Khóa luận Vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông

Mục lục

 

Tiêu đề Trang

Lời cảm ơn

Phần mở đầu 1

1. Lý do nghiên cứu đề tài 1

2. Mục đích của đề tài 2

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 2

4. Nhiệm vụ nghiên cứu 2

5. Phương pháp nghiên cứu đề tài 2

6. Cấu trúc của khoá luận 3

Chương 1 cơ sở lí luận của việc vận dụng phưong pháp dạy học trực quan trong dạy học môn kĩ thụât công nghiệp lớp 11 phổ thông 4

1.1 Một số khái niệm liên quan 4

1.2 Cơ sở lí luận của việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan 7

1.3 Thực trạng của việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông 12

Kết luận chương 1 18

Chương 2 vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông 20

2.1 Khái quát môn học kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông 20

2.2 Đề xuất các mức độ và phạm vi, khả năng sử dụng phương pháp dạy học trực quan 25

Kết luận chương 2 43

Chương 3. thực nghiệm đánh giá 45

3.1 Mục đích, nội dung và phương pháp thực nghiệm 45

3.2 Kết quả thực nghiệm 48

Kết luận chương 3 56

Kết luận chung 56

Tài liệu tham khảo 58

 

 

 

doc61 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 10311 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừ lâu và có cơ sở khoa học đã được xác định. Phương pháp dạy học này khá phù hợp với yêu cầu và đặc điểm nội dung môn kỹ thuật công nghiệp, do đó sử dụng nó có thể nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Thực trạng dạy học kĩ thuật công nghiệp phổ thông hiện nay còn nhiều vấn đề tồn tại, đặc biệt là vấn đề thiếu các phương tiện dạy học, phương pháp dạy học còn chậm đổi mới, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn hiện nay. Việc đổi mới phương pháp dạy học để nâng cao chất lượng dạy và học là vấn đề đang được quan tâm hiện nay. Phương pháp dạy học trực quan là một trong những phương pháp đem lại chất lương dạy học cao. Vận dụng cơ sở lí luận trên, ở chương 2 của khoá luận sẽ trình bày việc nghiên cứu sử dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông. Chương 2 Vận dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông 2.1 Khái quát môn học kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông 2.1.1 Vị trí: Bất kì một nền giáo dục nào cũng nhằm tạo ra con người lao động. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, người lao động là người làm chủ xã hội, tự giác lao động, lao động vì mục đích chung của xã hội. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để tạo ra được những người lao động thực sự có ích cho xã hội. Hiện nay, đất nước ta đang trên đà phát triển, khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển và xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực, phục vụ nhu cầu sản xuất. Con người muốn ứng dụng được nó cần phải có trình độ kĩ thuật. Để đạt được điều này con người cần phải trang bị những kiến thức cơ bản, cần thiết. Do vậy nhiệm vụ của trường phổ thông là phải trang bị cho học sinh những hiểu biết cơ bản về kĩ thuật phổ thông. Môn học kĩ thuật cơ khí lớp 11 phổ thông là môn học góp phần to lớn vào nhiệm vụ giáo dục và đào tạo kĩ thuật tổng hợp, một nguyên tắc lớn của nền giáo dục và đào tạo xã hội chủ nghĩa. Nước ta đang trên đà phát triển nhưng nền kinh tế của ta còn nghèo nàn, lạc hậu, cơ sở vật chất kĩ thuật còn yếu kém, lực lượng lao động sản xuất đông nhưng không đáp ứng được nhu cầu về sản xuất. Bởi vì đội ngũ lao động tay nghề còn chưa cao, sự hiểu biết xã hội còn yếu kém không đáp ứng được nhu cầu của cuộc sống. Trong khi đó, khoa học kĩ thuật trên thế giới ngày càng phát triển, máy móc thiết bị ngày càng hiện đại và biến đổi từng ngày từng giờ. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để lực lượng sản xuất không bị lạc hậu so với thời đại. Chỉ có sự trang bị kiến thức về quá trình sản xuất, về việc sử dụng công cụ lao động, máy móc là yếu tố hàng đầu để nâng cao năng suất lao động, giúp con người hình thành và rèn luyện kĩ năng lao động nhất định trong mỗi lĩnh vực sản xuất khác nhau của xã hội. Môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản về cấu tạo và nguyên lý làm việc của động cơ đốt trong, ô tô, xe máy, . . . Đây là những kiến thức rất thiết thực và gắn liền với thực tế cuộc sống. Vì vậy, môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 góp phần quan trọng đáp ứng các yêu cầu trên, hiện nay môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông được giảng dạy ở hầu hết ở các trường phổ thông trên cả nước. 2.1.2 Nội dung, đặc điểm của môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông. 2.1.2.1 Nội dung Nằm trong môn kĩ thuật công nghiệp phổ thông, môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 có nội dung kiến thức tương đối dài và rộng so với quỹ thời gian 33 tiết đối với chương trình hiện hành hiện nay. Nó gồm những nội dung sau: Phần 1: Động cơ đốt trong (22 tiết) Chương 1: Cấu tạo, nguyên tắc hoạt động của động cơ đốt trong (4 tiết) Chương 2: Các cơ cấu: cơ cấu trục khuỷu thanh truyền, cơ cấu phân phối khí (6 tiết) Chương 3: Các hệ thống: hệ thống bôi trơn, làm mát, cung cấp nhiên liệu, đánh lửa, khởi động và các bộ điều chỉnh tự động (12 tiết) Phần 2: Ô tô - máy kéo (11 tiết) Chương 4: Hệ thống truyền lực (6 tiết) Chương 5: Phần di động, cơ cấu lái và phanh (5 tiết) Riêng đối với chương trình thí điểm mới của Bộ giáo dục và đào tạo, nội dung về động cơ đốt trong được dạy ở học kỳ 2 lớp 11 với 34 tiết. Bao gồm những nội dung sau: Chương 1: Đại cương về động cơ đốt trong (5 tiết) Chương 2: Cấu tạo của động cơ đốt trong (14 tiết) Chương 3: ứng dụng của động cơ đốt trong (13 tiết) Ôn tập, kiểm tra (2 tiết) Phân môn kĩ thuật cơ khí lớp 11 phổ thông có 4 nhóm kiến thức: + Hệ thống khái niệm kĩ thuật: khái niệm về động cơ đốt trong, động cơ hai kỳ, động cơ bốn kỳ, chu trình làm việc,... + Các phương tiện kỹ thuật: Các chi tiết, bộ phận, cơ cấu, hệ thống máy. + Các phương pháp gia công và công nghệ khi gia công chế tạo các chi tiết, bộ phận, cơ cấu hệ thống máy móc: khoan, mạ, doa, hàn,... + Các nguyên lý kĩ thuật: - Nguyên lý cấu tạo. - Nguyên lý hoạt động. 2.1.2.2 Đặc điểm của môn kĩ thuật cơ khí Môn kĩ thuật cơ khí cũng mang đầy đủ những đặc điểm của môn kĩ thuật công nghiệp nói chung: a. Tính cụ thể và tính trừu tượng của môn học. + Tính cụ thể: tính cụ thể của môn học thể hiện ở nội dung môn học đề cập đến những máy móc, thiết bị, . . . Đây là những vật phẩm kĩ thuật rất cụ thể đồng thời môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 còn đề cập đến những thao tác kĩ thuật cơ bản và cụ thể như: thực hành lắp ráp sản phẩm, chuẩn đoán hỏng hóc, . . . Những kiến thức trực quan này học sinh có thể quan sát thông qua phương tiện trực quan hoặc thao tác mẫu của giáo viên. + Tính trừu tượng: tính trừu tượng được phản ánh trong hệ thống các khái niệm kĩ thuật, các nguyên lý hoạt động của động cơ 4 kì, động cơ 2 kì, các cơ cấu hệ thống, . . . mà học sinh không trực tiếp tri giác được. VD: Sự tạo thành hỗn hợp xăng với không khí trong bộ chế hoà khí, chu trình làm việc thực tế của động cơ đốt trong... Những nội dung này học sinh muốn hiểu được phải tự mình tư duy trừu tượng thông qua lời giảng của giáo viên, sự phân tích của người hướng dẫn. Để có tư liệu cho tư duy tưởng tượng thì phải có những nhận thức cảm tính hay trực quan, từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và ngược lại. Vì thế trong quá trình giảng dạy các nguyên lý kĩ thuật đòi hỏi phải trực quan hóa các nội dung bằng phương tiện trực quan như: hình vẽ, đồ thị, sơ đồ, mô hình và thao tác mẫu của giáo viên. b. Tính thực tiễn của môn học Đối tượng nghiên cứu và nội dung của môn học kĩ thuật cơ khí phản ánh các phương tiện trong hoạt động thực tiễn cuộc sống như: ôtô, xe máy, các loại động cơ được sử dụng trong các máy công - nông nghiệp, . . . Các loại phương tiện máy móc này luôn gắn bó với quá trình sản xuất và sử dụng trong thực tế cuộc sống hằng này. Dựa trên cơ sở khoa học nhưng phân môn kĩ thuật cơ khí xuất phát từ thực tiễn cuộc sống và giải quyết các nhiệm vụ, nhu cầu cụ thể trong sản xuất và đời sống. Đặc điểm này làm nổi bật nội dung bài giảng, làm nội dung bài giảng bao giờ cũng gần gũi với học sinh hơn nhưng không làm giảm ý nghĩa khoa học của môn học. Khi giảng dạy người giáo viên cần phải vận dụng kiến thức thực tế cuộc sống đồng thời gợi mở những hiểu biết trong thực tế của học sinh, những kiến thức cơ bản về cấu tạo và nguyên lí làm việc của động cơ đốt trong, của các hệ thống chính trên ôtô, xe máy, . . . Đây là những kiến thức rất thiết thực và gắn liền với cuộc sống vì vậy môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông góp phần đáp ứng những nhu cầu trên của xã hội. Hiện nay, môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông, được giảng dạy ở hầu hết các trường phổ thông trong cả nước. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên cần phải khái quát những kiến thức đó thành nguyên lý chung ngắn gọn, súc tích, dễ nhớ. Từ nguyên lý chung của các thiết bị máy móc để tìm ra ứng dụng của nó trong quá trình sản xuất và trong cuộc sống hàng ngày, làm cho quá trình dạy học gắn liền với thực tiễn. Từ đó giúp học sinh có khả năng nhận biết các sự vật hiện tượng đơn giản ở xung quanh và giải thích được chúng. VD: Trong quá trình chạy rà động cơ Đối với động cơ bình thường không được dùng dầu bôi trơn quá nhớt để chạy rà. Bởi vì nếu dầu quá nhớt sẽ không lọt được tới những vị trí có khe hở nhỏ. c. Tính tổng hợp - tích hợp. Tính tổng hợp thể hiện ở chỗ nội dung kiến thức của môn học kĩ thuật cơ khí được xây dựng trên nguyên tắc kĩ thuật tổng hợp. Do đó kiến thức mang tính phổ thông, chìa khoá, làm cơ sở cho những nội dung chuyên ngành sau này. Nhờ có đặc điểm này mà môn học mang trong nó tiềm năng giáo dục kĩ thuật tổng hợp to lớn, tạo điều kiện cho giáo viên có khả năng phân tích, khai thác trong từng nội dung cụ thể. Môn kĩ thuật có khi mang tính chất tích hợp vì nó là môn khoa học ứng dụng, hàm chứa những phần tử kiến thức thuộc nhiều môn khoa học khác nhau: toán học, vật lý, hoá học,... nhưng lại liên quan, thống nhất với nhau để phản ánh những đối tượng kĩ thuật cụ thể VD: Toán học là công cụ để mô tả, thực hiện việc tính toán, thiết kế các thông số và kết cấu của động cơ đốt trong. Những định luật vật lý về chất khí, chất lỏng và nhiệt học là cơ sở để xây dựng nguyên lý làm việc của động cơ đốt trong. Những hiểu biết về hoá học là cơ sở để nghiên cứu nhiên liệu, dầu mỏ và quá trình cháy của động cơ. Đặc điểm này của môn học đòi hỏi trong khi giảng dạy người giáo viên cần phải chỉ rõ cơ sở khoa học của những hiện tượng kĩ thuật, giải pháp kĩ thuật,... trong bài đồng thời phân tích khả năng áp dụng chúng trong những trường hợp tương tự. Vì vậy, khi dạy mỗi nội dung khác nhau giáo viên cần tham khảo các sách có liên quan để nội dung môn học được phong phú, không trùng lặp, khắc sâu kiến thức cho học sinh. d. Ngôn ngữ và thuật ngữ kĩ thuật. Dựa trên việc sử dụng ngôn ngữ chung là: lời nói và chữ viết, ngoài ra môn kĩ thuật cơ khí còn có nhiều qui ước, tranh vẽ, sơ đồ, . . . Trong quá trình giảng dạy, giáo viên phải sử dụng chính xác các thuật ngữ kĩ thuật, các khái niệm, . . . của các chi tiết bộ phận trong động cơ, ôtô, xe máy, . . . đồng thời hướng dẫn học sinh sử dụng sổ tay kĩ thuật. 2.2 Đề xuất các mức độ và phạm vi, khả năng sử dụng phương tiện trực quan trong dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông. 2.2.1 Mức độ sử dụng phương tiện trực quan: Trong quá trình dạy học, giáo viên và học sinh đã thực hiện một phần nhiệm vụ giáo dục. Giáo viên là người truyền đạt kiến thức khoa học, kinh tế, xã hội đã tích lũy qua các thế hệ trước. Để lĩnh hội được những kiến thức đó học sinh phải tái hiện và sáng tạo trong quá trình học tập. Hoạt động sáng tạo và tái hiện trong thực tế thể hiện ở nhiều mức độ khác nhau và có mối liện hệ chặt chẽ với nhau. Một quá trình sáng tạo bất kỳ đều bắt đầu từ sự tái hiện những cái đã biết. Phương tiện trực quan là thiết bị hỗ trợ đắc lực cho giáo viên trong quá trình dạy học. Bởi vì, phương tiện trực quan được hiểu là những công cụ (phương tiện) mà giáo viên và học sinh sử dụng trong quá trình dạy học nhằm cung cấp tri thức, rèn luyện kĩ năng, kĩ xảo cho học sinh thông qua sự tri giác trực tiếp bằng giác quan. Trong quá trình dạy học, phương tiện trực quan giúp bài giảng của giáo viên trở nên sống động, cuốn hút được học sinh bởi các hiện tượng tự nhiên được giáo viên mô tả như các vật thật, vật tạo hình. Các phương tiện dạy học giúp giáo viên không trở thành người độc diễn trong suốt bài giảng. Nhờ có phương tiện trực quan giáo viên kích thích được tính tò mò, sáng tạo, ham hiểu biết và lòng yêu khoa học của học sinh. Phương tiện trực quan có tầm quan trọng trong quá trình nhận thức của học sinh. Vì vậy, thông qua sự tương tác giữa phương pháp dạy học và phương tiện trực quan thường gặp hai mức độ sử dụng sau: - Sử dụng phương tiện trực quan để minh họa. - Sử dụng phương tiện trực quan tìm tòi bộ phận. 2.2.1.1 Mức độ sử dụng phương tiện trực quan để minh họa a. Mức độ minh họa: Sử dụng phương tiện trực quan để minh họa tức là: dùng phương tiện trực quan để diễn tả, thể hiện, khẳng định, chứng minh cho: những sự vật, hiện tượng mà bằng lời nói không thể mô tả được một cách đầy đủ; các yếu tố nghịch lý, mâu thuẫn, các sự kiện tương phản, các yếu tố thông tin mới không thể hiểu được nếu chỉ giải thích bằng lời nói. b. Các bước thực hiện: Quá trình dạy học sử dụng phương tiện trực quan để minh họa được thực hiện theo các bước sau: Bước 1: Chuẩn bị bài dạy + Xác định mục tiêu, nội dung bài học phạm vi kiến thức cần tìm kiếm, cần làm sáng tỏ. + Xây dựng lôgic tiến trình bài dạy và cách thức tiến hành giờ học. + Lựa chọn phương tiện trực quan sử dụng trong bài dạy. + Chuẩn bị các phương tiện trực quan và các điều kiện vật chất cần thiết cho giờ học. + Soạn giáo án. Bước 2: Tổ chức dạy học trên lớp - Giáo viên thông báo nội dung, vấn đề nghiên cứu, xác định phạm vi kiến thức cần lĩnh hội. Tuỳ vào nội dung từng bài mà giáo viên có thể sử dụng phương tiện trực quan để minh họa theo các hướng khác nhau: hình thành khái niệm, giải quyết mâu thuẫn, . . . để giúp học sinh lĩnh hội kiến thức của bài học. Bước 3: Học sinh nghe, ghi các nội dung tương ứng. - Học sinh nghe, ghi theo lời giới thiệu, giải thích của giáo viên và có thể kết hợp trả lời các câu hỏi ngắn do giáo viên đưa ra. VD: Trong bài “Đại cương về động cơ đốt trong” ở phần III ( Những thuật ngữ chính). Mục đích của phần này là: Giúp học sinh hiểu một cách sâu sắc về các thuật ngữ thường sử dụng đối với động cơ đốt trong. Khi học về các thuật ngữ này học sinh thường rất khó hiểu và khó hình dung. Vì vậy, khi sử dụng phương tiện trực quan để dạy học sinh dễ hiểu bài hơn. Cụ thể khi dạy về hành trình của pittông, nếu giáo viên chỉ nêu lên khái niệm cho học sinh thôi thì học sinh sẽ không hiểu. Nhưng nếu sử dụng tranh trực quan hình 1b [9] và mô hình động cơ để minh họa khi dạy thì học sinh sẽ hiểu hơn. Trước tiên giáo viên giảng cho học sinh để học sinh nghe và ghi: GV: - Hành trình của pittông là khoảng cách giữa hai điểm chết. - Hành trình của pittông được kí hiệu: S Lúc này học sinh sẽ thắc mắc. HS: Thưa cô sao lại gọi khoảng cách giữa hai điểm chết là hành trình của pittông? Trước sự thắc mắc đó của học sinh giáo viên đưa tranh trực quan cho học sinh quan sát. GV: Khoảng cách S được giới hạn bởi những vị trí nào? HS: Khoảng cách S được giới hạn bởi điểm chết trên và điểm chết dưới. GV: Đúng! Để hiểu rõ hơn các em hãy quan sát trên mô hình. Giáo viên quay trục khuỷu cho học sinh quan sát và đưa ra câu hỏi cho học sinh trả lời. GV: Khi trục khuỷu quay pittông chuyển động như thế nào? HS: Pittông đi từ điểm chết trên xuống điểm chết dưới và ngược lại. GV: Đúng! Khi trục khuỷu quay pittông sẽ từ điểm chết trên đi xuống điểm chết dưới và ngược lại, khi pittông đi từ điểm chết trên đến điểm chết dưới nó đã thực hiện được một hành trình (Giáo viên giải thích cho học sinh). Trong quá trình dạy học có nhiều trường hợp nếu chỉ giải thích bằng lời nói, học sinh sẽ không hiểu ý đồ giảng dạy của giáo viên. Như vậy trong quá trình dạy học gặp phải những vấn đề khó hiểu, khó suy luận nếu người giáo viên biết cách sử dụng phương tiện trực quan minh họa kết hợp với các phương pháp dạy học khác sẽ mang lại hiệu quả cao hơn cho bài dạy. Học sinh sẽ hứng thú học tập hơn và tiếp thu bài nhanh hơn. 2.2.1.2 Sử dụng phương tiện trực quan ở mức độ tìm tòi bộ phận. a. Mức độ tìm tòi bộ phận. Sử dụng phương tiện trực quan để tìm tòi bộ phận tức là sau khi được giới thiệu về nội dung bài học, phương tiện trực quan, các yêu cầu cần giải quyết. Trên cơ sở đó, học sinh phải tìm ra các chi tiết, bộ phận, mối liên hệ giữa chúng, nguyên lý hoạt động, . . . trên phương tiện trực quan. Học sinh hiểu rõ cấu tạo và mối liên hệ giữa các chi tiết, bộ phận, . . . trao đổi, rút ra kết luận và tự lĩnh hội tri thức b. Các bước thực hiện. Bước 1: Chuẩn bị bài dạy - Xác định mục đích, nội dung của bài dạy. - Xây dựng tiến trình bài dạy và cách thức tiến hành giảng dạy. - Lựa chọn phương tiện trực quan và chuẩn bị phương tiện trực quan cho bài học. - Soạn giáo án. Bước 2: Tổ chức dạy học trên lớp. - Thông báo những nội dung kiến thức cần nghiên cứu và lĩnh hội. - Giáo viên trình bày trực quan theo lôgic vấn đề nghiên cứu: định hướng, hướng dẫn học sinh quan sát, khai thác phương tiện để lĩnh hội tri thức mới. Bước 3: Học sinh phát biểu kết quả. - Học sinh trình bày kết quả quan sát dựa trên các phương tiện trực quan, trả lời các câu hỏi của giáo viên, tự rút ra kết luận. - Giáo viên, nhận xét, bổ sung, giải quyết thắc mắc của học sinh, giúp học sinh lĩnh hội tri thức. - Học sinh vận dụng kiến thức. VD: Trong khi dạy về cấu tạo và nguyên lý hoạt động của hệ thống bôi trơn. Mục đích của phần này là: Sau khi học xong học sinh phải hiểu được rõ cấu tạo và nguyên lý hoạt động của hệ thống bôi trơn. Khó khăn: Nếu giáo viên chỉ giảng cấu tạo và nguyên lý hoạt động trên cơ sở lí thuyết thì học sinh sẽ khó nhận biết được hình dáng, sự liên hệ giữa các bộ phận của hệ thống cũng như hoạt động của nó. Vì vậy, khi dạy giáo viên sử dụng tranh trực quan hình 19 [9], sơ đồ khối cho học sinh quan sát, học sinh sẽ hiểu bài một cách sâu hơn. Trước tiên giáo viên giảng cho học sinh biết qua về cấu tạo của hệ thống, đặc điểm của từng bộ phận và đưa ra tranh trực quan cho học sinh quan sát (Tranh không có thuyết minh). GV: Các em hãy quan sát và sau đó một em lên điền các bộ phận tương ứng. Sau khi học sinh quan sát xong giáo viên gọi học sinh lên điền tên các bộ phận. Khi học sinh đã điền đầy đủ tên các bộ phận của hệ thống, giáo viên vẽ sơ đồ khối cho học sinh quan sát. GV: Các em hãy quan sát trên sơ đồ, đối chiếu với tranh mà các em vừa quan sát và tìm hiểu xem dầu đi như thế nào? Sau một hồi quan sát và tìm hiểu. HS: Dầu từ các te được bơm dầu hút lên đưa tới bình lọc, qua két làm mát đến đường dầu chính đi bôi trơn các bộ phận của động cơ. GV: Van quá tải 3 có nhiệm vụ gì? HS: ... GV: Khi áp suất dầu phía sau bơm quá lớn thì hiện tượng gì xảy ra? HS: Khi đó van 3 mở cho dầu thừa trở về các te hoặc quay về cửa hút của bơm. GV: Đúng! Chính vì vậy mà van 3 có nhiệm vụ tránh không cho áp suất dầu phía sau bơm quá lớn. Cứ như vậy giáo viên cho học sinh quan sát, hướng dẫn và đưa ra các câu hỏi kích thích học sinh học tập. Sau khi học xong cấu tạo và nguyên lý hoạt động giáo viên đưa ra câu hỏi. GV: Từ cấu tạo và hoạt động của hệ thống bôi trơn các em hãy cho cô biết nhiêm vụ của hệ thống? HS: Hệ thống đưa dầu đi bôi trơn và tản nhiệt cho các mặt ma sát. Lúc này sẽ có một số học sinh thắc mắc: HS: Thưa cô tại sao hệ thống bôi trơn lại có nhiệm vụ làm mát nữa ạ? Lúc này giáo viên khẳng định và giải thích cho học sinh hiểu rõ hơn. GV: Đúng! Trong khi hoạt động nhiều chi tiết của động cơ trượt trên bề mặt của chi tiết khác, trong khi đó bề mặt ma sát của các chi tiết luôn có sự nhấp nhô nên khi chuyển động gây ra lực ma sát làm nóng các chi tiết và làm các chi tiết mòn, hỏng. Như vậy phương tiện trực quan không chỉ dùng để minh họa mà còn dùng để tìm tòi bộ phận, phát triển khả năng tư duy lôgic, phát triển năng lực kĩ thuật, lòng say mê khoa học của học sinh. Các bước sử dụng phương tiện trực quan để tìm tòi được thể hiện trên sơ đồ sau: Cung cấp thông tin về nội dung bài học có liên quan Vận dụng và phát triển nội dung Xử lí thông tin để rút ra kết luận( nội dung kiến thức-kĩ năng) - Kênh nhìn( quan sát) - Hình vẽ - Mô hình - Vật thật - Lời nói, chữ viết - Trả lời câu hỏi - Đối chiếu, nhận biết - So sánh, phân biệt , tóm tắt - Thao tác trên PTTQ - Trả lời, thảo luận - Liên hệ thực tế - Giải quyết tình huống - Dùng nội dung đó xây dựng tiếp nội dung khác 2.2.2 Phạm vi – khả năng sử dụng phương pháp dạy học trực quan trong dạy học môn kĩ thuật công nghiệp lớp 11 phổ thông. Sự lĩnh hội tri thức của học sinh không thể bắt đầu từ bản thân vật phẩm kĩ thuật riêng lẻ, mà người giáo viên phải kết hợp các phương pháp giảng dạy của bản thân cùng với phương tiện trực quan, sao cho kiến thức cụ thể hoá. Điều này cho thấy, phương pháp trình bày trực quan có vai trò quan trọng trong cả hai quá trình dạy lý thuyết và thực hành. 2.2.2.1 Phương tiện trực quan trong dạy lý thuyết kĩ thuật cơ khí lớp 11 Lý thuyết của tất cả các môn học nói chung và của môn kĩ thuật cơ khí nói riêng đều bắt nguồn từ thực tiễn mà có, để giải quyết các nhiệm vụ hết sức quan trọng và cần thiết đối với cuộc sống, đặc biệt là trong thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Để thiết thực với cuộc sống, trong quá trình dạy học người giáo viên cần phải sử dụng phương tiện trực quan để dạy lý thuyết trong việc hình thành khái niệm, cấu tạo, nguyên lý hoạt động của các loại máy móc thiết bị như: động cơ, ôtô, xe máy, . . . a. Sử dụng phương tiện trực quan trong việc hình thành khái niệm cho học sinh. Khái niệm là kết quả của quá trình tư duy nên việc sử dụng phương tiện trực quan và dùng lời nói của giáo viên để giải thích thêm, là con đường cần thiết để hình thành khái niệm cho học sinh. Tuy nhiên đối với học sinh chưa có khái niệm ban đầu, về một đối tượng nào đó thì có thể xuất phát từ cái cụ thể, để hình thành khái niệm ban đầu. Quá trình hình thành khái niệm có thể diễn giải theo sơ đồ sau: Phân tích, so sánh Phân tích biện chứng Hướng dẫn quan sát Giáo viên Học sinh VTQ 2 VTQ 1 VTQ 3 VTQ n Khái niệm Dấu hiệu chung Dấu hiệu riêng Vận dụng khái niệm VD: Khi hình thành khái niệm động cơ bốn kì, động cơ hai kì cho học sinh. Mục đích: Giúp học sinh hiểu rõ và phân biệt được hai loại động cơ này. Phương tiện trực quan được sử dụng: + Mô hình động cơ bốn kì. + Mô hình động cơ hai kì. GV: Các em hãy quan sát và cho biết mô hình của hai loại động cơ này, về hình dạng và kết cấu có gì khác nhau? HS: Động cơ bốn kì có hai cửa (một cửa nạp và một cửa thải) còn động cơ hai kì có ba cửa (một cửa quét, một cửa nạp và một cửa thải). GV: Từ mô hình hai loại động cơ các em thử phán đoán xem khi trục khuỷu quay một vòng pittông sẽ chuyển động như thế nào trong xilanh? Lúc này học sinh sẽ cảm thấy lúng túng trước câu hỏi của giáo viên, để giúp học sinh biết được pittông chuyển động như thế nào giáo viên sẽ quay cho động cơ chuyển động để học sinh quan sát. GV: Khi quan sát hoạt động của hai loại động cơ này các em có những nhận xét gì? HS: Khi quan sát ta thấy: - Động cơ bốn kì có hai lần pittông đi lên và hai lần pittông đi xuống. - Động cơ hai kì có một lần pittông đi lên và một lần pittông đi xuống. GV: Từ những quan sát trên các em hãy nêu khái niệm về động cơ hai kì và động cơ bốn kì. HS: Động cơ hai kì là động cơ có chu trình làm việc thực hiện trong hai hành trình của pittông. Động cơ bốn kì là động cơ có chu trình hoạt động thực hiện trong bốn hành trình của pittông. Việc học tập của học sinh đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Nhờ có sự hướng dẫn của giáo viên mà học sinh phát huy được năng lực, khả năng trừu tượng hoá các quan hệ thực tế giữa các sự vật hiện tượng. Quá trình trừu tượng hoá luôn song song với quá trình khái quát hoá và hình thành khái niệm. b. Sử dụng phương tiện trực quan trong dạy về cấu tạo của vật phẩm kĩ thuật. Cấu tạo của các đối tượng kĩ thuật là trình bày hình dạng, kết cấu, chất liệu hợp thành hay nói một cách khác là nêu lên trạng thái tĩnh của nó. Trình bày cấu tạo của các đối tượng kĩ thuật thì trước hết giáo viên phải biết vạch ra các bộ phận ( chi tiết, cơ cấu, hệ thống) và mối liên hệ giữa chúng trong một đối tượng cụ thể. Tiến trình giảng dạy cấu tạo như sau: + Giới thiệu khái quát phương tiện trực quan( tên gọi, vị trí, công dụng). + Hướng dẫn học sinh quan sát,liệt kê các dấu hiệu của từng bộ phận, nhấn mạnh các bộ phận có liên quan bản chất kĩ thuật với nhau. + Miêu tả từng bộ phận : tên gọi, hình dáng, vật liệu chế tạo, chú ý nơi xảy ra hiện tượng chủ yếu. + Chỉ rõ mối liên hệ lắp ghép giữa các bộ phận. + Củng cố lại bài. VD: Khi dạy về cấu tạo của động cơ Điêden 4 kì. Mục đích: Học sinh phải nắm vững cấu tạo của động cơ bốn kì và nhận biết được chúng trong thực tế. Phương tiện trực quan sử dụng: Mô hình động cơ 4 kì (sử dụng ở mức độ tìm tòi bộ phận). Trước tiên giáo viên giới thiệu khái quát về động cơ Điêden 4 kì, kể tên từng cơ cấu, hệ thống, giới thiệu sơ qua về các bộ phận này. Giáo viên cho học sinh quan sát trên mô hình trực quan để học sinh tìm hiểu xem có đúng như lời giảng của giáo viên không. Sau khi cho học sinh tự tìm hiểu thì giáo viên đưa ra các câu hỏi giúp học sinh hiểu bài hơn. GV: Nhìn vào mô hình các em hãy kể tên các bộ phận của động cơ 4 kì? HS: Trên mô hình động cơ có các bộ phận: Pittông, xilanh, thanh truyền. GV: Ngoài những bộ phận trên động cơ 4 kì còn những bộ phận nào? HS: Trục khuỷu, bánh đà, xupap xả, xupap nạp, con đội, bơm cao áp, vòi phun, nắp xilanh, trục cam, cần bẩy. GV: Trong động cơ pittông nằm ở đâu? Nó được nối với bộ phận nào? HS : Pittông nằm trong xilanh, nó được nối với thanh truyền. GV: Pittông chuyển động như thế nào trong xilanh? HS: Pittông chuyển động tịnh tiến trong xilanh và truyền chuyển động đến trục khuỷu thông qua thanh truyền. GV: Bánh đà nằm ở đâu? Nó có nhiệm vụ gì? HS: Bánh đà nối với đầu trục khuỷu và điều hoà mô men của trục khuỷu. GV: Nắp xilanh dùng để làm gì? HS: Nắp xilanh dùng để đậy kín xilanh. GV: Hai xupap nằm ở vị trí nào? Nó có nhiệm vụ gì? HS: Hai xupap được đặt ở

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3.doc
Tài liệu liên quan