MỤC LỤC
Lời mở đầu Trang
Chương1. Lý luận chung về văn hóa kinh doanh 4
1. Khái niệm và đặc điểm của văn hóa kinh doanh 4
a. Thế nào là văn hóa? 4
b, Văn hóa kinh doanh và đặc điểm 5
2. Vai trò của văn hóa kinh doanh trong đời sống xã hội 7
3. Sự khác biệt về văn hóa kinh doanh của các châu lục 12
a. Nhân tố văn hóa trong kinh doanh ở phương Đông 12
b. Nhân tố văn hóa trong sản xuất kinh doanh ở phương Tây 16
Chương II. Thực trạng xây dựng và phát triển văn hóa kinh
doanh ở Việt Nam trong những năm qua 20
1.Sự ra đời và phát triển văn hóa kinh doanh ở Việt Nam 20
2. Điều kiện để xây dựng và phát triển văn hóa kinh doanh ở Việt 24
Nam
3. Tình hình sử dụng văn hóa kinh doanh trong hoạt động kinh 28
doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam 36
4. Văn hóa kinh doanh của Việt Nam trong quá trình hội nhập
Chương III. Các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa 51
kinh doanh mang bản sắc dân tộc Việt Nam trong thời gian tới.
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về việc giữ gìn và phát huy 51
bản sắc dân tộc
2. Định hướng phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt 53
Nam đến năm 2005 54
3. Giải pháp 54
a. Các giải pháp từ phía Nhà nước. 61
b. Các giải pháp từ phía doanh nghiệp. 65
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
71 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1133 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Văn hóa kinh doanh trên thế giới và vấn đề xây dựng văn hóa kinh doanh ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huyên chế. Quyền vương hữu không cho phép bất kỳ ai “giàu vượt phận”. Tục ngữ Việt Nam khẳng định “không ai giàu ba họ, không ai khó ba đời”. Sự khủng hoảng triền miên của chế độ chuyên chế ở Việt Nam các thế kỷ 18- 19 dẫn tới hiện tượng dân lưu tán, tới “thế kỷ khởi nghĩa nông dân”, nhưng chưa hề thấy trong bất cứ một cuộc khởi nghĩa nông dân nào ở Việt Nam xác lập nổi một cương lĩnh kinh tế, cương lĩnh chính trị xã hội mới về chất. Chủ nghĩa thực dân dĩ nhiên không phải là đáp án lịch sử cho con đường phát triển, tiến hóa của làng tiểu nông nhưng những gì mà chủ nghĩa thực dân đã làm đối với làng tiểu nông cũng cần được rút kinh nghiệm nghiêm túc. Vào những năm 60 ta từng hướng tới một cuộc cách mạng công nghiệp hóa nông thôn và những bước đi đầu tiên là hợp tác hóa. Quan niệm về công nghiệp hóa như một sự phát triển thu nhỏ, rút gọn mô hình và các bước tiến hành của lịch sử công nghiệp hóa thế giới đã thất bại, trong đó có bình diện liên quan đến nông thôn. Các hình dung về ngả đường hiện đại hóa của các nước trên thế giới hiện nay hết sức đa dạng. Dựa trên cơ sở những tiền đề cụ thể của nông thôn nước ta hiện nay, sự lựa chọn tối ưu mang tính khả thi là hiện đại hóa tại chỗ, đô thị hóa tại chỗ. Kinh nghiệm thành công và thất bại nữa của việc hiện đại hóa nông thôn Trung Quốc đáng để tham khảo: các đợt phát động phong trào triền miên hao người, tốn của với kết quả thảm hại như toàn dân làm gang thép, mô phỏng công xã đại trà, toàn dân diệt chim sẻ... những năm 50- 70 thế kỷ trước lẫn chủ trương phát triển công nghiệp hương trấn vài thập niên gần đây, tạo ra vô khối phế phẩm kể cả phế phẩm tân kỳ như xe máy, đầu video, tivi mà ta đang phải tự biến mình thành bãi rác công nghiệp cho họ, là những bài học phản diện thấm thía. Đưa tri thức và nghề nghiệp hiện đại về nông thôn là hướng giải quyết tích cực. Tuy nhiên, muốn vậy cần có sự thay đổi,
thay đổi về quan niệm và mục tiêu giáo dục- cũng có nghĩa xây dựng tinh thần văn hóa kinh doanh mới cho mỗi người dân, mỗi làng xã, và cả một cộng đồng.
Lý thuyết phát triển cộng đồng xác định mục tiêu cuối cùng của một chương trình phát triển cộng đồng là đi từ tình trạng kém phát triển không tự mình giải quyết các vấn đề của riêng mình tiến tới tự lực giải quyết tốt các yêu cầu để phát triển cho mình:
Cộng đồng còn yếu kém Æ Cộng đồng thức tỉnh (tự tìm hiểu và phân tích, phát huy tiềm năng) Æ Cộng đồng đã gia tăng năng lực (phát huy tiềm năng, huấn luyện, hình thành các nhóm liên kết) Æ Cộng đồng tự lực (hình thành các nhóm liên kết, Tăng cường năng lực tự quản) [4. Nguồn: Nguyễn Thị Oanh: Phát triển cộng đồng- ĐH Mở Bán công TP.HCM, 1995, tr26].
3. Tình hình sử dụng văn hóa kinh doanh trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Việt Nam
* Thực trạng
Phát biểu tại cuộc gặp hàng năm giữa Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp (TP HCM ngày 24-25/3/2003), Thủ tướng Phan Văn Khải đặc biệt nhấn mạnh tới 4 vấn đề để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp từ những sự kiện kinh tế đang vẫn còn nóng tính thời sự. Một trong 4 vấn đề đó chính là phải đề cao văn hóa kinh doanh.
Vậy tình hình sử dụng văn hóa kinh doanh của ta trong thời gian qua thế nào? Xin thưa, chúng ta đang thiếu văn hóa trong kinh doanh: gian lận thương mại, làm hàng giả, trốn thuế, gian lận sổ sách, đầu cơ, chụp giật, lừa đảo, phô trương, lãng phí... Năm 2002 được coi là năm ghi dấu ấn
quan trọng trong lịch sử phát triển ngành thủy sản nước ta với kỳ tích xuất khẩu 2,003 tỷ USD hàng thủy sản. Thế nhưng chính tại hội nghị mừng công của toàn ngành, Thứ trưởng Nguyễn Thị Hồng Minh rất không vui khi báo tin rằng các nước thuộc thị trường EU đã gửi thông báo gần đây lại phát hiện dư lượng kháng sinh trong các lô hàng của Việt Nam. Hậu quả của việc này là EU tuyên bố không xét bổ sung 32 doanh nghiệp Việt Nam được xuất khẩu thủy sản vào EU đồng thời cảnh báo sẽ áp dụng trở lại chế độ kiểm tra 100% lô hàng thủy sản Việt Nam nếu tình hình không được cải thiện... Nó cho thấy phải đề cao văn hóa trong kinh doanh là yêu cầu hết sức cấp bách, có ý nghĩa sống còn không chỉ với một doanh nghiệp. Thủ tướng Phan Văn Khải cho rằng: “Đối với doanh nghiệp và doanh nhân, lợi nhuận là động lực trực tiếp, song người kinh doanh có văn hóa luôn đặt lợi ích của mình trong sự kết hợp hài hòa với lợi ích của cộng đồng, của đất nước. Điều đó vừa bắt nguồn từ lòng yêu nước, từ ý thức cộng đồng, vừa xuất phát từ nhận thức về sự thống nhất giữa ba lợi ích này. Với tinh thần đó, doanh nghiệp phải xây dựng nền nếp kinh doanh minh bạch và trung thực, thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật”. Lại nhìn xa hơn, văn hóa kinh doanh phải được tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, sẽ có những sản phẩm trở thành truyền thống gắn với những thương hiệu uy tín. Đáng mừng là chúng ta đã có những thương hiệu uy tín: Vinamilk, Vinataba, May 10, Biti’s, Vietel, Việt Tiến... Văn hóa kinh doanh được thể hiện ở chữ TÍN.
Hiện nay chúng ta đã bước sang năm thứ 11 thực hiện Hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU (Hiệp định đầu tiên ký ngày 15/12/1992 và có hiệu lực từ 01/01/1993). Từ năm 2002 chúng ta lại có thêm Hiệp định thương mại với Hoa Kỳ với ưu đãi tối huệ quốc cho hàng xuất khẩu của Việt Nam. Nhờ vậy kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam năm 2002 tăng gấp 10 lần năm 1993. Với việc mở thêm thị trường Mỹ
đầy tiềm năng, triển vọng ngành dệt may xuất khẩu sẽ sáng sủa, tuy vậy không phải không còn nhiều khó khăn. Các doanh nghiệp và các bộ, ngành liên quan sẵn sàng chủ động đón nhận mọi thách thức trong quá trình hội nhập và quyết tâm đạt mục tiêu xuất khẩu 3,5- 4 tỷ USD hàng dệt may vào năm 2005. Để có thể thành công trên thị trường thế giới, đẩy mạnh xuất khẩu, theo ông Lê Quốc Ân- Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam- mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho riêng mình một chiến lược xuất khẩu phù hợp, trong đó cần cụ thể hóa khách hàng, nâng cao đẳng cấp, chất lượng và tăng khả năng đáp ứng nhanh. Hiệp hội đã khuyến cáo 6 chương trình hành động trọng điểm đến các doanh nghiệp trong thời gian tới, trong đó chú trọng hạ giá thành sản phẩm; xây dựng nhãn hiệu và thương hiệu có đẳng cấp, uy tín; áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là ISO 9001/14000, SA 8000, OHSAS 18000; đào tạo lực lượng chuyên gia tiếp thị xuất khẩu có chất lượng cao. Và cũng không thể không nhắc lại, phải giữ bằng được chữ Tín mới mong làm ăn với người phương Tây một cách lâu dài.
*Thiếu văn hóa trong kinh doanh:
Những tháng cuối năm 2002, Bộ Thương mại cảnh báo về việc thiếu gạo để xuất khẩu, một số mặt hàng khác thuộc loại chủ lực cũng lâm vào tình trạng thiếu hàng. Theo các chuyên gia phân tích, thiếu hàng xuất khẩu bởi một phần do bệnh thành tích nâng “sản lượng ma”. Hà Nội là nơi có nhiều làng nghề truyền thống, bởi vậy xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ chiếm vai trò quan trọng. Tuy nhiên mặt hàng này đang gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ các nước trong khu vực. Nhìn chung, chất lượng hàng của ta chưa cao, kiểu dáng mẫu mã chưa phong phú, đa dạng. Hàng của ta không “thực dụng” như hàng nước khác, xuất khẩu chủ yếu ở dạng “thô”, bao bì không hấp dẫn. Nhiều doanh nghiệp chưa có kinh nghiệm tham gia hội chợ triển lãm nước ngoài nên gây lãng phí, không hiệu quả.
Doanh nghiệp còn nhỏ nên khả năng tài chính, vốn và công nghệ còn hạn chế, không có điều kiện bồi dưỡng đội ngũ thợ, nghệ nhân. Sản xuất nhỏ lẻ, phân tán và hiện tượng “tranh mua tranh bán” dẫn đến phá giá. Bên cạnh đó, mặt bằng sản xuất, hạ tầng cơ sở thấp kém và tình trạng ô nhiễm môi trường cũng ảnh hưởng đến sản xuất của doanh nghiệp.
*Chất và lượng chưa tương xứng:
Mặc dù mỗi năm Việt Nam dành hơn 450 tỷ đồng cho hoạt động xúc tiến thương mại nhưng nhiều doanh nghiệp và cả một số cơ quan chuyên môn trong lĩnh vực này đều thừa nhận, xúc tiến thương mại chưa phát huy được vai trò hỗ trợ doanh nghiệp tìm hiểu thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm- dịch vụ...
Đông nhưng không tinh: Trước năm 1990, chỉ vài doanh nghiệp nhà nước được phép tổ chức và kinh doanh Hội chợ triển lãm và hoạt động quảng cáo, hiện con số này lên tới hàng trăm. Hơn 30 tỉnh, thành đã có trung tâm xúc tiến thương mại, đặc biệt tại Hà Nội, TP.HCM, Đà Nẵng. Chi phí quảng cáo doanh nghiệp không ngừng tăng: trước những năm “đổi mới” không đáng kể, năm 2000 đạt khoảng 108 triệu USD. Nhưng sự yếu kém và thiếu kinh nghiệm là hạn chế nổi bật của xúc tiến thương mại hiện nay. Phần lớn doanh nghiệp đang hoạt động là vừa và nhỏ nên thiếu về nhân lực và tài chính. Hoạt động xúc tiến thương mại hầu như chỉ đơn thuần là duy trì, tìm kiếm và mở rộng thị trường để bán mặt hàng sẵn có chứ chưa phải thị trường cần với giá cả dễ chấp nhận, đặc biệt là hoạt động nghiên cứu thị trường và lợi thế cạnh tranh để tạo sản phẩm độc đáo. Một thói quen giải pháp tình thế, không có kế hoạch nhìn xa trông rộng đã ăn sâu trong tiềm thức người dân và nó thể hiện ngay cả trong hoạt động xúc tiến thương mại. Đang có hiện tượng lạm phát hội chợ, không ít hội chợ, triển lãm như cái chợ tạm để bán hàng lẻ, và thậm
chí hàng tồn kho. Hầu hết các trung tâm xúc tiến thương mại mới làm nhiệm vụ mời doanh nghiệp tham gia hội chợ, quảng cáo... chứ chưa nắm được phản ứng của người tiêu dùng và phản hồi của cho doanh nghiệp thông tin về thị trường. Cần có một giải pháp đồng bộ cho xúc tiến thương mại. Riêng trong lĩnh vực quảng cáo thương mại, Bộ Văn hóa thông tin cần hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện Pháp lệnh Quảng cáo, thúc đẩy Hiệp hội Quảng cáo phát triển. Các cơ quan quản lý Nhà nước về xúc tiến thương mại tăng cường giám sát việc thực hiện theo pháp luật của các tổ chức khuyến mãi, làm được điều này phải phát huy nguồn lực, vai trò của các tổ chức xã hội nghề nghiệp, trong đó có Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng, các doanh nghiệp và bản thân khách hàng được coi là yếu tố quan trọng nhất.
Điều kiện để phát triển văn hóa kinh doanh ở Việt Nam
*Biết nhận thức về cái mạnh và khắc phục cái yêu của người Việt Nam: Dân tộc nào phát triển đến một trình độ nhất định cũng đều có tính cách riêng, dễ nhận và phân biệt. Đó là tổng thể những đặc tính, đức tính ít nhiều cố định, đôi ba nét nổi trội, ít thay đổi. Khi nói tới người Việt Nam thông minh thì có nghĩa là có thể suy ra: bất cứ ai là người VN đều thông minh ở mức độ ít nhiều, từ người dân bình thường đến danh nhân, vĩ nhân. Phó Thủ tướng Vũ Khoan từng nhận xét về người Việt Nam- người mình như sau:
- Cái mạnh: thông minh, nhạy bén với cái mới, cần cù sáng tạo, rất
đoàn kết đùm bọc nhau trong thời kỳ chống ngoại xâm.
- Cái yếu: thiếu sót kiến thức cơ bản, kém khả năng thực hành, thiếu đức tính tỉ mỉ, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ, thiếu tính cộng đồng trong làm ăn.
*Tận dụng và phát huy văn hóa kinh doanh: chữ tín phải hàng đầu và xây dựng môi trường pháp lý hiệu quả
Theo thống kê của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO), Nhật là một trong những nước đứng đầu danh sách các nước nhập khẩu hàng Việt Nam. Năm 2001, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật đạt 2,51 tỷ USD, chiếm tỷ lệ cao nhất là hàng dệt may 24 %, hàng thủy sản
19%, dầu thô 15%, giày da 3%... Hàng của ta xuất khẩu sang Nhật đang có nhiều triển vọng bởi hiện nay ở Nhật, hình ảnh về Việt Nam được nhắc đến thường xuyên trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những cửa hàng bán hàng hóa và món ăn Việt Nam mở ra khá nhiều. Người Nhật rất thích các sản phẩm thủ công của Việt Nam như đồ gốm, hàng thêu, đồ gỗ gia dụng, hàng mây tre lá và thích đi du lịch Việt Nam. Tuy nhiên hiện nay hàng hóa Việt Nam trên thị trường Nhật bị cạnh tranh bởi hàng từ Trung Quốc và các nước châu Á khác. Nguyên nhân hạn chế khả năng xuất khẩu hàng Việt Nam sang Nhật có nhiều vấn đề. Nhưng một trong những nguyên nhân chính đó là lượng hàng đúng tiêu chuẩn như hợp đồng không đạt được 100% khiến khách hàng mất lòng tin. Ví dụ, một công ty sản xuất đồ gỗ nhận đơn hàng 1000 khay trà, nhưng khi giao hàng chỉ có 980 khay đạt yêu cầu. Khách hàng đòi công ty trên bù đổi số hàng không đạt và chịu những chi phí phát sinh nhưng không được nên quan hệ giữa 2 công ty này bị phá vỡ. Có trường hợp, doanh nghiệp Việt Nam không lượng sức, nhận đơn đặt hàng vượt quá năng lực sản xuất nên không bảo đảm được thời hạn giao hàng và chất lượng sản phẩm. Các công ty Nhật, khi nhập hàng kiểm tra rất kỹ, chất lượng không đồng nhất, không bảo đảm đúng tiêu chuẩn đã thỏa thuận sẽ không được chấp nhận. Mặt khác, xu hướng tiêu dùng và thời trang Nhật thay đổi rất nhanh, đòi hỏi các nhà sản xuất phải luôn sáng tạo những mẫu mã mới. Khi một khách hàng Nhật đặt quan hệ làm ăn với doanh nghiệp Việt Nam, đơn hàng đầu tiên họ thường đặt số lượng nhỏ
nhưng nhiều mẫu mã và yêu cầu thời gian giao hàng ngắn. Trong khi đó một số mặt hàng của Việt Nam vẫn còn phụ thuộc vào nguyên liệu nhập khẩu, khiến việc sản xuất đôi khi bị động. Đối với hàng thủy sản, người Nhật đặc biệt nhạy cảm với những vật lạ bị lẫn trong sản phẩm, mà điều này đã từng xảy ra với mặt hàng của vài doanh nghiệp Việt Nam.
Các nhà nhập khẩu Nhật rất thận trọng khi ký hợp đồng, do đó doanh nghiệp Việt Nam cần tạo sự tin cậy ngay từ những hợp đồng đầu tiên, và nỗ lực củng cố uy tín của mình nhằm thiết lập được quan hệ thương mại lâu bền: chú trọng chất lượng, tuân thủ tuyệt đối hợp đồng, tích cực tham gia các hội chợ thương mại.
Một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam là may mặc. Xuất khẩu may mặc năm 2002 đạt 2,75 tỷ USD một phần cũng nhờ thị trường Mỹ rộng lớn (trên 900 triệu USD). Sang năm 2003, EU quyết định tăng hạn ngạch hàng dệt may cho Việt Nam nhưng ngược lại, các nhà sản xuất Hoa Kỳ đang hối thúc Chính phủ áp dụng chế độ hạn ngạch với các sản phẩm dệt may Việt Nam, vậy con số xuất khẩu 1,7 tỷ USD (đã ký) trong năm 2003 thực hiện như thế nào? Theo nhận xét của đại diện thương mại châu Âu, thì cho dù thời gian qua Việt Nam đã đẩy mạnh công tác tiếp thị, nhưng nếu so với các nước khác thì vấn đề quảng bá hình ảnh của Việt Nam trên thị trường quốc tế vẫn còn quá khiêm tốn. Bằng chứng là, khi nói đến Việt Nam người ta thường nghĩ đến quá khứ của lịch sử hơn là những cải cách và thành tựu kinh tế Việt Nam hiện nay. Bên cạnh đó, sự mất lòng tin của các đối tác về việc giao hàng chậm của các doanh nghiệp Việt Nam phần nào cũng làm ảnh hưởng đến uy tín dệt may Việt Nam.
Chúng ta tiếp tục xem xét một mặt hàng xuất khẩu quan trọng khác của
Việt Nam: giày dép. Đến nay, hàng giày dép của Việt Nam có mặt ở gần
40 nước và khu vực trên thế giới, nhiều thị trường nhập khẩu đang có chiều hướng tăng từ năm 2002: Hà Lan tăng 32%, Anh 21,3%, Pháp
20%, Đức 18,6%, Italia 18%. Có kết quả khả quan này bởi cơ chế, chính sách của Nhà nước khuyến khích xuất khẩu dần đi vào cuộc sống và phát huy có tác dụng. Bên cạnh đó phải kể đến giá nhân công rẻ, nên giá thành hạ, điều này rất thuận lợi khi các doanh nghiệp tham gia cạnh tranh. Tuy nhiên, khi phân tích sâu thì hàng giày dép của Việt Nam vẫn chưa thực sự an tâm khi “đá” ở thị trường quốc tế. Ví như về thị trường, nếu EU không khống chế hạn ngạch với Trung Quốc thì điều gì sẽ xảy ra, chuyện doanh nghiệp Việt Nam phải nhường thị phần cho doanh nghiệp Trung Quốc là điều không có gì phải bàn cãi. Đơn cử ở thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam và Trung Quốc đều bình đẳng, thực tế cho thấy doanh nghiệp Việt Nam đã không thể đẩy nhanh tốc độ thâm nhập thị trường này. Các doanh nghiệp xuất khẩu của ta còn nhiều hạn chế như quy mô nhỏ, phân tán, khâu sản xuất nguyên phụ liệu còn yếu, giá thành cao, doanh nghiệp chủ yếu phải nhập khẩu nguyên liệu nên không chủ động trong tổ chức sản xuất. Hiện các doanh nghiệp chủ yếu là gia công nên hiệu quả kinh tế không cao. Ngoài ra còn phải kể đến yếu tố khách quan là sự biến động bất thường của đồng USD và đồng EURO, kinh tế các nước nhập khẩu lớn vẫn chưa thực sự hồi phục. Để giày dép thực sự là mặt hàng xuất khẩu lớn mạnh của Việt Nam thì các doanh nghiệp cần tăng cường nâng cao chất lượng, đặc biệt là chú trọng yếu tố văn hóa kinh doanh ở việc đảm bảo uy tín sản phẩm, đa dạng hóa, giảm thiểu các chi phí không đáng có, đầu tư nâng cấp trang thiết bị để giảm giá. Doanh nghiệp cần nghiêm túc thực hiện Hiệp định chống gian lận thương mại mà Việt Nam đã ký với EU. Chúng ta phải tăng cường khai thác, mở rộng thị trường mới, đặc biệt là thị trường Mỹ; phát huy tối đa
vai trò cộng đồng người Việt ở nước ngoài (phải khắc phục tinh thần thiếu đoàn kết, xé lẻ, vun vén lợi ích riêng thay vào đó là xây dựng tinh thần hỗ trợ, gắn kết, cung cấp thông tin và hợp tác cùng vì lợi ích của quốc gia, quê hương). Mặt khác, chúng ta cần khuyến khích, thu hút đầu tư cho sản xuất nguyên phụ liệu đầu vào; nhanh chóng chuyển từ hình thức gia công như hiện nay sang mua đứt bán đoạn; tạo cho được tính thống nhất kể từ nguyên liệu, sản xuất, tiêu dùng, nhằm tạo thương hiệu tốt cho sản phẩm giày dép Việt Nam.
Tóm lại, để tạo điều kiện cho một môi trường văn hóa kinh doanh hiệu quả, điều quan trọng vẫn là nhận thức của con người, muốn nhận thức tốt lại cần một phương pháp giáo dục tốt, mà muốn có nền tảng giáo dục tốt, lại phục thuộc vào chính tư duy của con người. Đó là một vòng tròn khép kín mà muốn thực hiện được phải tuân thủ và vận hành theo quỹ đạo có trật tự đó.
4. Văn hóa kinh doanh của Việt Nam trong quá trình hội nhập
a. Toàn cầu hóa và tác động của toàn cầu hóa: Chính sách toàn cầu hóa tự do mậu dịch cho phép những nước chưa phát triển, hoặc đang phát triển, có thể mua, nhập, thuê, tất những kỹ thuật, thiết bị cần thiết, thậm chí cả những chuyên gia, kỹ sư, kiến trúc sư của những nước phát triển để xây dựng trên đất nước mình những công trình hiện đại hóa.
Thực chất toàn cầu hóa là gì? Có một phát biểu như sau: Toàn cầu hóa, là tự do đầu tư vào bất cứ lúc nào và ở bất cứ nơi nào, là sản xuất những mặt hàng mà chúng ta muốn; là mua và bán ở bất cứ đâu mà thuế má, luật lệ lao động và xã hội càng ít càng tốt. Toàn cầu hóa còn
bao hàm sự nổi lên của những xã hội tiêu thụ đánh đồng khi mà những công ty đa quốc gia quảng bá khắp thế giới cùng một thứ sản phẩm, công nghệ và phong cách quản trị. Chỉ có một điểm khác, cũng chính là văn hóa kinh doanh mỗi dân tộc: người dân mỗi nơi sử dụng sự giàu có của mình khác nhau. Năm 2003 chính là năm thực hiện AFTA. 775 mặt hàng [bao gồm khoảng 600 mặt hàng thuộc lĩnh vực công nghiệp] sẽ phải cắt giảm thuế nhập khẩu, trong đó 80% là dưới 5%. Những lĩnh vực đầy khó khăn cho các doanh nghiệp đã được các chuyên gia cảnh báo: đó là giấy, xi măng, sắt thép, hàng điện tử, xe máy, ô tô... Chuyện hội nhập đã rõ nhưng quan trọng hơn là tiếp cận nó như thế nào? Vẻ như các doanh nghiệp của ta quá thờ ơ với chuyện hội nhập. Các doanh nghiệp lớn thì quen sống trong sự bảo hộ, bao cấp của Nhà nước, lỗ thì xin bù lỗ, hàng bán chậm thì xin đưa vào dự trữ, đánh thuế phụ thu hàng nhập khẩu... còn doanh nghiệp nhỏ thì còn quá nhiều việc để lo, từ chuyện đất đai- nhà xưởng đến vay vốn, giảm thuế... nên chưa thể nghĩ đến chiến lược để hội nhập. Vì thế nên khi thời điểm hội nhập đến, nhiều doanh nghiệp vẫn chưa thể mường tượng được những thách thức mà họ phải đối mặt khi thực hiện các cam kết mở cửa thị trường và giảm thuế nhập khẩu. Nếu nhìn đến các doanh nghiệp liên doanh sẽ thấy họ đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng cho việc hội nhập. Ngay khi vào liên doanh để sản xuất các mặt hàng điện tử dân dụng, các doanh nghiệp của Nhật Bản đã “đọc” được chuyện hội nhập, bởi thế liên doanh của Nhật như Sony, JVC... chỉ tính toán đầu tư trong vòng 10- 15 năm để lợi dụng chính sách bảo hộ của Chính phủ đối với các ngành này. Khi Việt Nam thực hiện AFTA cũng là thời điểm các liên doanh này hết thời hạn hoạt động và các mặt hàng điện tử của Nhật sẽ không phải cạnh tranh với các “anh em” của mình từ các nước khác nữa. Nguyên nhân của tình trạng này do yếu kém trong khả năng khai thác thông tin về hội nhập như thị trường quốc tế, đối tác, tiêu chuẩn hàng hóa dẫn đến thiếu một chiến lược về hội
nhập. Để tham gia dự vào cuộc chơi AFTA, các doanh nghiệp Việt Nam cần xây dựng chiến lược hội nhập như tăng cường thương mại điện tử, kinh doanh điện tử, nâng cao giá trị thương hiệu.
Nhìn lại năm 2002, nhiều ngành sản xuất dịch vụ tăng nhanh, xuất khẩu hải sản vượt 2 tỷ USD, sản lượng nông nghiệp ổn định ở mức cao... góp phần làm kinh tế tăng trưởng khoảng 7%- vào loại cao nhất thế giới [5. theo bài viết Vào sân phải chấp nhận cuộc chơi của Phạm Duy Hiển, tạp chí Tia sáng số Xuân Quý Mùi 2003]. Khi so sánh quá trình phát triển kinh tế của các nước trong một giai đoạn dài người ta thấy rằng nước nào có trình độ ban đầu càng thấp, càng tăng trưởng nhanh, sau đó tốc độ sẽ giảm dần. Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam... đang tăng 5-8% hàng năm trong khi đó Bắc Mỹ, Nhật và Tây Âu không vượt quá 1- 2%. Quy luật trên đây gọi là giả thuyết đuổi theo. Như thế tốc độ tăng trưởng của ta sẽ giảm dần khi kinh tế khấm khá hơn- đây là quy luật phát triển lành mạnh. Nhưng cái đáng sợ là một khi những nhân tố tiêu cực trong xã hội không được ngăn chặn kịp thời trong đó yếu tố xây dựng văn hóa kinh doanh đóng vai trò quyết định, chúng sẽ bột phát làm kìm hãm tăng trưởng hoặc dẫn đến khủng hoảng.
Hội nhập cũng có nghĩa là phải thâm nhập vào các thị trường khu vực và thế giới, dù muốn hay không. Muốn kinh doanh mang yếu tố nước ngoài, trước hết phải hiểu đối tác là ai.
*ASEAN:
Đông Nam Á là một trong những vùng đất với nhiều sắc dân và nhiều nền văn minh phong phú nhất và cổ nhất của nhân loại. Người Trung Quốc không phải là người sáng chế ra kỹ thuật trồng lúa, mà chính là
một số dân thuộc vùng Đông Nam Á đã là những nhà canh nông chuyên nghiệp đầu tiên của nhân loại. Trong lĩnh vực kỹ nghệ chế biến, sản xuất, người Đông Nam Á, đặc biệt người Việt Nam, đã phát triển kỹ thuật làm đồ đồng, đồ thiếc và đồ gốm khá cao. Về đồ gốm, người Việt Nam đã sản xuất nhiều sản phẩm nghệ thuật công phú và thanh tú, được bán trong khắp vùng Đông Nam Á. Thị trường xuất khẩu này đã hình thành trước sự ảnh hưởng của ấn Độ [5. theo bài Đặt lại vấn đề nguồn gốc dân tộc và văn minh Việt Nam của Nguyễn Văn, tạp chí Tia sáng tháng 4/2002].
ASEAN đang tìm hướng đi riêng để tự khẳng định mình trên bản đồ kinh tế- chính trị- văn hóa thế giới: Mới đây, Malaysia đã quyết định phong tỏa các cơ sở sản xuất nước giải khát Coca- Cola của Mỹ và tiến tới phong tỏa tiếp hoạt động của các nhà hàng McDonald’s. Đây được coi là một hành động dũng cảm của Malaysia. Phản ứng mạnh của Malaysia phản ánh tình hình chung của các nước Đông Nam Á đang trưởng thành, tỏ thái độ đối mặt với các thách thức kinh tế. Đông Nam Á đã chứng tỏ rằng các nước này không còn muốn phụ thuộc quá nhiều vào Mỹ do nền kinh tế này còn nhiều bấp bênh. Họ cũng muốn giữ khoảng cách với Nhật vì nền kinh tế Nhật vẫn tiếp tục ốm yếu. Và cuối cùng, họ muốn tìm một hướng đi riêng để đối mặt với một nền kinh tế Trung Quốc khổng lồ. Thái Lan quyết tâm theo đuổi chính sách độc lập của Đảng “Thái rak Thái” (Thái Lan của người Thái). Indonesia thì tìm cách quan hệ kinh tế chặt chẽ với Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc trước ảnh hưởng ngày càng lớn của giới đầu tư Mỹ. Đông Nam Á biết rằng trong Tổ chức thương mại thế giới (WTO), hai mặt hàng của họ là đường và thuốc tây đang bị Mỹ gây khó dễ trong xuất khẩu vì Mỹ quy định mức thuế rất cao. Đông Nam á biết rằng để ổn định tốc độ phát triển kinh tế ở mức
cao thì không thể chỉ dựa vào xuất khẩu vì hàng hóa của các bạn hàng mới như Trung Quốc, Ấn Độ có sức cạnh tranh rất mạnh. Vì vậy, Đông Nam Á chỉ khuyến khích giới đầu tư quốc tế có trình độ công nghệ mới và muốn tự mình tìm hướng đi riêng để phát triển. Chính tình cảm không ưa gì Mỹ đã khuyến khích khu vực này tập hợp trong một tổ chức kinh tế mạnh gồm 10 quốc gia- ASEAN. Hiện nay ASEAN biết rõ là chưa thể tìm được tiếng nói chung, mỗi nước đều muốn thể hiện thế mạnh riêng. Mỗi quốc gia chủ trương kéo công nghệ tiên tiến của nước ngoài theo một cách. Nhật biết điều đó nên Nhật chỉ muốn ký kết hợp tác song phương. Trước đây, dưới con mắt của ASEAN, Nhật là tấm gương sáng nhất trong khu vực, nhưng nay thì mọi việc đã khác. ASEAN mất dần lòng tin vào khả năng hồi phục kinh tế và ngân hàng của chính phủ Nhật. Trung Quốc đang phát triển thành một cường quốc kinh tế thế giới- đây vừa là cơ hội vừa là thách thức đối với các nền kinh tế ASEAN do kinh tế Trung Quốc và ASEAN có nhiều nét tương đồng. Các chiến lược gia kinh tế cho rằng do tâm lý xa lánh Mỹ, không tin vào Nhật và ngại Trung Quốc, ASEAN cần tìm cho mình một hướng đi riêng, độc lập. Nhưng sự đoàn kết, hợp tác giữa 10 nước thành viên là điều quan trọng nhất. Khu vực vốn có nền kinh tế năng động này đang trong thời kỳ thai nghén cho những dự án mới để không chỉ phát triển, mà trước hết là để tồn tại trước sức cạnh tranh đến từ nhiều phía.
*EU: EU hiện là một trong những thị trường lớn và đầy tiềm năng của hàng xuất khẩu Việt Nam. Tuy nhiên cần phải hiểu rõ về “tính cách” của ông khách đặc biệt này. Trong các hội thảo về thị trường may châu Âu, chúng ta rút ra được nhiều điều. Ví dụ các doanh nghiệp dệt may của EU chỉ sản xuất khi họ đã có đơn đặt hàng trong khi các doanh nghiệp dệt may Việt Nam lại sản xuất tràn lan rồi tìm thị trường tiêu thụ, đây là kiểu sản xuất kinh doanh có độ rủi ro cao. Do mức sống của người dân E
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 8390.doc