Khóa luận Vụ tranh chấp bán phá giá cá tra, cá basa và bài học kinh nghiệm đối với hàng xuất khẩu Việt Nam

MỤC LỤC

 Trang

Lời nói đầu 1

Chương I. Những lý luận cơ bản về bán phá giá và chống bán phá giá 3

I. Những lý luận cơ bản về bán phá giá 3

 1. Khái niệm về bán phá giá 5

 1.1. Giá xuất khẩu 7

 1.2. Giá trị thông thường 9

 2. Mục đích của việc bán phá giá 13

 3. Những mặt hàng thường được bán phá giá 14

II. Những lý luận cơ bản về chống bán phá giá 18

 1. Mục đích áp dụng biện pháp chống bán phá giá 18

 2. Điều kiện áp dụng các biện pháp chống bán phá giá 19

 2.1. Có bán phá giá 19

 2.2. Mức độ thiệt hại 22

 2.3. Mối quan hệ nhân quả 26

 3. Các biện pháp chống bán phá giá 26

 3.1. Áp dụng các biện pháp tạm thời 26

 3.2. Cam kết về giá 27

 3.3. Quyết định đánh thuế và thu thuế chống bán phá giá 28

Chương II. Diễn biến vụ tranh chấp bán phá giá cá tra và cá basa sang thị trường Mỹ 31

I. Tình hình xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ 31

 1. Xuất khẩu thuỷ sản 31

 2. Xuất khẩu cá tra và cá basa 36

II. Quan điểm của Mỹ và Việt Nam về cá tra và cá basa 38

 1. Quan điểm của Mỹ về vấn đề nhập khẩu cá tra, basa của Việt Nam 38

 2. Quan điểm của Việt Nam về vấn đề xuất khẩu cá tra, basa sang Mỹ 43

III. Diễn biến vụ tranh chấp 44

 1. CFA khởi kiện các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam bán phá giá 44

 1.1. Đôi nét về CFA 44

 1.2. Những bước đi đầu tiên của CFA 45

 1.3. CFA khởi kiện các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam bán phá giá cá tra, basa sang Mỹ 47

 2. Quyết định điều tra của Mỹ 49

 3. Giải trình của Việt Nam liên quan đến vụ kiện 55

Chương III. Những bài học kinh nghiệm đối với hàng xuất khẩu Việt Nam 65

I. Tác động của việc áp dụng các biện pháp chống bán phá giá đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam 65

II. Những bài học kinh nghiệm đối với hàng xuất khẩu Việt Nam 69

 1. Bài học kinh nghiệm về việc phòng tránh việc bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá 69

 1.1. Tìm hiểu hệ thống pháp luật và quy định của nước nhập khẩu 70

 1.2. Giảm thiểu nguy cơ bị áp đặt các biện pháp chống bán phá giá 73

 1.2.1. Biện pháp áp dụng cho tương lai 73

 1.2.2. Giám sát khả năng bị áp đặt thuế chống bán phá giá đối với các giao dịch trước đây 75

 1.2.3. Giám sát rủi ro chung 76

 2. Những bài học kinh nghiệm trong trường hợp đối mặt với một vụ kiện bán phá giá 78

 2.1. Tìm hiểu hệ thống pháp luật của nước nhập khẩu 78

 2.2. Liên kết doanh nghiệp 80

 2.3. Liên kết với nhà nhập khẩu và người tiêu dùng nước nhập khẩu 83

 2.4. Phối hợp giữa doanh nghiệp và nhà nước 86

Kết luận 89

Danh mục tài liệu tham khảo 90

 

 

doc91 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1671 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Vụ tranh chấp bán phá giá cá tra, cá basa và bài học kinh nghiệm đối với hàng xuất khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng (theo quan điểm của phía Mỹ) đã đánh bật hoàn toàn sản phẩm catfish của Mỹ. Thế nhưng không chỉ có yếu tố giá rẻ là nguyên nhân khiến cho cá tra và cá basa ngày càng được tiêu thụ mạnh ở Mỹ, mà còn có một yếu tố nữa đã góp phần tạo nên được sự thành công của philê đông lạnh Việt Nam, đồng thời gây thiệt hại nghiêm trọng cho các nhà nuôi trồng catfish Mỹ, đó là do Việt Nam đã có sự thay đổi về chiến lược tiếp thị: Việt Nam thôi không gọi sản phẩm của mình bằng cái tên cá basa và cá tra nữa mà bắt đầu tiêu thụ sản phẩm trên thị trường Mỹ với nhãn hiệu “basacatfish”. Theo CFA đó chính là hoạt động kinh doanh không lành mạnh, phía Việt Nam đã lợi dụng nhãn hiệu mà người nuôi trồng catfish Mỹ đã mất nhiều năm, nhiều công sức và tiền của để xây dựng lên (chỉ tính riêng chi phí tiếp thị cho sản phẩm catfish Mỹ năm 2000 đã lên tới 4,5 triệu USD). Chính hai nhân tố này đã tác động đến ngành công nghiệp chế biến catfish Mỹ, khiến tổng giá trị catfish bán ra của họ giảm mạnh từ 446 triệu USD năm 2000 xuống còn 385 triệu USD năm 2001. Sản phẩm cá tra và cá basa rẻ tiền của Việt Nam không chỉ khiến tổng giá trị catfish bán ra giảm mà chúng còn gây ra tác động nghiêm trọng hơn nhiều. Các sản phẩm giá rẻ này tạo ra áp lực buộc các nhà chế biến catfish Mỹ giảm giá bán ra và do đó phải giảm giá mua vào đối với catfish tươi mua từ người nông dân. Và đến lượt người nuôi cá phải gánh chịu thiệt hại từ việc nhập khẩu cá tra và cá basa từ Việt Nam. Để đối phó với việc giảm giá đầu ra, họ phải cắt giảm chi phí đầu vào trong đó chi phí cho thức ăn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Để tiết kiệm chi phí, những người nuôi catfish buộc phải cắt giảm lượng thức ăn cho cá khiến chất lượng cá bán ra bị giảm nghiêm trọng, qua đó ảnh hưởng tới năng suất chế biến cá. Năng suất chế biến cá hiện đang ở mức thấp kỷ lục trong vòng 25 năm qua. Nếu như trước đây 20 ounce cá tươi có thể chế biến được 7 ounce thịt philê thì giờ đây 20 ounce chỉ có thể chế biến được 6,6 ounce thịt. Điều này ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng và uy tín catfish Mỹ. Như vậy, theo phía Mỹ, cá tra và cá basa nhập khẩu là nguyên nhân trực tiếp gây ra những thiệt hại nghiêm trọng tới ngành công nghiệp nuôi trồng và chế biến catfish Mỹ đồng thời đe doạ tới sự phát triển của ngành này trong tương lai. Theo họ việc cá tra và cá basa được bán quá rẻ (không thể có được mức giá đó trong điều kiện sản xuất bình thường) và việc Việt Nam sử dụng nhãn hiệu catfish của Mỹ là vi phạm những nguyên tắc cơ bản của thương mại quốc tế. Để đối phó, Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA) đã chuẩn bị một kế hoạch công phu và kỹ lưỡng nhằm ngăn chặn việc nhập khẩu cá tra và cá basa Việt Nam vào Mỹ. 2. Quan điểm của Việt Nam đối với vấn đề xuất khẩu cá basa sang Mỹ. Quan điểm của Việt Nam đối với vấn đề xuất khẩu cá tra và cá basa cũng như đối với các mặt hàng xuất khẩu khác được thống nhất và quán triệt trong các nghị quyết Trung Ương Đảng. Đó là “Việt Nam kiên trì chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả, phát huy lợi thế so sánh của đất nước cũng như của từng ngành, trong từng lĩnh vực, từng thời kỳ, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước” Để thực hiện mục tiêu phát triển kim ngạch xuất khẩu, Việt Nam chú trọng tới các ngành xuất khẩu chủ lực, trong đó có ngành thuỷ sản, chỉ đứng sau các ngành xuất khẩu dầu mỏ, gạo, dệt may. Hiện nay, cơ cấu xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam khá đa dạng, đối với từng mặt hàng thuỷ sản chúng ta đều có những quan tâm thích đáng, tận dụng các ưu thế sản xuất của từng mặt hàng để nâng cao tổng mức kim ngạch xuất khẩu chung của ngành thuỷ sản. Mặt hàng cá tra và cá basa cũng nằm trong số đó. Nghề nuôi cá tra và cá basa là nghề truyền thống của Việt Nam, đã được Việt Nam chú trọng phát triển nên đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Cá tra và cá basa đã được xuất khẩu sang rất nhiều nước, và thị trường Mỹ chỉ là một trong các thị trường đó. Việt Nam nhận định thị trường Mỹ là một thị trường tiềm năng, nhu cầu tiêu dùng cá philê đông lạnh ở đó rất lớn và chúng ta đặt mục tiêu là phải tăng cường xuất khẩu cá philê đông lạnh vào thị trường này. Tự nhận thức mình vẫn còn là nhà xuất khẩu mới mẻ so với các nhà xuất khẩu chính trên thị trường nước Mỹ như Trung Quốc, Gana, Braxil… tiềm lực tài chính của ta chưa đủ mạnh để có thể quảng bá rầm rộ sản phẩm cá philê đông lạnh trên thị trường Mỹ, các nhà xuất khẩu Việt Nam đã chủ trương cạnh tranh bằng yếu tố chất lượng và giá cả. Công việc nghiên cứu phát triển phương thức nuôi cá đã được triển khai liên tục. Việt Nam đã thành công trong việc nhân giống cá bằng phương pháp sinh sản nhân tạo. Từ thời điểm này, những người nuôi cá tra, cá basa đã được cung cấp con giống với khối lượng lớn và giá rẻ (trước đó con giống phụ thuộc vào nguồn vớt từ tự nhiên nên vừa thiếu vừa đắt). Bên cạnh đó, những nghiên cứu về công nghệ nuôi cá với việc đưa thức ăn công nghiệp vào cũng đã giúp rút ngắn được thời gian nuôi cá nên giảm thiểu được lượng thức ăn cho một kg tăng trọng. Phía các nhà máy chế biến cũng đã có nhiều biện pháp giảm giá thành như đầu tư thêm thiết bị để lột da cá, tận dụng phế liệu, đa dạng hoá sản phẩm chế biến… Nhờ vậy mà chất lượng cá chế biến tăng lên, đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh, giá thành sản xuất giảm và do đó giá xuất khẩu sang các thị trường cũng giảm, trong đó có thị trường Mỹ. Số lượng cá tra và cá basa đông lạnh Việt Nam vào Mỹ ngày càng tăng, được người tiêu dùng Mỹ ưa chuộng và chấp nhận. Đó là nhờ nỗ lực tăng chất lượng và hạ giá thành của sản phẩm, kết quả của một quá trình trình cạnh tranh lành mạnh. Sản phẩm cá tra và cá basa Việt Nam đã vượt qua các sản phẩm philê đông lạnh cùng loại của các quốc gia khác, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu cá philê đông lạnh lớn nhất vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên sản phẩm của Việt Nam cũng chỉ chiếm một phần rất nhỏ bé (2%) trên thị trường Mỹ. Chiếm lĩnh phần lớn thị trường này chính là các nhà sản xuất và chế biến cá nheo Mỹ, những người có ưu thế kinh doanh trên sân nhà và đã có hàng chục năm phát triển. Vì vậy các nhà xuất khẩu Việt Nam luôn mong được cạnh tranh một cách lành mạnh với các nhà cung cấp và chế biến cá philê đông lạnh trên thị trường Mỹ nói chung và các nhà chế biến catfish Mỹ nói riêng để có thể khẳng định vị trí của cá basa và cá tra đông lạnh Việt Nam trên thị trường này. III. Diễn biến vụ tranh chấp. 1. CFA khởi kiện các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam bán phá giá. 1.1.Đôi nét về CFA. Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ (CFA) là đại diện cho giới chủ trại nuôi cá giầu có ở bang Missisipi và một số bang miền Nam nước Mỹ. Là ngành sản xuất quan trọng tại các bang này, các chủ trại nuôi cá nheo đã thu lợi rất lớn và họ đã dày công đưa con cá nheo vốn là loại thức ăn của người da đen nghèo khổ thành một loại thực phẩm bán rộng rãi trên thị trường Mỹ, xếp thứ năm trong số các loại thuỷ sản được tiêu thụ nhiều nhất. Trong suốt thời gian qua, ngành nuôi trồng và chế biến cá nheo Mỹ gặp nhiều khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm và phải giảm giá bán hàng và họ đã quy chụp cho cá tra và cá basa đông lạnh xuất khẩu của Việt Nam là nguyên nhân của những khó khăn đó. Và thế là họ chủ trương dấy lên cuộc chiến chống lại cá tra và cá basa của ta. 1.2. Những bước đi đầu tiên của CFA. Ngay từ cuối năm 2000, thông qua báo chí Mỹ, CFA bắt đầu cố tình đưa những thông tin sai lệch để bôi xấu hình ảnh cá tra, cá basa của ta, vu cáo cá của ta không đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm. Một số người cho rằng sông Cửu Long bị ô nhiễm nặng, có dư lượng chất độc màu da cam và những loài cá nuôi ở đó cũng bị nhiễm độc. Để bảo vệ mình, phía Việt Nam đã mời các đoàn khoa học của Mỹ tới Việt Nam để khảo sát tình hình nuôi cá ở Đồng bằng sông Cửu Long và kết quả khảo sát của các đoàn công bố cho thấy nước sông Cửu Long không bị ô nhiễm như nước sông Missisipi của Mỹ. Chất lượng nước ở hạ lưu sông Cửu Long được kiểm soát chặt chẽ bởi một hệ thống giám sát quốc gia và quốc tế, dựa trên những cam kết giữa các nước trong vùng và các tổ chức quốc tế có uy tín. Bên cạnh đó các giai đoạn chế biến và sản xuất cá của Việt Nam từ khâu chọn giống, cho đẻ, nuôi vỗ, sản xuất thức ăn và chế biến cá đều tuân theo hệ thống quản lý chất lượng HACCP. Và trong thực tế, chương trình quản lý HACCP cho từng lô hàng được gửi cho FDA (cục thực phẩm và dược phẩm Mỹ) và từ khi đặt chân vào thị trường Mỹ (từ năm 1995 tới nay), các lô hàng cá tra và cá basa của Việt Nam chưa từng bị trả lại vì các lý do liên quan đến vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Ngược lại, các ao nuôi cá nheo của Mỹ phải khai thác nước ngầm để nuôi cá, đáy ao thường xuyên tích tụ một lượng bùn rất dày, có trường hợp dày đến 1,5 - 2 m, kết quả lắng đọng của thức ăn thừa, của phân cá, do phải sau một chu kỳ sản xuất 8 năm đáy ao mới được dọn sạch một lần. Nước trong ao luôn tanh mùi bùn. Các chủ trại cá nheo Mỹ thường xuyên phải dùng chất hoá học “diuron”, một loại chất độc đã được liệt vàp danh mục cấm sử dụng của Cục Môi trường Mỹ, để thả xuống các ao nuôi cá nheo của họ. Đó là biện pháp thường được sử dụng để chống lại sự phát triển của tảo lam, tránh để cá nheo của họ nuôi khỏi hôi mùi bùn. Và để hợp thức hoá, hàng năm họ phải thương lượng với Cục Môi trường Mỹ để gia hạn việc cho phép sử dụng loại thuốc độc “diuron” nói trên. Không giống như các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ, người Việt Nam không bao giờ đánh thuốc độc vào các vùng nước nuôi thuỷ sản của mình. Và thịt cá tra, cá basa Việt Nam cũng không hề tanh mùi bùn. Như vậy hoàn toàn có thể khẳng định rằng cá Việt Nam tuân thủ chặt chẽ mọi yêu cầu về an toàn vệ sinh thực phẩm và những lời cáo buộc của phía Mỹ là hoàn toàn vô căn cứ và sai sự thực Ngoài những lời vu cáo như trên, các chủ trại nuôi cá nheo (CFA) cùng với các nhà chế biến catfish Mỹ đã phát động các chiến dịch lớn như “Người Mỹ ăn cá nheo Mỹ”, “Đừng bao giờ tin vào sản phẩm catfish của ngoại quốc”, tạo ra bầu không khí bài xích các sản phẩm cá của Việt Nam. Một trong những nội dung nguy hiểm được CFA hoạch định trong chiến dịch của họ là tiến hành vận động, gây áp lực, lôi kéo nghị sĩ của các bang có nghề nuôi cá, huy động mọi lực lượng ở các cơ quan lập pháp và hành pháp, tìm kiếm mọi sự hỗ trợ có thể bám víu được để tấn công trả đũa các sản phẩm cá da trơn Việt Nam nhập khẩu. Ngày 5/10/2001, dưới sức ép của một số nghị sĩ, Hạ viện Mỹ đã thông qua dự luật HR.2964. chỉ cho phép sử dụng tên catfish cho riêng các loài cá thuộc họ Ictaluridae, thực chất là cho riêng loài cá nheo Mỹ Ictalurus punctatus. Việc tự giành quyền sử dụng một tên gọi đã rất thông dụng của hơn 2.500 loài cá khác nhau trên thế giới làm tên riêng cho một loài cá của mình quả là một hành động “vô tiền khoáng hậu”. Tiếp đó, ngày 28/11/2001 tại Washington, tổng thống Mỹ G. Bush đã ký phê chuẩn luật số 107-76 về phân bổ ngân sách nông nghiệp năm tài chính 2002, trong đó có điều khoản quy định FDA (Cục thực phẩm và dược phẩm Mỹ) không được sử dụng ngân sách cấp để làm thủ tục cho phép nhập khẩu các loài cá da trơn mang tên catfish trừ phi chúng thuộc họ Ictaluridae. Đây thực chất là một hành vi bảo hộ mậu dịch của chính quyền Mỹ, nó trái với tinh thần của Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA), đi ngược lại tinh thần tự do thương mại của tổ chức thương mại thế giới (WTO) và tạo ra một tiền lệ xấu về lâu dài, gây ảnh hưởng bất lợi cho ngành công nghiệp cá nheo của nước Mỹ bằng cách ru ngủ ngành này với một ảo tưởng về sự bảo hộ giá và bảo hộ thị trường. Thật ra, biện pháp bảo hộ mậu dịch không còn là điều gì mới mẻ đối với chính quyền Mỹ mà nó đã trở thành biện pháp rất quen thuộc và núp dưới nhiều chiêu bài khác nhau. Thực tế, trong khi hô hào ủng hộ tự do thương mại, chính quyền Mỹ lại đang cố sức bảo hộ cho các nhà sản xuất trong nước bằng cách áp đặt những điều lệ vô lý đối với hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài. Trong những tháng gần đây, châu Âu và châu á đang phải đương đầu với việc tăng thuế nhập khẩu thép vào thị trường Mỹ lên tới mức 30%. Canada cũng bị các nhà vận động hậu trường của ngành xẻ gỗ gây khó khăn. Đến lượt catfish của Việt Nam cũng gặp không ít chông gai và đây chính là bất đồng đầu tiên trong quan hệ thương mại giữa hai nước kể từ sau khi ký Hiệp định thương mại, nó cho thấy vấn đề tự do thương mại và buôn bán công bằng gai góc biết nhường nào nếu nó đe doạ tới ngành sản xuất của bất kỳ một quốc gia nào. Những biện pháp trên đây mới chỉ là “phát súng khơi mào” cho cuộc chiến catfish mà CFA dấy lên để chống lại cá tra và cá basa đông lạnh của Việt Nam. Chốt lại cuộc chiến, CFA đã mở một đợt tấn công khác: Khởi kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá. 1.3. CFA khởi kiện các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam bán phá giá. Ngay sau khi đạo luật 107-76 được thông qua, những người nuôi trồng và chế biến catfish Mỹ đã âm mưu biến nó thành vĩnh viễn. Chính vì vậy, khi đạo luật này vẫn còn có hiệu lực thì ngày 28/6/2002, CFA đã nộp đơn lên Uỷ ban hiệp thương quốc tế Mỹ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá tra và cá basa xuất khẩu sang Mỹ. Trong đơn kiện của mình, CFA đã phân tích chi tiết về tình hình thị trường cá nheo Mỹ, thị phần cá da trơn philê đông lạnh của Việt Nam tại Mỹ cũng như ảnh hưởng của sản phẩm rẻ tiền này (theo cách gọi của họ) đối với ngành sản xuất trong nước và cho rằng: “Cá của Việt Nam đang được bán tại thị trường Mỹ với mức giá thấp hơn nhiều giá trị thực và gây ra thiệt hại lớn đối với các nhà nuôi trồng và chế biến catfish trong nước và do đó luật chống bán phá giá hiện nay là liệu pháp duy nhất mà ngành sản xuất trong nước có thể trông cậy được để chống lại việc kinh doanh đầy phi lý và bất công này”. Cũng trong đơn kiện này, CFA đã đưa ra đề nghị cách tính biểu thuế chống bán phá giá rất đáng lưu ý: có hai phương án tính biểu thuế, nếu Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường thì cách tính phá giá phải theo kiểu Mỹ và nếu Việt Nam bán phá giá thì mức thuế chống bán phá giá sẽ là 144%. Còn nếu Việt Nam không được công nhận là nước có nền kinh tế thị trường thì sẽ lấy sẽ lấy mức giá cả của ấn Độ - nước mà CFA cho rằng có trình độ phát triển tương đương- để áp vào cách tính giá cá basa của Việt Nam (nếu có bán phá giá, mức thuế áp dụng sẽ là 191%). Trong trường hợp này, CFA và hãng luật sư của mình - Akin Gump đề nghị coi Việt Nam là nước có nền kinh tế phi thị trường với ý đồ là một khi thực hiện việc áp đặt thuế chống bán phá giá đối với cá philê đông lạnh của Việt Nam thì mức thuế sẽ là cao nhất và hàng Việt Nam sẽ không còn có một cơ hội cạnh tranh nào trên thị trường Mỹ nữa. Thật ra biện pháp kiện bán phá giá là biện pháp mà các công ty Mỹ thường xuyên áp dụng, không chỉ với các nước nhỏ mà còn với cả các nước lớn, bạn hàng lâu đời của Mỹ như EU, Canada, Mexico. Trong số những nước thường xuyên bị Mỹ kiện bán phá giá phải kể đến Trung Quốc. Hàng năm riêng nước này phải đối mặt với hàng trăm vụ kiện bán phá giá của Mỹ, liên quan tới nhiều mặt hàng thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, và nhiều vụ trong số đó phía Mỹ đã thành công trong việc áp đặt thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu. Trong lĩnh vực thuỷ sản, có một vụ kiện tương đói giống với vụ kiện cá tra và cá basa lần này, đó là việc Mỹ kiện các ngư dân đánh bắt cá hồi Nauy vào năm 1992. Lúc đó, cũng với lập luận rằng cá hồi Nauy đang được bán phá giá vào thị trường Mỹ, các cơ quan chức năng Mỹ đã mở một cuộc điều tra dưới hình thức phát bảng câu hỏi đến ngư dân Nauy về chi phí, doanh thu, lợi nhuận… Các cơ quan này sau đó kết luận rằng ngư dân Nauy đang được Nhà nước bao cấp, điều mà những người ngư dân không hề biết. Đơn giản là để khuyến khích đầu tư về phía Bắc xa xôi, giá lạnh, chính phủ Nauy đã giảm 50% thuế thuê mướn nhân công cho nhà đầu tư. Phía Mỹ kết luận, như vậy là ngư dân Nauy đã được Nhà nước bao cấp một phần và điều này không công bằng với ngư dân Mỹ. Ngay lập tức, thuế suất nhập khẩu mới được áp dụng đối với cá hồi Nauy vào Mỹ là 25%. Với thuế suất này, từ chỗ 95% sản lượng cá hồi đánh bắt của Nauy được xuất khẩu vào Mỹ đã không còn có con cá hồi nào vào được Mỹ nữa. Vấn đề là sau khi cá Nauy không còn xuất sang Mỹ nữa thì giá cá hồi vẫn còn giảm đến 30% trong hai năm sau đó. Tình trạng giảm giá này rõ ràng không phải do bán phá giá cá nhập khẩu như tất cả các ngư dân Mỹ nói. Ví dụ trên cho thấy khả năng thắng của các công ty Mỹ trong các vụ kiện bán phá giá là rất lớn: họ rành pháp luật nước mình và có nhiều kinh nghiệm. Trong trường hợp vụ tranh chấp bán phá giá cá basa, các nhà sản xuất và chế biến cá nheo Mỹ cũng hy vọng dựa vào kinh nghiệm tiềm lực tài chính của mình để thắng kiện. Thậm chí hoàn toàn có khả năng bên bị đơn do không có đủ tiền để thuê luật sư phải chấp nhận thua kiện. Vụ kiện do đó rất khó đoán được kết quả, dù các doanh nghiệp Việt Nam có những lý lẽ riêng, xác đáng của mình. Các doanh nghiệp do vậy cần phải chuẩn bị kỹ lưỡng cho các vụ điều trần sắp tới, nếu không hậu quả thuỷ sản Việt Nam phải gánh chịu sẽ là rất lớn. 2. Quyết định điều tra của Mỹ. Ngày 28/6/2002, đơn kiện của CFA kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá đã được trình lên USITC và được USITC chấp nhận, theo đó công việc điều tra sẽ được bắt đầu với năm giai đoạn như sau: Bảng 12: Lịch trình điều tra của Bộ thương mại Mỹ Cụng việc Thời gian CFA đệ đơn kiện 28/6/ 2002 USITC đưa ra kết luận sơ bộ và Bộ Thương mại bắt đầu cuộc điều tra xem Việt Nam cú bỏn phỏ giỏ cỏ da trơn filờ đụng lạnh vào thị trường Mỹ hay khụng* 12/8/2002 Bộ Thương Mại kết thỳc cuộc điều tra** 5/12/2002 Kết luận về cuộc điều tra của Bộ Thương mại ** 18/2/ 2003 Kết luận cuối cựng về vụ kiện** 4/4/2003 Ra bản ỏn *** 15/4/2003 *Nếu USITC đưa ra kết luận sơ bộ là khụng đe doạ và khụng gõy thiệt hại cho ngành nuụi catfish trong nước thỡ vụ kiện dừng ở đõy. **Thời hạn này cú thể kộo dài theo yờu cầu của quỏ trỡnh điều tra. ***Việc này chỉ diễn ra khi cú kết luận cuối cựng của Bộ Thương mại. Nguồn: Bộ thương mại Mỹ Như vậy là cuộc điều tra bán phá giá thường kéo dài rất lâu, thường là 9 tháng đến 1 năm. Cuộc điều tra hiện đã qua giai đoạn một. ở giai này các bên bao gồm Hiệp hội các nhà chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) đại diện cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam cùng hãng luật sư của mình đã tham dự phiên điều trần ngày 19/7/2002 tại Uỷ ban thương mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC). Tại cuộc điều trần, mỗi bên tham dự có một giờ để trình bày lý lẽ, lập luận của mình và sau đó trả lời các câu hỏi của nhóm điều tra của Uỷ ban nhằm giúp nhóm này thu thập đầy đủ thông tin làm rõ các lý lẽ và chứng cứ do mỗi bên đưa ra. Ngày 12/8, USITC đã chính thức công bố kết quả điều tra, theo đó, cả năm thành viên tham dự bỏ phiếu đều thống nhất kết luận : “Dựa trên kết quả điều tra sơ bộ, USITC thấy ngành nuôi cá catfish của Mỹ có thể có nguy cơ bị đe dọa bởi mặt hàng cá da trơn philê đong lạnh nhập khẩu từ Việt Nam”. Như vậy vụ kiện sẽ được chuyển sang Bộ Thương Mại Mỹ (DOC) để tiến hành điều tra xem xét liệu các doanh nghiệp Việt Nam có thực sự bán phá giá cá tra và cá basa tại thị trường Mỹ hay không. Thực ra, đây không phải là kết quả đáng buồn cho các doanh nghiệp Việt Nam vì theo lịch sử các vụ kiện bán phá giá tại Mỹ trước đây, chỉ chưa đầy 10% các bị đơn thắng ngay trong giai đoạn 1. Hơn nữa, kết luận của USITC rằng cá tra, cá basa philê đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam “có thể có nguy cơ đe doạ đến ngành nuôi trồng và chế biến trong nước” là khá trung tính trong ba mức đánh giá có thể có: một là không gây nguy cơ, hai là có nguy cơ và ba là có nguy cơ đe doạ đồng thời gây thiệt hại nghiêm trọng. Bên cạnh đó, USITC cũng đã công bố quan điểm về vụ kiện, nêu rõ nhiều định nghĩa liên quan tới sản phẩm bị kiện mà theo đó sẽ tạo những thuận lợi mới cho phía Việt Nam. Trong cáo buộc trước đây, bên nguyên (Hiệp hội các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ, CFA) khăng khăng cho rằng cá da trơn philê đông lạnh của Việt Nam là sản phẩm cạnh tranh trực tiếp với catfish của Mỹ. Tuy nhiên, trong phiên điều trần ngày 19/7, trước những lý lẽ của VASEP, USITC nhận thấy rằng, ở Mỹ không có sản phẩm nào hoàn toàn giống (cạnh tranh trực tiếp) mà chỉ có những sản phẩm mang đặc trưng và công dụng gần giống (không cạnh tranh trực tiếp) với sản phẩm bị kiện. USITC cũng đồng ý với yêu cầu của VASEP cho rằng, trong những nhóm sản phẩm tương tự với cá da trơn philê đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam, không chỉ có catfish philê mà còn có một số sản phẩm khác như cá lăn bột và tẩm xốt của Mỹ. Theo giới chuyên môn, việc USITC đưa thêm hai sản phẩm là cá lăn bột và tẩm xốt sẽ làm cho nội hàm nhóm các sản phẩm cạnh tranh với sản phẩm bị kiện lớn hơn, tức là tỷ trọng các sản phẩm cá tra, cá basa philê đông lạnh nhập từ Việt Nam tại thị trường Mỹ sẽ giảm xuống. Điều này cũng có nghĩa là nếu cá Việt Nam đe doạ nền công nghiệp cá nheo Mỹ thì mối đe doạ chỉ ở mức thấp. Theo quan điểm của USITC, ngành công nghiệp nội địa bao gồm những nhà sản xuất chịu trách nhiệm toàn bộ hay một phần chính các khâu trong cả quá trình chế biến sản phẩm. Trên cơ sở định nghĩa này, cùng với việc xem xét mối quan hệ giữa các nhà chế biến cá nheo với các chủ trại nuôi cá nheo Mỹ, USITC đã đi đến kết luận: “Có những bằng chứng cho thấy, các chủ trại đóng vai trò quan trọng đối với các nhà chế biến và ngược lại. Tuy nhiên, trong quá trình vận hành của ngành công nghiệp cá nheo Mỹ không bao gồm việc nuôi trồng catfish. USITC không coi các chủ trại là thành viên của ngành công nghiệp này mà chỉ coi họ như một điều kiện quan trọng khi xem xét năng lực cạnh tranh”. Như vậy, việc USITC không coi các chủ trang trại cá Mỹ là thành viên của nền công nghiệp cá nheo nội địa khiến 500 chủ nông trại này bị loại ra khỏi danh sách nguyên đơn. Chỉ còn các nhà chế biến catfish tại Mỹ (khoảng 8 doanh nghiệp được phép theo tiếp vụ kiện. Hiện tại, vụ kiện đã được chuyển lên Bộ thương mại Mỹ (DOC) để tiếp tục điều tra. Vấn đề bây giờ là xác định Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường hay nền kinh tế phi thị trường để từ đó làm cơ sở cho việc lập bảng câu hỏi gửi các doanh nghiệp Việt Nam và xác định mức thuế chống bán phá giá. Nếu DOC xác định Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, bảng câu hỏi questionaires sẽ gồm 4 nhóm câu hỏi A, B,C, D. Trong trường hợp ngược lại, bảng này chỉ gồm 3 nhóm A, C và D (không có các câu hỏi nhóm B). Cụ thể: - Nhóm A: Trong trường hợp DOC xác định Việt Nam có nền kinh tế thị trường, các câu hỏi nhóm này sẽ tập trung vào quan hệ của doanh nghiệp Việt Nam với đối tác Mỹ. Ngược lại, nếu xác định là nền kinh tế phi thị trường, các câu hỏi sẽ xoáy vào quan hệ của doanh nghiệp đó với chính phủ Việt Nam. - Nhóm B (chỉ dành cho trường hợp có nền kinh tế thị trường): các câu hỏi sẽ xoáy vào tình hình bán hàng của doanh nghiệp Việt Nam tại thị trường nội địa cũng như lượng hàng xuất sang một nước thứ ba (không phải là Mỹ) - Nhóm C: Nội dung của các câu hỏi nhóm này giống nhau đối với cả hai trường hợp, tập trung về sản lượng của doanh nghiệp, doanh số xuất sang Mỹ, cách ký kết hợp đồng xuất khẩu, thời gian giao hàng,... - Nhóm D: Theo các chuyên gia, đây là phần câu hỏi quan trọng nhất của DOC nhằm điều tra về cơ cấu chi phí sản xuất. Mỹ rất tin vào yếu tố giá nguyên liệu trong cơ cấu giá thành, vì vậy các câu hỏi nhóm D dành cho trường hợp có nền kinh tế thị trường sẽ xoáy sâu vào vấn đề này. Tuy nhiên, nếu DOC xác định Việt Nam chưa có nền kinh tế thị trường, các câu hỏi sẽ tập trung vào khối lượng nguyên liệu cung cấp cho quá trình sản xuất, chế biến (vì họ nghi ngờ có yếu tố bao cấp của chính phủ). Để phục vụ cho việc điều tra, DOC đã yêu cầu các bên phải nộp bản giải trình trước ngày 4/9 theo những tiêu chí khả năng chuyển đổi của đồng tiền; mức độ trong đó lương bổng được mặc cả tự do; mức độ mà trong đó các công ty liên doanh được hoạt động tự do; mức độ sở hữu của Chính phủ đối với các phương tiện sản xuất và mức độ chính quyền kiểm soát việc phân phối tài nguyên. Sau đó, Việt Nam phải đưa ra được những chứng cứ và lập luận để phản bác lại cáo buộc của các nhà chế biến cá nheo Mỹ. Tuy nhiên theo đề nghị của Việt Nam, DOC đã đồng ý gia hạn cho Việt Nam xuống ngày 18/9 và 20/9. Trước đó, DOC đã quyết định lùi việc ra quyết định sơ bộ về vụ kiện bán phá giá cá cho đến 24/1/2003, chậm 50 ngày so với lộ trình ban đầu. Như vậy, vấn đề đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là phải cùng nhau thống nhất thông tin để điền vào bảng questionaires một cách chính xác vì việc trả lời này sẽ quyết định đến việc ra phán quyết của DOC liệu Việt Nam có là nước có nền kinh tế thị trường hay không- phán quyết này thường không được kháng án lại. Mà bản thân việc xác định là nước có nền kinh tế thị trường hay không lại rất quan trọng đối với việc điều tra bán phá giá ở các giai đoạn tiếp theo. Vì nếu bị coi là nước không có nền kinh tế thị trường, Việt Nam sẽ không được lấy chi phí sản xuất thực tế của mình để tính giá trị thông thường sản phẩm cá xuất khẩu sang Mỹ mà buộc phải lấy các yếu tố chi phí sản xuất của một nước có nền kinh tế thị trường thay thế. Có thể xem bảng mẫu tính giá sau để hiểu rõ hơn về việc tính giá trị thay thế: Bảng 13: Bảng mẫu tính giá trị thông thường áp đặt của Bộ thư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa luan tot nghiep.doc
  • docbia tot nghiep.doc
  • docmuc luc.doc
Tài liệu liên quan