quan tâm nhiều hơn tới các giải pháp theo chiều sâu, tác động đến hiệu quả và sức cạnh tranh của toàn bộ hoạt động xuất khẩu . Khả năng phối hợp giữa các cơ quan để ứng phó với các tình huống phức tạp bên ngoài cũng đang dần được cải thiện. Bên cạnh đó, bầu không khí kinh doanh tiếp tục sôi động, Việ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHuong- Khoa luan tot nghiep.doc
Tài liệu liên quan