MỤC LỤC
Trang
LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 3
I. Khái quát chung về các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 3
1. Một số quan điểm về mặt hàng xuất khẩu chủ lực 3
2. Ý nghĩa và tính cấp thiết của việc xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong nền kinh tế quốc dân 4
3. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay 9
II. Một số tồn tại trong xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam hiện nay 11
1. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn kém 11
2. Năng suất, chất lượng hàng xuất khẩu chưa cao và không ổn định 15
3. Hiệu quả kinh tế thấp 16
4. Thiếu am hiểu về pháp luật và tập quán mua bán quốc tế 16
5. Ảnh hưởng của yếu tố khách quan 17
III. Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu mặt hàng chủ lực khi Việt Nam hội nhập kinh tế khu vực và thế giới 18
1. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế thế giới 18
2. Cơ hội 19
3. Thách thức 21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG XÂY DỰNG CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 23
I. Hiện trạng xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 23
1. Chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
2. Thực trạng xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 28
II. Đánh giá tình hình xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam 36
1. Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ song còn nhiều bất cập về chính sách và văn bản hướng dẫn
2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực chuyển dịch tích cực 40
3. Cơ cấu thị trường có chuyển biến cơ bản 41
4. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo thành phần kinh tế nhưng tiềm năng của mọi thành phần kinh tế lại chưa được phát huy mạnh mẽ 42
5. Sự hưởng ứng của doanh nghiệp chưa đồng đều 43
6. Cơ cấu lao động và kỹ thuật từng bước đổi mới theo hướng CNH- HĐH song sự chuyển đổi còn chậm và thiếu định hướng cụ thể 44
III. Kinh nghiệm xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của một số nước Đông Á
1. Khái quát chính sách lựa chọn sản phẩm xuất khẩu của các nước Đông Á kể từ khi bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa đến nay 44
2. Kinh nghiệm xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực của một số nước Đông Á khi bắt đầu thực hiện công nghiệp hóa đến nay 46
3. Bài học rút ra từ kinh nghiệm của các nước Đông Á 51
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP XÂY DỰNG, ĐẨY MẠNH SẢN XUẤT VÀ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM 54
I. Định hướng của Nhà nước về xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đến năm 2010
1. Định hướng chung về xuất khẩu đến năm 2010 54
2. Định hướng về xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đến năm 2010 55
3. Định hướng về thị trường xuất khẩu 63
II. Giải pháp phát triển nhằm đẩy mạnh xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
1. Nhóm giải pháp tổ chức nguồn hàng và cải biến cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 66
2. Nhóm biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng xuất khẩu chủ lực 69
3. Nhóm biện pháp tài chính 71
4. Nhóm giải pháp thị trường - Marketing 72
5. Nhóm giải pháp thể chế - tổ chức 75
KẾT LUẬN 77
TÀI LIỆU THAM KHẢO 78
79 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1850 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Xây dựng các mặt hàng xuát khẩu chủ lực của Việt Nam: thực trạng và giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ại năm 2000.
Như vậy, trong thời kỳ đổi mới, cơ cấu hàng xuất khẩu chủ lực tương đối rõ nét. Đã hình thành một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực đang dần có vị thế trên thị trường khu vực và thế giới. Trong số các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, nhóm sản phẩm chế biến, chế tạo có sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giầy, thuỷ sản...vẫn chiếm tỷ trọng không nhỏ. Bên cạnh đó, một số mặt hàng xuất khẩu mới đã xuất hiện và có nhiều triển vọng phát triển tốt trong những năm tới như hàng nông sản chế biến, rau quả, hàng điện tử và linh kiện điện tử.
Mặt hàng xuất khẩu ngày càng được mở rộng. Năm 1991 mới có 4 nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực là dầu thô, thuỷ- hải sản, gạo, dệt may (đạt kim ngạch trên 100 triệu USD trở lên). Đến năm 2000 đã có thêm 8 mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới là cà phê, cao su, nhân điều, giầy dép, than đá, hàng điện tử, hàng thủ công mỹ nghệ và rau quả. Bốn nhóm mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD trong năm 2000 là giày dép đạt 1,46 tỷ USD; dệt may đạt 1,89 tỷ USD; hải sản đạt gần 1,48 tỷ USD, dầu thô đạt 3,5 tỷ USD và 3 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu khá cao như gạo đạt 667,35 triệu USD; cà phê đạt 501,45 triệu USD; hàng điện tử và linh kiện điện tử đạt 782,65 triệu USD. Các mặt hàng xuất khẩu rau quả đạt 213,55 triệu USD và hàng thủ công mỹ nghệ đạt 236,86 triệu USD.
Trong 10 sản phẩm đứng đầu có giá trị kim ngạch xuất khẩu cao, có 5 sản phẩm xuất khẩu thuộc ngành công nghiệp và công nghiệp chế biến đó là dầu thô, dệt may và may mặc, giày dép, thuỷ sản, điện tử và linh kiện máy tính. Thực tế cho thấy, 5 mặt hàng công nghiệp này luôn chiếm từ 50-60% kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Năm 2000, chỉ tính riêng kim ngạch xuất khẩu của nhóm mặt hàng công nghiệp xuất khẩu trên đã đạt 9,12 tỷ USD, chiếm 63,75% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
c/ Xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực giai đoạn 2001 cho đến nay
Trong những năm gần đây, Việt nam đã xác định rõ chiến lược xuất khẩu là phải tăng nhanh tỷ trọng sản phẩm chế biến sâu và tinh trong lượng xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Tăng cường đầu tư máy móc công nghệ chế biến chế tạo cho các sản phẩm xuất khẩu nhằm tạo ra lượng giá trị gia tăng cao hơn, đáp ứng ngày một tốt hơn những yêu cầu của thị trường và người tiêu dùng quốc tế. Có như vậy hiệu quả về kinh tế- xã hội mà xuất khẩu mang lại cho nền kinh tế mới cao, nhằm đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
Năm 2002, xuất khẩu các sản phẩm phi dầu thô tăng tới 12%, cao hơn mức tăng 8,7% của năm 2001. Khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 17%, khu vực 100% vốn trong nước tăng 9,7% ( tốc độ tương ứng của 2 khối này năm 2001 là 11% và 7,7%). Đáng chú ý là tỷ trọng khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong xuất khẩu của khu vực 100% vốn trong nước đã lên tới 48,5%, các doanh nghiệp nhà nước chỉ chiếm khoảng 51,5% đã cho thấy sự vươn lên của các doanh nghiệp trong nước ngoài quốc doanh là rất mạnh mẽ là một bộ phận quan trọng, đóng góp không nhỏ vào việc tăng kim ngạch xuất khẩu cũng như xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhất là trong các mặt hàng công nghiệp nhẹ và chế biến. Năm 2002 có thêm mặt hàng hạt tiêu góp phần vào danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và như vậy Việt Nam có 13 mặt hàng chủ lực. Trong số 13 mặt hàng chủ lực có kim ngạch tăng thì đa số đều do lượng tăng. Điều này cho thấy thị trường tiêu thụ vẫn được đảm bảo, thị phần trên thế giới đối với một số mặt hàng tiếp tục tăng. Riêng xuất khẩu nông sản mặc dù giá vẫn thấp nhưng đã có tới 3 mặt hàng có lượng tăng là cao su, hạt tiêu, hạt điều. Hai mặt hàng gạo và cà phê lượng xuất khẩu giảm nhưng nguyên nhân chính là do chuyển dịch cơ cấu kết hợp với tác động của hạn hán chứ không phải do thiếu thị trường. Mặt hàng thuỷ sản và một số mặt hàng chế biến như dệt may, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ tiếp tục tăng khá cả về lượng và kim ngạch, trong đó riêng phần đóng góp của 2 nhóm hàng dệt may và giầy dép đối với tăng trưởng chung đã là 7,2%( dệt may 4,85; giầy dép 2,4%). Tuy mới tham gia vào cơ cấu xuất khẩu nhưng chúng sẽ là những mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh của Việt Nam trong những năm tới.
Chất lượng hàng xuất khẩu cũng đã được nâng lên đáng kể, đã góp phần làm gia tăng sức cạnh tranh trên thị trường thế giới và tác động tích cực tới chất lượng sản phẩm trong nước. Một số nông sản phẩm của Việt Nam đã có vị trí trên thị trường thế giới đồng thời giá cả các sản phẩm đó cũng được tăng lên một cách đáng kể. Ví dụ như hạt điều giá trung bình trong cả giai đoạn 11991-1995 đạt 908 USD/tấn đến năm 1998 giá 1 tấn điều đạt 1015,6 USD; năm 1999 mỗi tấn tăng lên 309 USD so với năm 1998. Tính trung bình trong cả giai đoạn 1996 –2000 giá điều là 1078,4 USD/tấn. Tương tự hạt tiêu của Việt Nam giá xuất khẩu liên tục tăng trên thị trường thế giới, từ 1845,8 USD/ tấn(1996) tăng lên 3945 USD/tấn(1999). Có được kết quả này là do chúng ta đã có những đầu tư vào công đoạn chế biến sản phẩm nông sản. Đây sẽ là một hướng đi đúng và then chốt để Việt Nam có thể tăng kim ngạch xuất khẩu trong giai đoạn 2001-2010.
II. Đánh giá tình hình xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là một phần quan trọng trong chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu của các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Nó đòi hỏi phải có sự phối hợp từ hai phía: Nhà nước và các doanh nghiệp. Vì vậy việc đánh giá hoạt động này phải được xét từ cả hai chủ thể tham gia là Nhà nước và các doanh nghiệp. Dưới đây là một số đánh giá về tình hình xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam từ thực trạng nêu trên.
1. Chính phủ hỗ trợ mạnh mẽ song còn nhiều bất cập về chính sách và văn bản hướng dẫn
1.1. Sự quan tâm của Chính phủ
Cùng với sự phát triển đi lên của nền kinh tế đất nước và những yêu cầu cấp thiết của cơ chế thị trường, Đảng và Chính phủ Việt Nam đã nhận thức và đánh giá được tầm quan trọng của hoạt động kinh tế ngoại thương và nhất là hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế nước nhà trong công cuộc CNH- HĐH và xu thế phát triển tất yếu của kinh tế thế giới. Do đó, Việc hoạch định chính sách xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam nhằm hỗ trợ, thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá phát triển mạnh mẽ luôn là mối quan tâm của Đảng, Chính phủ, các cấp và các ngành hữu quan. Hàng năm, Chính phủ và Bộ Thương mại luôn tổ chức các buổi gặp gỡ các doanh nghiệp, các nhà xuất khẩu để lắng nghe những ý kiến phản hồi về hiệu quả của những bộ luật, văn bản thông tư dưới luật đã ban hành đối với hoạt động xuất nhập khẩu nói chung và xuất khẩu nói riêng để kịp điều chỉnh những tồn tại, hạn chế của các văn bản đó. Từ đó, với những thông tin kịp thời về tình hình sản xuất, xuất khẩu cũng như nhu cầu của thị trường tiêu dùng thế giới, Chính phủ sẽ đưa ra các chính sách, chiến lược có tính lâu dài trong việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực và đối với cả cơ cấu nền kinh tế đất nước trong những năm tới.
Một thuận lợi lớn cho việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực là sự quyết tâm của Chính phủ trong việc thúc đẩy xuất khẩu. Sau khi thi hành những biện pháp nhằm giải phóng tiềm năng, Chính phủ đã và đang quan tâm nhiều hơn tới các giải pháp theo chiều sâu, tác động đến hiệu quả và sức cạnh tranh của toàn bộ hoạt động xuất khẩu. Tại Hội nghị thương mại toàn quốc 2003, Thủ tướng Phan Văn Khải chỉ đạo: “Từ thành quả của hoạt động xuất khẩu năm 2002, Bộ Thương mại cần rút ra bài học cho xuất khẩu năm 2003: mặt hàng nào có thể tăng kim ngạch xuất khẩu thì tìm mọi cách thúc đẩy mặt hàng đó. Rà lại từng sản phẩm xuất khẩu, những sản phẩm có ưu thế cần được tập trung đầu tư, tạo cơ chế chính sách ưu đãi. Do đó, từ Trung ương đến địa phương cần chủ động cho xuất khẩu ngay từ đầu năm”.
Hoạt động xuất khẩu trong những năm vừa qua đã nhận được sự quan tâm và chỉ đạo sâu sát của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ. Hàng loạt biện pháp khuyến khích và hỗ trợ, bao gồm cả hỗ trợ tài chính, đã được xem xét ban hành để giúp các doanh nghiệp vượt qua giai đoạn khó khăn, giữ vững tiến độ tiêu thụ hàng hóa, nhất là tiêu thụ nông sản cho nông dân. Trong số các biện pháp đã thi hành, nổi bật lên các biện pháp sau đây:
- Từ tháng 9/2001, quyền kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hóa đã được mở cho tất cả các thương nhân (trước đây chỉ mở đến doanh nghiệp). Phạm vi được phép kinh doanh xuất khẩu cũng không còn phụ thuộc vào ngành hàng ghi trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh nữa. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, kể từ tháng 1/2002, cũng đã được quyền xuất khẩu hàng hóa gần như thương nhân Việt Nam. Đây là những biện pháp hết sức quan trọng, góp phần đa dạng hóa chủ thể xuất khẩu, qua đó khơi dậy tiềm năng xuất khẩu của tất cả các thành phần kinh tế.
- Để thúc đẩy xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu nông sản trong điều kiện sức mua trên thị trường thế giới còn khá trì trệ, các biện pháp về tài chính và tín dụng đã nhận được sự quan tâm đặc biệt. Chế độ thưởng theo kim ngạch xuất khẩu, sau 1 năm phát huy tác dụng, đã tiếp tục được duy trì trong năm 2002 với diện mặt hàng mở rộng hơn trước đây, trong đó chủ yếu là nông sản. Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, sau nhiều năm chuẩn bị, cũng đã được ban hành vào quý IV/2001 và phát huy tác dụng tích cực trong năm 2002. Đặc biệt, ngày 24/6/2002 vừa qua, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg về chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng, thiết lập cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc hình thành mối liên kết giữ sản xuất nông nghiệp với chế biến và tiêu thụ.
- Tiếp tục hạ giá thành và nâng cao sức cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu, nhiều loại chi phí liên quan đến xuất khẩu đã được xem xét miễn giảm, thí dụ như lệ phí kiểm dịch động thực vật, lệ phí hạn ngạch, lệ phí hải quan, lệ phí cấp C/O và cấp giấy chứng nhận cho giày dép xuất khẩu đi EU. Từ tháng 2/2002, chế độ hoàn thuế GTGT đối với phân bón và thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu đã được cải tiến để hỗ trợ cho bà con nông dân. Quan trọng nhất, ngày 10/10/2002 vừa qua, sau hơn 1 năm nghiên cứu, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư hướng dẫn chế độ thuế áp dụng cho một số doanh nghiệp vệ tinh cung ứng đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu. Tuy chưa được đầy đủ như quy định tại Quyết định số 908/QĐ-TTg ngày 26/07/2001 của Thủ tướng Chính phủ như Thông tư này cũng đã đánh dấu một bước đi quan trọng trong tiến trình thúc đẩy sự hình thành mối liên kết dọc giữa các doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng xuất khẩu.
- Công tác thị trường và xúc tiến thương mại tiếp tục nhận được sự quan tâm đặc biệt. Thực hiện Chỉ thị số 31/2001/CT-TTg ngày 13/12/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2002, Bộ Thương mại đã tổ chức 05 đoàn liên ngành đi khảo sát và tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga và châu Phi. Ngày 27/9/2002, Bộ Tài chính đã ra Thông tư số 86/2002 hướng dẫn công tác chi hỗ trợ cho hoạt động xúc tiến thương mại theo hướng dành toàn bộ khoản chi này cho các chương trình xúc tiến trọng điểm của Nhà nước. Ngoài ra, Thủ tướng Chính phủ cũng đã cho phép thành lập 03 trung tâm giới thiệu sản phẩm của Việt Nam tại Hoa Kỳ, Nga và các Tiểu vương quốc A-rập Thống nhất. Nhìn chung, hoạt động xúc tiến ngày càng trở nên sôi động hơn, có thêm các hình thức xúc tiến mới. Các doanh nghiệp cũng đã và đang tham gia ngày càng tích cực và có trách nhiệm vào các chương trình xúc tiến của Nhà nước.
- Trong hoàn cảnh môi trường thương mại thế giới kém thuận lợi, rào cản kỹ thuật xuất hiện nhiều, các Bộ và Hiệp hội đã có sự phối hợp khá tích cực để theo dõi và nhận biết rào cản, từ đó lên phương án đối phó và đấu tranh bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh nghiệp Việt Nam. Tuy còn ít kinh nghiệm nhưng chúng ta cũng đã tương đối thành công trong việc giải quyết một số tình huống phức tạp nảy sinh trong xuất khẩu thủy sản vào EU, xuất khẩu rau quả vào Trung Quốc, xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ và Nhật Bản... Đây sẽ là những kinh nghiệm hết sức quý báu cho thời gian tới.
Tóm lại, nhằm xây dựng các mặt hàng chủ lực Chính phủ đều đã có chủ trương, trải rộng từ đầu tư đến sản xuất và lưu thông, từ tài chính - tín dụng đến thị trường và xúc tiến. Việc triển khai thực hiện các chủ trương này, tuy tốc độ nhanh chậm có chỗ, có lúc khác nhau nhưng nhìn chung thì cũng tương đối đạt yêu cầu. Nhiều vấn đề lâu nay bàn nhiều (như hỗ trợ tín dụng cho xuất khẩu, ưu đãi thuế cho doanh nghiệp vệ tinh, ký kết hợp đồng tiêu thụ nông sản hàng hóa cho dân...) đã được các Bộ, ngành quan tâm giải quyết trong năm 2002, góp phần tích cực cho thành công chung của hoạt động xuất khẩu.
1.2. Chính sách còn nhiều bất cập
Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, bối cảnh xuất khẩu trong những năm vừa qua đặt ra không ít thách thức đối với hoạt động xây dựng mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Các biện pháp khuyến khích sản xuất và xuất khẩu của ta tuy nhiều nhưng chưa thực sự đi vào chiều sâu, có chỗ có nơi còn chưa thông suốt và chưa nhất quán. Môi trường đầu tư, trong đó có môi trường chính sách, còn thiếu ổn định và tồn tại nhiều bất cập. Vì vậy, để thực hiện được mục tiêu định hướng đối với xuất khẩu tới năm 2010 cần có những giải pháp quyết liệt hơn nữa để tăng cường tính linh hoạt, năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng nhanh cho hoạt động xuất khẩu. Phương thức và kỹ năng tiến hành hoạt động xuất khẩu, trong đó có cả phương thức và kỹ năng điều hành, cũng cần được đổi mới và nâng cấp để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của tình hình mới. Môi trường thể chế cũng cần được tiếp tục hoàn thiện. Nhìn chung, ta cần nhanh chóng chuyển trọng tâm chính sách sang chú ý hơn tới chất lượng tăng trưởng..
Như vậy, có thể thấy rằng từ phía Chính phủ đã có những tác động tích cực trong việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đóng vai trò là người hướng dẫn cho các doanh nghiệp đi theo đúng định hướng phát triển của nền kinh tế đất nước và phù hợp với xu hướng vận động của kinh tế thế giới.
2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ lực chuyển dịch tích cực
Thực tế cho thấy, được sự quan tâm và chỉ đạo của Đảng và Chính phủ, cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có những chuyển dịch theo xu hướng đi lên. Nếu như những năm từ 1986 cho đến trước năm 1989, chúng ta chỉ xuất khẩu chủ yếu các mặt hàng công nghiệp nặng và khoáng sản như than đá, các loại quặng kim loại thô và sơ chế có giá trị thấp dưới 1 tỷ USD, thì đến năm 1989, từ chỗ trước kia phải nhập khẩu gạo, Việt Nam lần đầu tiên đã xuất khẩu gạo và liên tục từ đó đến nay chúng ta đã trở thành một trong những nhà cung cấp gạo lớn nhất thế giới. Năm 1991, dầu thô đã xuất hiện trong danh sách các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Cũng từ đây, kim ngạch xuất khẩu của ta mới đạt trên 1 tỷ USD và ngày càng tăng mạnh.
Năm 1992 là thời điểm Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn 2 của quá trình công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu với những ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động. Một số mặt hàng xuất khẩu thuộc nhóm hàng chế biến, chế tạo như dệt may, da giầy, thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, hàng điện- điện tử... đã dần dần có được vị trí trên thị trường thế giới, kim ngạch xuất khẩu của các mặt hàng này cũng tăng lên nhanh chóng, tuy đã tạo lập được vị thế trên thị trường song chưa vững chắc.
Những năm gần đây, Việt Nam nổi lên trở thành quốc gia có một số mặt hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng khá cao trên thị trường thế giới như gạo, hạt tiêu, hạt điều, thuỷ sản, cao su...Giá xuất khẩu của các mặt hàng này cũng đang dần đạt tới mức giá bán chung trên thị trường. Đây là một điều rất có lợi cho người sản xuất, các nhà xuất khẩu cũng như nguồn thu ngân sách Nhà nước.
Bên cạnh đó, hàng xuất khẩu chủ lực của ta cũng ngày càng được cải thiện về chất lượng, mẫu mã, đa dạng phong phú về chủng loại với giá trị xuất khẩu ngày càng cao do các doanh nghiệp đã biết đầu tư vào công đoạn chế biến. Sản phẩm xuất khẩu được chế biến sâu và tinh chiếm tỷ trọng cao trong tổng sản lượng xuất.
3. Cơ cấu thị trường có chuyển biến cơ bản
Một trong những thành tựu to lớn của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới là đã vượt qua được cuộc khủng hoảng về thị trường khi những thị trường truyền thống không còn nữa, bảo đảm được yêu cầu xuất nhập khẩu hàng hoá phục vụ sản xuất và tiêu dùng. Cơ cấu thị trường xuất khẩu cũng có những chuyển biến tích cực. Thay vào thị trường Liên Xô- Đông Âu, châu á nay đã nhanh chóng trở thành thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam, năm 1991 tỷ trọng của thị trường này chiếm 77% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Trong 2 năm sau, do khai thông thị trường châu Âu và Bắc Mỹ, tỷ trọng của thị trường Châu á có giảm xuống nhưng vẫn duy trì ở mức trên dưới 60% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào EU nói riêng và châu Âu nói chung tăng đều qua các năm. Năm 1991, tỷ trọng xuất vào EU mới chiếm 5,7% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và tới năm 2000 đã là 21,7%, đưa tỷ trọng xuất khẩu của Việt Nam sang châu Âu lên gần 28%. Bước đột biến trong quan hệ thương mại với EU tăng nhanh( năm 1990 ta mới xuất được 147 triệu USD thì năm 2000 đạt 2.875,7 triệu USD) và cán cân thương mại sang thị trường này bắt đầu có thặng dư trong vài năm gần đây.
Quan hệ thương mại với Bắc Mỹ, trong đó chủ yếu là Mỹ, đã có bước phát triển nhanh kể từ khi bình thường hoá quan hệ năm 1995. Lúc đầu, kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ chỉ đạt 170 triệu USD, nhưng cho đến năm 2000 đã đạt 732,44 triệu USD, chiếm tỷ trọng 5,1% trong tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước, hơn hẳn con số 3,1% năm 1995. Triển vọng ở thị trường này còn rất lớn, nhất là khi Việt Nam đã ký Hiệp định thương mại với Mỹ và được hưởng quy chế quan hệ thương mại bình thường (Normal Trade Relation- NTR).
Xuất khẩu sang thị trường châu Đại dương( chủ yếu là ôxtrâylia) cũng được tăng lên khá nhanh, tỷ trọng của thị trường này từ chỗ chỉ chiếm 0,2%( năm 1991) lên 8,89% vào năm 2000.
4. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo thành phần kinh tế nhưng tiềm năng của mọi thành phần kinh tế lại chưa được phát huy mạnh mẽ
Theo Nghị định 114/HĐBT ngày 7/4/1992 đã mở rộng quyền xuất nhập khẩu ra các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế nếu đáp ứng được điều kiện về vốn lưu động và nhân sự và đến nghị định 57/NĐCP ngày 31/7/1998 đã xóa bỏ hoàn toàn chế độ điều kiện kinh doanh xuất nhập khẩu mà nghị định trước đây đã quy định và cũng trong năm 1998 cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia xuất nhập khẩu. Như vậy cơ chế xuất nhập khẩu đã có những bước chuyển biến khá cơ bản theo hướng xoá bỏ cơ chế độc quyền ngoại thương, tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, các địa phương, các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất nhập khẩu.
Việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã làm cho kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh góp phần thúc đẩy quá trình CNH, HĐH và hội nhập của Việt Nam.
5. Sự hưởng ứng của doanh nghiệp chưa đồng đều
Sự phối hợp từ phía các doanh nghiệp được thể hiện ở việc doanh nghiệp chọn hướng đi đúng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình sao cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp đạt hiệu quả cao không chỉ về kinh tế cho mình mà còn mang lại hiệu quả kinh tế xã hội cho nền kinh tế và đất nước.
Các doanh nghiệp sản xuất cũng như xuất khẩu Việt Nam hiện nay cũng đã dần nhận thức được tầm quan trọng của việc phải tìm hiểu và tiếp cận các thông tin kinh tế thế giới một cách cập nhật để tìm ra những mặt hàng mà thị trường có nhu cầu và những yếu cầu về mặt hàng đó, thậm chí là yêu cầu của mỗi thị trường cho một loại mặt hàng. Từ đó doanh nghiệp có kế hoạch tổ chức sản xuất, áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng sản phẩm để có thể có được vị trí trên thị trường thế giới, tiến hành thâm nhập và lưu thông phân phối hàng hoá của mình với cả thương hiệu riêng của chính doanh nghiệp đó. Một số doanh nghiệp của Việt Nam đã làm được điều này như Công ty cà phê Trung Nguyên, May 10...
Bên cạnh đó còn nhiều doanh nghiệp còn chậm hoặc lúng túng trong sản xuất kinh doanh cũng như tìm hướng đi đúng cho mình trong hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa tương xứng với tiềm năng. Nhiều doanh nghiệp không đạt tỷ trọng xuất khẩu như quy định trong giấy phép đầu tư, hàng hoá sản xuất ra chủ yếu được tiêu thụ tại thị trường trong nước. Năm 2000, kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đạt 3,3 tỷ USD( chiếm 23,06% kim ngạch xuất khẩu cả nước), trong đó xuất khẩu máy móc thiết bị phụ tùng chỉ chiếm 0,87%; hàng sản xuất từ hàng nhập khẩu và gia công chiếm 84,58%, còn lại 14,56% là kim ngạch của khu chế xuất.
Cơ cấu lao động và kỹ thuật từng bước đổi mới theo hướng CNH- HĐH song sự chuyển đổi còn chậm và thiếu định hướng cụ thể
Theo đánh giá của Bộ thương mại và các Sở Thương mại cho thấy lực lượng lao động thương mại nói chung và xuất khẩu nói riêng còn nhiều bất cập như:
- Kiến thức về hội nhập quốc tế chưa được phổ biến rộng rãi trong cán bộ thương mại nói chung và cán bộ xuất khẩu nói riêng. Đây là một hạn chế đáng kể trong hoạt động xuất khẩu.
- Đa phần cán bộ quản lý và nghiệp vụ chưa biết sử dụng máy tính như một công cụ hay phương tiện quản lý hiện đại.
- Thiếu hụt lớn đội ngũ cán bộ, lao động chưa có kiến thức chuyên sâu phù hợp, đặc biệt trình độ ngoại ngữ còn yếu và chưa đồng đều.
- Tỷ lệ lao động chưa qua đào tạo ở các doanh nghiệp khá cao, nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu quốc doanh gây trở ngại không nhỏ đến chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu trong tình hình hiện nay.
Tóm lại, thực trạng về chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu từ sau khi đổi mới cho thấy, để có những bước tiến dài trong chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của ta trong giai đoạn tới đòi hỏi chúng ta phải thực hiện nhiều chính sách và biện pháp một cách đồng bộ và hữu hiệu. Có như vậy, trong giai đoạn tới xuất khẩu mới có thể trở thành động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH ở Việt Nam trong thế kỷ 21.
III. Kinh nghiệm xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của một số nước Đông á
1. Khái quát chính sách lựa chọn sản phẩm xuất khẩu của các nước Đông á kể từ khi bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá đến nay
Trong gần một nửa thế kỷ qua, trong xu thế phát triển mạnh mẽ của thương mại quốc tế, các nước Đông á đã từng bước đổi mới cơ cấu ngoại thương thông qua chính sách gọi là “đa dạng hoá ngoại thương”. Một trong những nội dung chủ yếu của chính sách này là mở rộng diện mặt hàng trên cơ sở tập trung ưu tiên có trọng điểm cho một số mặt hàng chủ lực, hay nói khác đi là đa dạng hoá hàng hoá xuất khẩu theo hướng công nghiệp hoá, đồng thời tập trung đầu tư vào một số mặt hàng chính.
Hướng phát triển chủ yếu của đa dạng hoá hàng hoá xuất khẩu là đi từ củng cố và phát triển các ngành truyền thống đi lên trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá.
Nói chung, sự thay đổi cơ cấu hàng hoá xuất khẩu gắn liền với sự thay đổi cơ cấu kinh tế trong quá trình công nghiệp hoá chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp. Cho đến nay, cơ cấu hàng hoá xuất khẩu của các nước bắt đầu công nghiệp hoá từ nền kinh tế nông nghiệp đã trải qua 3 bước phát triển chủ yếu sau:
Thời kỳ đầu (đầu những năm 50 và 60): khi nông nghiệp còn chiếm vị trí chủ đạo trong nền kinh tế, các cơ sở công nghiệp còn yếu kém, kỹ thuật lạc hậu thì sản phẩm thô và sơ khai chiếm gần như toàn bộ số mặt hàng xuất khẩu của nước này.
Thời kỳ tiếp theo (những năm 70): với sự phát triển tương đối khá mạnh của công nghiệp chế biến và chế tạo, trong cơ cấu xuất khẩu của các nước kể trên, sản phẩm thô và sơ khai dần dần nhường chỗ cho sự tăng lên của các sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo như hàng dệt, quần áo, máy móc, thiết bị vận tải và các sản phẩm chế tạo khác.
Thời kỳ thứ 3 (từ những năm 80 đến nay): nhiều nước châu á đã đạt được một trình độ phát triển công nghệ khá cao, trong đó có một số nước và vùng lãnh thổ như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapo được xếp vào hàng các nước công nghiệp mới, người ta ngày càng chú trọng tới khả năng xuất khẩu máy móc, thiết bị công nghiệp, đặc biệt là thiết bị điện tử.
Như vậy, một xu hướng phát triển tương đối phổ biến ở các nước Đông á là: cơ cấu xuất khẩu thay đổi theo hướng giảm dần xuất khẩu thuần tuý các loại tài nguyên thiên nhiên thô sơ sang tăng dần xuất khẩu các loại hàng hoá có hàm lượng tài nguyên lớn kết hợp với hàm lượng lao động cao (sản phẩm chế biến) hoặc hàng hoá có hàm lượng lao động cao (sản phẩm gia công lắp ráp), và khi nền công nghiệp đạt được một trình độ phát triển khá thì tiến tới tăng dần sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm kỹ thuật tinh vi, hiện đại. Đây cũng chính là sự thay đổi trong xu hướng xuất khẩu các mặt hàng xuất khẩu của các nước Đông á trong giai đoạn này.
Đặc biệt, họ không chỉ thực hiện đa dạng hoá hàng xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng hàng nguyên liệu và nông sản, tăng hàng hoá công nghiệp, mà còn tập trung xây dựng một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
Tóm lại, có thể khẳng định, đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu theo hướng công nghiệp hoá đồng thời tập trung ưu tiên có trọng điểm cho một số mặt hàng chủ lực là xu hướng phổ biến và tất yếu của các nước Đông á thời kỳ từ khi bắt đầu tiến hành công nghiệp hoá đến nay.
Tuy nhiên, để có một cái nhìn s