Khóa luận Vấn đề xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc sau 30 năm cải cách, mở cửa

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU 1

1. Lí do chọn đề tài 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 3

3. Đối tượng, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 4

4. Phương pháp nghiên cứu 4

5. Kết cấu khóa luận 4

B. nỘI DUNG 6

Chương 1: cơ sở xây dựng và mục tiêu, nhiệm vụ của 6

xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở trung quốc 6

1.1. Cơ sở xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc 6

1.1.1. Cơ sở lí luận 6

1.1.2. Cơ sở thực tiễn. 9

1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc. 11

CHƯƠNG 2 : CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH XÂY DỰNG XÃ HỘI HÀI HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA ĐẢNG VÀ CHÍNH PHỦ TRUNG QUỐC 14

2.1. Phát triển kinh tế nhịp nhàng 14

2.1.1. Xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển nhịp nhàng cân đối giữa thành thị và nông thôn. 14

2.1.2. Phát triển nhịp nhàng giữa các khu vực. 16

2.2. Thúc đẩy xây dựng xã hội hài hòa. 19

2.2.3. Tăng cường xây dựng hệ thống y tế công; giải quyết vấn đề khám bệnh đắt, khám bệnh khó. 23

2.2.4. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, bảo đảm mức sống cơ bản cho quần chúng nhân dân. 26

2.3. Hoàn thiện chế độ pháp luật, bảo đảm công bằng chính nghĩa. 28

2.3.1. Bảo đảm quyền lợi dân chủ, củng cố địa vị chính trị làm chủ đất nước của người dân. 29

2.3.2. Hoàn thiện chế độ pháp luật, đặt cơ sở pháp trị cho xã hội hài hòa. 31

2.3.3. Hoàn thiện thể chế tư pháp, tăng cường sự bảo đảm tư pháp của xã hội hài hòa. 32

2.3.4. Hoàn thiện chế độ tài chính công cộng, 34

2.3.5. Hoàn thiện chế độ phân phối thu nhập, chuẩn hóa trình tự phân phối thu nhập. 36

2.3.6. Hoàn thiện chế độ an sinh xã hội, 37

2.4. Xây dựng văn hóa hài hòa 38

2.4.1. Xây dựng hệ thống giá trị hạt nhân xã hội chủ nghĩa. 39

2.4.2. Xây dựng quan niệm vinh nhục xã hội chủ nghĩa, . 40

2.4.3. Kiên trì phương hướng chỉ đạo chính xác, đúng đắn, 41

2.4.4. Triển khai rộng rãi các hoạt động sáng tạo xây dựng hài hòa, 42

CHƯƠNG 3: ĐÁNH GIÁ BƯỚC ĐẦU VỀ VIỆC XÂY DỰNG XÃ HỘI HÀI HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở TRUNG QUỐC 44

3.1. Một số thành tựu bước đầu và một số hạn chế về lí luận. 44

3.1.1. Thành tựu kế thừa và bổ sung lí luận. 44

3.1.2. Một số hạn chế về mặt lí luận 47

3.2. Một số thành tựu và những hạn chế còn tồn tại trong thực tiễn. 48

3.2.1. Thành tựu bước đầu trong thực tiễn. 48

3.2.2. Những hạn chế còn tồn tại trong thực tiễn 50

C. KẾT LUẬN 53

PHỤ LỤC 55

TÀI LIỆU THAM KHẢO 60

 

 

 

doc63 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2547 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vấn đề xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc sau 30 năm cải cách, mở cửa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trợ cấp tiền học và học bổng Nhà nước đối với giáo dục Cao đẳng và giáo dục Phổ thông, thực hiện chính sách cho vay khuyến học quốc gia, khuyến khích xã hội quyên góp tiền để khuyến học. - Thiết thực giảm nhẹ gánh nặng học tập của các học sinh Tiểu học và Trung học. - Nâng cao tư chất nhà giáo, đặc biệt là trình độ tư chất nhà giáo ở nông thôn. - Cải tiến công tác quản lí và công tác chính trị tư tưởng trường học, nâng cao tố chất đạo đức tư tưởng của thầy và trò. - Dẫn dắt giáo dục dân lập phát triển lành mạnh. - Tiếp tục tích cực phát triển giáo dục, cố gắng xây dựng mô hình xã hội hóa giáo dục. Sau Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa XVI và Đại hội XVII Đảng Cộng sản Trung Quốc, công tác giáo dục hàng năm của Chính phủ Trung Quốc đều nhất quán thực hiện đường lối chính sách xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa, trong đó giáo dục được coi là một trong những vấn đề được đặt lên hàng đầu trong việc cải thiện dân sinh ở Trung Quốc. Trung Quốc đã thực hiện những chủ trương, chính sách chung của Đảng Cộng sản để phát triển giáo dục công bằng với những biện pháp cụ thể. 2.2.3. Tăng cường xây dựng hệ thống y tế công; giải quyết vấn đề khám bệnh đắt, khám bệnh khó. Cùng với giải quyết các vấn đề việc làm và giáo dục nêu trên, vấn đề y tế cũng được Đảng Cộng sản và Chính phủ Trung Quốc rất coi trọng. Trong những năm gần đây, vấn đề y tế ở Trung Quốc đã trở thành vấn đề bức xức trong xã hội: - Nguồn lực y tế bình quân đầu người thấp, xếp hàng thứ 100 trên thế giới, phân bố không đồng đều, 80 % nguồn lực y tế tập trung ở thành phố. - Chế độ bảo hiểm y tế chưa kiện toàn, đa số người dân khám, chữa bệnh bằng phương thức tự trả phí. - Cơ chế vận hành cơ cấu y tế công lập không hợp lí, tính chất công ích không cao. Nhiều cơ sở y tế hướng tới thị trường hóa, kê đơn thuốc vô tổ chức, bán thuốc đắt, … tăng gánh nặng y tế cho người dân, ảnh hưởng đến hình ảnh ngành y và người thầy thuốc. Để làm dịu vấn đề này, trong nội dung đường lối, chủ trương xây dựng xã hội hài hòa, với tư duy “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI đã đề ra hàng loạt các biện pháp nhằm tăng cường dịch vụ y tế, nâng cao trình độ sức khỏe của nhân dân, như : - Kiên trì tính chất công ích của hệ thống y tế công cộng, đi sâu cải cách thể chế y tế khám chữa bệnh, tăng cường trách nhiệm của chính quyền, giám sát kiểm tra và quản lí nghiêm ngặt, xây dựng chế độ bảo đảm sức khỏe cơ bản bao phủ lên cư dân thành phố và nông thôn, đưa đến cho quần chúng nhân dân dịch vụ y tế cơ bản và y tế công cộng an toàn, hiệu quả, thuận tiện và giá rẻ. - Tăng cường xây dựng hệ thống y tế công cộng, triển khai phong trào y tế yêu nước, phát triển sự nghiệp y tế cho phụ nữ và trẻ em, tăng cường nghiên cứu y học, nâng cao năng lực phòng chống dịch bệnh và năng lực khám chữa bệnh. - Kiện toàn hệ thống dịch vụ y tế, tăng cường xây dựng có trọng điểm mạng lưới dịch vụ y tế nông thôn 3 cấp và hệ thống dịch vụ y tế thành phố kiểu mới lấy dịch vụ y tế cộng đồng làm cơ sở, thực thi các biện pháp bảo đảm kinh phí. - Thực hiện quy hoạch phát triển y tế khu vực, điều chỉnh hợp nhất nguồn tài nguyên y tế thành phố và nông thôn, xây dựng chế độ hợp tác chi viện giữa các bệnh viện ở thành phố và nông thôn, đưa các nhân viên y tế có tay nghề kĩ thuật cao về cơ sở phục vụ theo định kì, tăng cường giáo dục bồi dường nhân viên vệ sinh y tế ở nông thôn. - Tăng chức năng dịch vụ công cộng của bệnh viện công, tăng cương xây dựng tác phong y đức ngành y, chuẩn hóa quản lí thu chi, sửa đối khuynh hướng thu tiền phiến diện. - Thành lập chế độ dược phẩm cơ bản quốc gia, chỉnh đốn trật tự lưu thông và sản xuất dược phẩm, bảo đảm về cơ bản quần chúng nhân dân đều có thể được dùng dược phẩm. - Tăng cường giám sát quản lí chất lượng vệ sinh của lương thực thực phẩm, dược phẩm và đồ uống, bảo đảm an toàn, sức khỏe cho quần chúng nhân dân. - Xét duyệt nghiêm ngặt cơ cấu y tế, tư cách nghề nghiệp của nhân viên, ủng hộ và giúp đỡ nhân viên y tế có tư cách nghề nghiệp hành nghề theo pháp luật, giúp cho quần chúng nhân dân được sử dụng dịch vụ y tế một cách thuận tiện. - Ra sức nâng đỡ sự phát triển của y dược dân tộc và đông y dược. Với tư duy và những chính sách, biện pháp cải cách thể chế y tế trên đây, hệ thống bảo hiểm y tế của Trung Quốc bắt đầu hình thành một cục diện mới với 3 trụ cột bảo hiểm y tế công lập chủ yếu là : bảo hiểm y tế cơ bản của cư dân thành phố, bảo hiểm y tế cơ bản của công nhân viên chức thành phố và y tế hợp tác nông thôn kiểu mới. Từ góc độ chế độ mà nói, 3 trụ cột bảo hiểm y tế công lập này có thể phủ lên toàn bộ người dân Trung Quốc, ngoài ra còn có hệ thống cứu trợ y tế và bảo hiểm y tế thương nghiệp, người dân Trung Quốc có hy vọng sẽ có được bảo hiểm y tế một cách thích hợp. 2.2.4. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội, bảo đảm mức sống cơ bản cho quần chúng nhân dân. Như chúng ta đều biết, thời kì đầu cải cách, mở cửa, Trung Quốc đã thực hiện chiến lược phát triển nghiêng lệch, ưu tiên phát triển ở khu vực thành thị để lại đằng sau khu vực nông thôn. Mọi nguồn lực về an sinh xã hội đều tập ttrung cho người dân thành thị, những người làm việc cho các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước. Trong hệ thống an sinh xã hội Trung Quốc hiện nay, diện bao phủ của bảo hiểm xã hội còn hẹp, tuyệt đại đa số những người làm việc công, tuyệt đại đa số những người nông dân không được đưa vào hệ thống bảo hiểm xã hội, phạm vi cứu trợ xã hội còn hẹp, dân số nghèo khổ ở thành thị và nông thôn có hoàn cảnh khó khăn cần được cứu trợ là khoảng hơn 50 triệu người, số người tàn tật khoảng hơn 60 triệu người, ngoài ra còn có khoảng 4 triệu người được hưởng chính sách đãi ngộ của Nhà nước, nhiệm vụ cải cách xã hội hóa phúc lợi xã hội còn rất nặng nề. Bên cạnh đó, ý thức của người dân về từ thiện xã hội tương đối yếu, số lượng quyên góp ít … Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, tư duy phát triển của Đảng Cộng sản Trung Quốc cho rằng cần có sự điều chỉnh, làm thế nào để mọi người dân đều được hưởng an sinh xã hội, nhất là những người già, những người thất nghiệp, tâng lớp yếu thế trong xã hội. Dựa trên phương hướng của Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI, Chính phủ Trung Quốc đã và đang thực hiện các biện pháp chính sách như : - Từng bước xây dựng chế độ an sinh xã hội bao phủ cư dân thành phố và nông thôn tiếp nối sự nghiệp từ thiện, phúc lợi xã hội, cứu trợ xã hội, bảo hiểm xã hội để phù hợp với tình hình già hóa dân số, đô thị hóa và đa dạng hóa các hình thức việc làm. - Đa dạng hóa các kênh thu thập nguồn vốn an sinh xã hội, tăng cường quản lí giám sát ngân sách an sinh xã hội, bảo đảm sự duy trì và tăng giá trị nguồn ngân sách an sinh xã hội. - Hoàn thiện chế độ bảo hiểm lương hưu cơ bản của công nhân viên chức các doanh nghiệp, từng bước thực hiện tài khoản cá nhân, tích cực thúc đẩy quy hoạch tổng thể cấp tỉnh, khi có đủ điều kiện sẽ tiến hành thực hiện quy hoạch tổng thể trong cả nước quỹ lương hưu cơ bản. Đẩy nhanh cải cách chế độ bảo hiểm cho các cơ quan, đơn vị sự nghiệp. - Từng bước xây dựng chế độ bảo đảm mức sống tối thiểu ở nông thôn, thăm dò xây dựng chế độ bảo hiểm lương hưu nông thôn nhiều loại hình ở những nơi có điều kiện. - Hoàn thiện chế độ bảo hiểm y tế cơ bản công nhân viên chức ở thành phố, thị trấn; xây dựng chế độ bảo hiểm y tế cư dân thành thị lấy tính toán bệnh nặng là chính; phát triển chế độ cứu trợ y tế xã hội. - Thúc đẩy xây dựng chế độ bảo hiểm giáo dục, bảo hiểm nai tạn lao động, bảo hiểm thất nghiệp. - Đẩy nhanh xây dựng chế độ an sinh xã hội thích ứng với đặc điểm của người nông dân làm thuê. - Tăng cường cứu trợ đối với quần chúng nhân dân gặp khó khăn; hoàn thiện chế độ bảo đảm mức sống tối thiểu ở thành thị, chế độ dưỡng lão ở nông thôn; thực hiện cứu trợ đối với các hộ gia đình đặc biệt khó khăn, cứu trợ những người gặp khó khăn hoạn nạn và những người ăn xin vô gia cư sống ở thành phố; hoàn thiện các chính sách ưu đãi, chăm lo thu xếp cho họ. - Phát triển hệ thống phúc lợi xã hội, lấy việc giúp đỡ người già, cứu trợ người tàn tật, cứu giúp người cô đơn không nơi nương tựa, hỗ trợ người khó khăn làm trọng điểm. Biểu dương tinh thần của chủ nghĩa nhân đạo, phát triển sự nghiệp vì người tàn tật, bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người tàn tật. Phát triển sự nghiệp vì người già, triển khai phục vụ người già dưới nhiều hình thức. - Phát triển sự nghiệp từ thiện, hoàn thiện chính sách miễn giảm thuế đối với hoạt động quyên góp, hiến tặng trong xã hội, tăng cường ý thức từ thiện xã hội. - Phát huy vai trò quan trọng của bảo hiểm thương nghiệp trong việc kiện toàn hệ thống an sinh xã hội. - Mở rộng các kênh thu hút vốn, đẩy nhanh xây dựng nhà ở cho thuê với giá rẻ, chuẩn hóa tăng cường xây dựng nhà ở phù hợp điều kiện kinh tế, từng bước giải quyết sự khó khăn ttrong việc thuê nhà ở đối với những gia đình có thu nhập thấp ở thành phố và thị trấn. Tóm lại, xuất phát thực tiễn hệ thống an sinh xã hội chưa hoàn thiện, Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện những biện pháp thiết thực trên mọi mặt của vấn đề an sinh xã hội như: kinh phí đầu tư cho hệ thống an sinh xã hội, xây dựng thể chế an sinh xã hội. Những chủ trương này bước đầu đã được quần chúng nhân dân Trung Quốc hưởng ứng, dần thực hiện được phương châm “mở rộng diện bao phủ, cơ bản bảo đảm, nhiều tầng lớp, bền vững” như Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã đưa ra trong Báo cáo công tác 2008. Nhìn chung, các đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản Trung Quốc nhằm thúc đẩy xây dựng xã hội hài hòa đã bước đầu giải quyết được vấn đề việc làm, phát triển quan hệ lao động hài hòa; giải quyết vấn đề phát triển giáo dục công bằng; tăng cường dịch vụ y tế, nâng cao sức khỏe cho người dân; hoàn thiện chế độ an sinh xã hội, bảo đảm mức sống cơ bản cho quần chúng nhân dân. 2.3. Hoàn thiện chế độ pháp luật, bảo đảm công bằng chính nghĩa. Hạt nhân và cũng là tư tưởng chỉ đạo của việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa của Đảng và Chính phủ Trung Quốc là công bằng chính nghĩa và làm thế nào xây dựng được chế độ pháp luật bảo đảm công bằng chính nghĩa trong xã hội. Đồng thời, công bằng chính nghĩa được coi là điều kiện cơ bản của xã hội hài hòa và chế độ pháp luật là bảo đảm căn bản cho xã hội công bằng chính nghĩa. Điều này cho thấy, muốn xây dựng được xã hội hài hòa, có được công bằng chính nghĩa đòi hỏi Trung Quốc phải xây dựng, hoàn thiện hệ thống chế độ pháp luật bảo vệ cho việc thực hiện công bằng chính nghĩa trên các mặt đời sống xã hội. Theo Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI, việc hoàn thành chế độ đảm bảo công bằng chính nghĩa được đưa ra với mục đích xuất phát từ thực tiễn của Trung Quốc trong giai đoạn hiện nay là xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật để bảo đảm quyền và lợi ích của người dân Trung Quốc trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Mục đích này được thể hiện ở 6 nội dung là : 2.3.1. Bảo đảm quyền lợi dân chủ, củng cố địa vị chính trị làm chủ đất nước của người dân. Kế thừa và phát huy chủ trương, đường lối xây dựng, phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa của các thế hệ lãnh đạo tiền bối, từ sau Đại hội XVI Đảng Cộng sản Trung Quốc, Hồ Cẩm Đào đã coi việc phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng văn minh chính trị xã hội chủ nghĩa là mục tiêu quan trọng của việc xây dựng xã hội khá giả toàn diện và đặc biệt gắn với xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa. Coi việc bảo đảm quyền lợi dân chủ của nhân dân là bảo đảm công bằng chính nghĩa trong xã hội, coi phát triển dân chủ của nhân dân, thực hiện nhân dân làm chủ là tiền đề cơ bản của việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa, lấy việc thúc đẩy dân chủ trong Đảng để thúc đẩy dân chủ trong nhân dân là con đường của việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa. Đường lối chính sách thực hiện dân chủ của Đảng Cộng sản Trung Quốc vẫn kiên trì kết hợp một cách hữu cơ giữa sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân làm chủ đất nước và quản lí đất nước theo pháp luật. Với đường lối, chính sách này, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI đề ra : - Tiếp tục kiên trì, hoàn thiện chế độ Đại hội đại biểu nhân dân, hợp tác đa đảng do Đảng cộng sản Trung Quốc lãnh đạo và chế độ hiệp thương chính trị, tự trị của các khu vực dân tộc. Mở rộng tham gia chính trị có trật tự của công dân trên nhiều cấp độ, bảo đảm nhân dân quản lí công việc của quốc gia, kinh tế, văn hóa, xã hội theo pháp luật. - Thúc đẩy khoa học hóa, dân chủ hóa về quyết sách, đi sâu công khai việc chính trị, bảo đảm quyền được biết, quyền tham gia, quyền biểu đạt, quyền giám sát của công dân. Đây được coi là điểm mới và yêu cầu mới về dân chủ trong đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Trung Quốc. - Mở rộng dân chủ cơ sở, hoàn thiện chế độ làm việc công khai như mở rộng công khai công việc của khu dân cư, hoàn thiện chế độ quản lí dân chủ cơ sở, phát huy chức năng tự quản xã hội, bảo đảm người dân trực tiếp thực hiện dân chủ theo pháp luật. - Thực hiện dân chủ ngay trong Đảng, mở rộng dân chủ trong Đảng, đẩy mạnh việc công khai công việc của Đảng, lấy việc hài hòa trong Đảng thúc đẩy hài hòa trong xã hội. Như vậy, có thể nói rằng cùng với sự phát triển của đất nước, đời sống của nhân dân Trung Quốc không ngừng được cải thiện thì nhu cầu về dân chủ của người dân ngày càng cao. Trung Quốc phải cải cách một cách đồng bộ trên các phương diện như : kinh tế, xã hội, chính trị và hành chính. Hạt nhân của cải cách kinh tế là kinh tế thị trường.; hạt nhân của cải cách xã hội là xây dựng xã hội công dân độc lập, bình đẳng; hạt nhân của cải cách hành chính là Chính phủ liêm chính, làm việc có hiệu quả cao và làm việc theo quy tắc; hạt nhân của cải cách chính trị là dân chủ, tự do, dân chủ chính trị. Để đạt được mục tiêu như vậy, có lẽ Trung Quốc cần phải cải cách nhiều hơn nữa trong lĩnh vực chính trị. 2.3.2. Hoàn thiện chế độ pháp luật, đặt cơ sở pháp trị cho xã hội hài hòa. Từ khi Trung Quốc cải cách mở, cửa đến nay, rất nhiều pháp luật, pháp quy đã được đặt ra, công tác lập pháp cũng phát triển rất nhanh với quy mô lớn, về cơ bản đã giải quyết được tình trạng không có luật pháp, bước đầu xây dựng được hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa. Nhưng công việc lập pháp của Trung Quốc chủ yếu tập trung cho nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế. Bước vào thế kỉ mới, tập thể lãnh đạo Đảng Cộng sản Trung Quốc do Hồ Cẩm Đào đứng đầu đã đưa ra tư tưởng chiến lược phát triển khoa học, xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa mà trọng tâm là lấy con người làm gốc. Trước yêu cầu mới này, đòi hỏi Trung Quốc phải không ngừng hoàn thiện chế độ pháp luật trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, bảo đảm sự bình đẳng, công bằng chính nghĩa cho người dân. Xoay quanh vấn đề này, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI đã nhấn mạnh đến hai nội dung: Một là, kiên trì mọi công dân bình đẳng trước pháp luật, tôn trọng, bảo đảm nhân quyền, dựa vào pháp luật để bảo đảm quyền lợi tự do và công dân. Điều này xuất phát từ thực tiễn quan hệ lợi ích mới, yêu cầu của người dân bình đẳng về cơ hội, đãi ngộ, phân chia thành quả của cải cách, mở của ở Trung Quốc, nhằm tạo ra chế độ bảo đảm sự công bằng chính nghĩa. Sự bình đẳng này được thể hiện bởi các việc xác lập chế độ pháp luật, trong đó chú trọng đến tập thể những người dễ bị xâm hại về lợi ích. - Hai là, kiên trì lập pháp khoa học, lập pháp dân chủ, hoàn thiện quy định pháp luật về các mặt phát triển chính trị dân chủ, bảo đảm quyền lợi dân chủ, thúc đẩy sự nghiệp xã hội và tăng cường quản lí xã hội, tăng cường sự ràng buộc và giám sát việc thực hiện quyền lực, tạo bầu không khí trong đó toàn thể nhân dân đều tự giác học tập, tuân thủ và sử dụng pháp luật. Cả hai nội dung này được tiếp tục khẳng định trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng Cộng sản Trung Quốc làn thứ XVII. Nội dung thứ hai còn được nhấn mạnh trong Báo cáo công tác của Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân tại phiên họp toàn thể lần thứ hai Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc lần thứ nhất khóa XI ngày 8/3/2008 do Ủy viên trưởng (Chủ tịch Quốc hội) Ngô Bang Quốc trình bày. Đó là, nghiêng về lập pháp các vấn đề liên quan đến xã hội: Dựa vào yêu cầu của việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa, ra sức tăng cường lập pháp trong lĩnh vực xã hội. Kiện toàn chế độ pháp luật trên phương diện lao động và an sinh xã hội, liên quan đến lợi ích thiết thân của người lao động, liên quan đến xã hội hài hòa ổn định là một trọng điểm của việc lập pháp. Khi đánh giá công việc lập pháp về vấn đề xã hội trong năm 2007, Báo cáo này đã chỉ ra, Ủy ban thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc đã lần lượt thông qua Luật hợp đồng lao động, Luật xúc tiến việc làm; Luật trọng tài giải quyết tranh chấp lao động; ngoài ra còn bàn bạc dự thảo Luật bảo hiểm xã hội; sửa chữa toàn diện Luật giáo dục nghĩa vụ, cố định về hình thức pháp luật đối với cơ chế bảo đảm kinh phí giáo dục nghĩa vụ, đưa việc thực hiện giáo dục thực chất vào pháp luật, coi việc phát triển cân bằng giáo dục nghĩa vụ là mục tiêu; sửa đổi Luật đảm bảo quyền lợi phụ nữ, lần đầu tiên trên phương diện pháp luật xác định rõ thực hiện bình đẳng nam nữ là quốc sách cơ bản của Nhà nước. 2.3.3. Hoàn thiện thể chế tư pháp, tăng cường sự bảo đảm tư pháp của xã hội hài hòa. Hệ thống thể chế tư pháp của Trung Quốc đã bị hủy hoại trong thời gian dài Cách mạng văn hóa. Bước vào giai đoạn cải cách, mở cửa, thể chế tư pháp này không còn phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường và phương châm, sách lược quản lí đất nước theo pháp luật. Do vậy, việc điều chỉnh, cải cách tư pháp là yêu cầu cấp bách đối với việc xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xuất phát từ yêu cầu này, Trung Quốc đã không ngừng cải cách và hoàn thiện hệ thống tư pháp. Trong những năm gần đây, việc cải cách và hoàn thiện này đã đạt được một số thành tựu như: bước đầu hình thành một thể chế tư pháp tương đối độc lập, bảo vệ có hiệu quả quyền và lợi ích hợp pháp của công dân … Song, thể chế tư pháp của Trung Quốc cũng còn những hạn chế [12, tr 160 - 199]. Để có một thể chế tư pháp đảm bảo công bằng chính nghĩa đáp ứng việc xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI đã đưa ra các nội dung của việc hoàn thiện cơ chế thể chế tư pháp bao gồm : - Kiên trì tư pháp vì dân, tư pháp công bằng, thúc đẩy cải cách cơ chế làm việc và thể chế tư pháp, xây dựng chế độ tư pháp xã hội chủ nghĩa có quyền uy, công bằng, hiệu quả cao, phát huy vai trò chức năng bảo vệ công bằng chính nghĩa của tư pháp. - Hoàn thiện các chế độ tố tụng, kiểm tra, giám sát, chấp hành hình phạt, giáo dục cải tạo sửa chữa, kiểm định giám sát, bồi thường hình sự, thi cử tư pháp. - Tăng cường xây dựng tư pháp dân chủ, kiện toàn chế độ công khai xét xử, bồi thẩm viên nhân dân, kiểm sát viên nhân dân, phát huy vai trò tác dụng tích cực của luật sư, công chứng, hòa giải, trọng tài. - Tăng cường cứu trợ tư pháp, giảm phí tố tụng đối với người dân nghèo khổ. - Kiện toàn xét xử lưu động, mở rộng phạm vi sử dụng thích hợp có trình tự, đơn giản, dễ dàng; thực hiện chế độ thông báo nghĩa vụ và quyền lợi của đương sự, giúp quần chúng tiến hành tố tụng một cách thuận tiện. - Chuẩn hóa mức thu phí tố tụng, luật sư, trọng tài. - Tăng cường bảo hộ tư pháp quyền con người, tiến hành hoạt động tố tụng tuân thủ nghiêm ngặt theo những trình tự và nguyên tắc mà pháp luật quy định. - Hoàn thiện chế độ chấp hành công tác, tăng cường và cải tiến công tác chấp hành. - Bảo vệ và duy trì sự liêm khiết trong sạch, truy cứu trách nhiệm kẻ bẻ cong pháp luật, không làm tròn chức trách. Với việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế thể chế tư pháp, tăng cường bảo đảm tư pháp của xã hội hài hòa, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã thực hiện phương châm “kiên trì tư pháp vì dân, tư pháp công bằng chính nghĩa”, thúc đẩy cải cách thể chế tư pháp, cơ chế công tác, xây dựng chế độ tư pháp xã hội chủ nghĩa công bằng chính nghĩa, hiệu quả cao, quyền uy. 2.3.4. Hoàn thiện chế độ tài chính công cộng, từng bước thực hiện ngang bằng hóa trong dịch vụ công cộng cơ bản. Thực tiễn sau 30 năm cải cách, mở cửa ở Trung Quốc đã hình thành cục diện phân phối không đồng đều giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp dân cư, cơ cấu đầu tư tài chính công của Chính phủ còn nhiều bất cập. Trước yêu cầu xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa, thực hiện công bằng chính nghĩa, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI đã đề ra nhiệm vụ hoàn thiện chế độ tài chính công, từng bước thực hiện bình quân hóa trong việc cung cấp dịch vụ công. Để làm được việc này, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã đề ra những chủ trương, chính sách cụ thể sau đây: - Kiện toàn thể chế tài chính công cộng; điều chỉnh kết cấu thu chi tài chính, đầu tư nhiều hơn nữa nguồn vốn tài chính cho lĩnh vực dịch vụ công cộng; đẩy mạnh đầu tư tài chính vào các mặt giáo dục, y tế, văn hóa, việc làm và tái tạo việc làm, an sinh xã hội, môi trường sinh thái, xây dựng cơ sở hạ tầng công cộng, trị an xã hội. - Từng bước làm rõ chức năng, quyền hạn của Trung ương và địa phương; kiện toàn thể chế tài chính cuối khóa. Hoàn thiện các biện pháp phân chia tỉ lệ phần trăm thuế cùng hưởng giữa Trung ương và địa phương; mở rộng mức độ chuyển dịch thanh toán tài chính,. - Bảo đảm nhu cầu xây dựng các cấp chính quyền. - Hoàn thiện chính sách hỗ trợ khuyến khích thưởng phạt tài chính và thể chế quản lí tài chính từ cấp tỉnh trở xuống; ra sức giải quyết những khó khăn tài chính của các địa phương, tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ công cộng của chính quyền cơ sở. - Từng bước tăng thêm quy mô đầu tư tài chính quốc gia, không ngừng tăng cường năng lực cung cấp dịch vụ công cộng và sản phẩm công cộng. Với những biện pháp, chính sách này, trong mấy năm qua đã phần nào giải quyết được tình trạng khó khăn về tài chính của chính quyền địa phương cấp huyện, xã, khuyến khích được tính chủ động và tích cực của các địa phương trong phát triển kinh tế. Điều này được thể hiện qua các con số như: theo thống kê của Bộ Tài chính Trung Quốc, năm 2006, quy mô năng lực tài chính của cấp huyện, xã trong cả nước đạt 1.163,1 tỉ NDT, tăng 548,6 tỉ NDT so với năm 2003; số lượng các huyện khó khăn về tài chính giảm từ 791 huyện năm 2003 xuống còn 27 huyện năm 2007. Do vậy, việc thực hiện chủ trương chính sách xây dựng xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa trong những năm tới của Chính phủ Trung Quốc sẽ vẫn tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách này và tăng thêm đầu tư kinh phí cho khen thưởng và trợ cấp, tăng cường mức độ hỗ trợ tài chính đối với các huyện, xã, mở rộng thực hiện thể chế quản lí tài chính cấp tỉnh quản lí cấp huyện, ra sức thúc đẩy việc cải cách tài chính của xã do huyện quản lí, xã sử dụng. 2.3.5. Hoàn thiện chế độ phân phối thu nhập, chuẩn hóa trình tự phân phối thu nhập. Từ khi cải cách, mở cửa đến nay cùng với quá trình phát triển nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, người dân có nhiều kênh thu nhập nhưng thiếu sự quy phạm, xu thế chênh lệch về thu nhập giữa các vùng miền, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư, giữa các ngành nghề ngày càng gia tăng. Mức chênh lệch thu nhập bình quân đầu người giữa miền Đông, miền Trung và miển Tây năm 2006 là 2,51 : 1,11 : 1. Mức chênh lệch về thu nhập giữa người dân thành thị và người nông dân năm 2007 là 3,32 : 1. Chênh lệch giữa ngành có thu nhập cao nhất và ngành thu nhập thấp nhất tăng từ 1,3 lần năm 1978 lên đến 10,6 lần năm 2006 [2]. Với thực trạng và xu thế khoảng cách chênh lệch thu nhập trên đây, trước yêu cầu cấp bách của việc xây dựng xã hội hài hòa ở Trung Quốc, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XVI đã đưa ra các chủ trương, chính sách hoàn thiện thể chế phân phối thu nhập. Cụ thể là: - Kiên trì chế độ phân phối theo lao động làm chủ thể, nhiều hình thức phân phối cùng tồn tại, tăng cường điều tiết vĩ mô đối với phân phối thu nhập, trên cơ sở phát triển kinh tế, chú trọng hơn nữa đến công bằng xã hội, ra sức nâng cao thu nhập của những người có thu nhập thấp, kiên trì xóa bỏ tận gốc thu nhập phi pháp, thúc đẩy cùng giàu có. - Thông qua các biện pháp tăng thêm việc làm, xây dựng cơ chế tăng thu nhập giảm gánh nặng cho nông dân, kiện toàn chế độ tiền lương tối thiểu, hoàn thiện cơ chế tăng lương, từng bước nâng cao tiêu chuẩn bảo hiểm xã hội để nâng cao mức thu nhập cho người có thu nhập thấp. - Hoàn thiện chế độ phân phối căn cứ theo sự đóng góp của các yếu tố sản xuất như lao động, vốn, kĩ thuật và quản lí. - Kiện toàn chế độ tiền lương công chức kết hợp giữa chức vụ và cấp bậc thống nhất trong toàn quốc, quy phạm hóa tiêu chuẩn tiền trợ cấp và phụ cấp, hoàn thiện chế độ phụ cấp và trợ cấp cho các khu vực xa xôi, biên cương. - Đẩy nhanh cải cách các đơn vị sự nghiệp, thi hành chế độ phân phối thu nhập phù hợp với đặc điểm của từng đơn vị sự nghiệp. - Tăng cường điều tiết và chỉ đạo phân phối tiền lương đối với doanh nghiệp, phát huy tác dụng dẫn dắt của đường lối chỉ đạo tiền lương, giá cả thị trường lao động, thông tin giá thành nhân công đối với mức tiền lương. - Chuẩn hóa mức thu nhập của người làm quản lí ở các doanh nghiệp Nhà nước làm kinh doanh, xác định một cách hợp lí tỉ lệ mức thu nhập của người làm công và người làm quản lí. - Đẩy nhanh cải cách các ngành nghề độc quyền, điều chỉnh mối quan hệ phân phối giữa doanh nghiệp và Nhà nước, hoàn thiện và thi hành nghiêm ngặt chế

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVấn đề xã hội hài hòa xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc sau 30 năm cải cách, mở cửa.doc
Tài liệu liên quan