Khóa luận Xây dựng mô hình địa chất cho tầng chứa Miocene hạ

Môi trường trầm tích gồm hai môi trường chính là trầm tích biển (marine) và trầm tích đồng bằng ven bờ (coastal plain), trong đó trầm tích biển bao gồm ngoài khơi (offshore) và ven bờ (shoreface) (hình 14). Qua liên kết nhịp trầm tích trong giếng khoan cho thấy các tập chứa từ 1 đến 3 hầu như mang tính chất biển tiến (theo chiều thẳng đứng, càng lên trên trầm tích càng mịn hơn), trong khi các tập chứa 5 đến 6 thì trầm tích mang tính biển lùi (thô dần lên trên). Ở tập chứa 4, gần như trong tất cả các giếng khoan đều quan sát thấy trầm tích dạng bột, biểu hiện môi trường ổn định của thời kì ngập lụt lâu dài (major flooding surface). Trong khi ở tập 7, trầm tích lại mang đặc trưng rõ ràng của dạng đồng bằng ven biển với hệ thống sông ngòi, kênh rạch (meandering channel) và bị ảnh hưởng bởi thủy triều (tidal effected).

 

doc67 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2893 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Xây dựng mô hình địa chất cho tầng chứa Miocene hạ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h: gồm các trầm tích sông hồ, đầm lầy và trầm tích biển nông. Đây là tầng sinh dầu rất tốt, chiều dày từ 100-1000m và phủ hầu hết bồn trũng trừ phía Tây Bắc của lô 16. Hệ tầng Bạch Hổ Tuổi: Miocene hạ Thạch học: sét kết màu nâu, xám xanh xen kẽ với cát kết và bột kết. Tầng sét kết Rotalit nằm ở phần trên cùng của mặt cắt. Môi trường trầm tích: đồng bằng lòng sông – đồng bằng ven bờ ở phần dưới nhiều cát. Đồng bằng ven bờ – biển nông ở phần trên nhiều sét. Trong tầng này có tầng đá chắn tuyệt vời cho toàn bể (sét kết Rotalit), các tầng cát xen kẽ có chất lượng thấm, rỗng và độ liên tục tốt, được đánh giá là đối tượng chứa thứ hai ở bể Cửu Long, bề dày thay đổi từ 100 – 1500m (chủ yếu trong khoảng từ 400 – 1000m). Hệ tầng Côn Sơn Tuổi: Miocene trung Thạch học: gồm các tập cát dày gắn kết kém xen kẽ với các lớp sét vôi màu xanh thẫm, đôi chỗ gặp các lớp than và Dolomite, chủ yếu là trầm tích hạt thô, bề dày thay đổi từ 250 – 900m. Môi trường trầm tích: lòng sông ở phía Tây, đầm lầy – đồng bằng ven bờ ở phía Đông. Hệ tầng Đồng Nai Tuổi: Miocene thượngï Thạch học: gồm những lớp cát hạt trung xen kẽ với bột kết, phong phú Glauconit, bề dày thay đổi từ 500 – 750m. Môi trường trầm tích: đầm lầy – đồng bằng ven bờ ở phần Tây bể, biển nông ở phần Đông bể. Hệ tầng Biển Đông Tuổi: Pliocene – Đệ Tứ Thạch học: là cát mịn màu xanh, trắng, có độ mài tròn trung bình, độ lựa chọn kém, giàu Glauconit. Trong cát có cuội thạch anh hạt nhỏ. Phần trên các hóa thạch giảm, cát trở nên thô hơn, trong cát có lẫn bột, cát có màu hồng chứa Glauconit, bề dày thay đổi từ 400 – 700m. Môi trường trầm tích: biển nông ở phần Tây bể, lục địa ở trung tâm và phía Đông bể. Địa tầng của mỏ NP Mỏ NP thuộc bể trầm tích Cửu Long nên địa tầng ở đây có tính chất tương tự. Trong báo cáo này chỉ nghiên cứu tầng sản phẩm Miocene nên phần này sẽ mô tả chi tiết địa tầng Miocene hạ. Trên cột địa tầng chung của mỏ NP (hình 4), tầng Miocene hạ tương ứng với thành hệ Bạch Hổ – tập BI . Trầm tích Miocene hạ – điệp Bạch Hổ (N11 b.h): Trầm tích điệp này nằm bất chỉnh hợp trên các trầm tích nằm dưới. Bề mặt bất chỉnh hợp được thể hiện bởi phản xạ khá mạnh trên mặt cắt địa chấn. Đây là bề mặt bất chỉnh hợp quan trọng nhất trong địa chất địa tầng Kainozoi. Dựa vào tài liệu thạch học, cổ sinh, địa vật lý, điệp này chia làm hai phụ điệp: Phụ điệp Bạch Hổ dưới (N11 b.h1): Trầm tích của điệp này là các lớp cát kết lẫn với các lớp sét kết và bột kết, càng gần với phần trên của điệp khuynh hướng cát hạt thô càng rõ, cát kết thạch anh màu xám sáng, độ hạt từ nhỏ đến trung bình, độ lựa chọn trung bình, được gắn kết chủ yếu bằng ximăng sét, Kaolinit, lẫn với ít Cacbonat. Bột kết màu từ xám đến nâu, xanh đến xanh tối, trong phần dưới chứa nhiều sét. Phụ điệp Bạch Hổ trên (N12 b.h 2): Phần dưới của phụ điệp này là những lớp cát hạt nhỏ lẫn với những lớp bột rất mỏng. Phần trên chủ yếu là sét kết và bột kết, đôi chỗ gặp những vết than và Glauconit. Căn cứ theo nhận dạng về các mặt ngập lụt chính (flooding surfaces) (do thay đổi mực nước biển) mà các đơn vị trầm tích (sequences) đã được nhận dạng và phân chia từ nóc đến đáy của tầng chứa thứ nhất (Zone I) theo thứ tự từ 1-7. Phân chia này được thể hiện trên cơ sở tài liệu liên kết các giếng khoan (hình 5). Các đặc trưng chính của các đơn vị trầm tích này như sau: Đơn vị 7 (tập 7): Tướng đồng bằng ven bờ (coastal plain) và biển rìa Đơn vị 6 (tập 6):Tướng biển lùi (hạt thô dần lên trên–coarsening upward) Đơn vị 5 (tập 5): Tướng biển lùi (regressive) Đơn vị 4 (tập 4): Mực nước biển ổn định (major flooding surface) Đơn vị 3 (tập 3): Tướng biển tiến (hạt mịn dần lên trên – fining upward) Đơn vị 2 (tập 2): Tướng biển tiến (Progressive) Đơn vị 1 (tập 1): Tướng biển tiến. Đặc điểm địa chất từ trên xuống dưới của tầng Miocene hạ được mô tả như sau: Sét Bạch Hổ (Bạch Hổ Shale): Chủ yếu là bột kết, sét kết, được thành tạo trong môi trường biển tiến. Bột kết, sét kết có hình khối, màu xám xanh đến xám sáng, mềm, đôi chỗ tương đối cứng. Sét Bạch Hổ là một trong những tầng đánh dấu (marker) chính và tầng chắn của bể Cửu Long. Nó được phân bố rộng khắp toàn mỏ NP, với bề dày tương đối ổn định khoảng 110m ->140m. Sét Bạch Hổ có độ trương nở lớn và là nguyên nhân chính dẫn đến kẹt cần khoan, kẹt ống chống khi khoan ở mỏ NP và các cấu tạo khác. Đới I (Zone I): Chủ yếu là cát kết, đôi chỗ xen kẽ các tập than mỏng, được lắng đọng trong môi trường cửa sông và đồng bằng châu thổ. Cát kết có màu xám xanh, xám nâu, độ mài tròn và độ chọn lọc tốt. Xi măng gắn kết chủ yếu là vôi bở, vụn, đôi chỗ là thạch anh hoặc Kaolinite. Đới này có độ rỗng tốt, bề dày thay đổi từ 60 -> 110m. Đây là một đối tượng khai thác chính của mỏ NP. Đới II (Zone II): Chủ yếu là cát kết, đôi chỗ xen kẽ bột kết được thành tạo trong môi trường cửa sông và đồng bằng châu thổ. Cát kết có màu xám xanh đến xám sáng, độ mài tròn và chọn lọc trung bình. Xi măng gắn kết chủ yếu là vôi, thạch anh hoặc mica. Đới cát kết II có bề dày thay đổi từ 60 ->80m. Đới III (Zone III): Chủ yếu là cát kết, xen kẽ bột kết hoặc các tập than mỏng hình thành trong môi trường cửa sông và đồng bằng châu thổ. Cát kết có màu xám xanh đến xám sáng, độ mài tròn và chọn lọc trung bình. Xi măng gắn kết chủ yếu là vôi, thạch anh hoặc mica. Đới cát kết III có bề dày thay đổi từ 50 ->120m. Đới IV (Zone IV): Chủ yếu là cát kết, bột kết được thành tạo trong môi trường cửa sông và đồng bằng châu thổ. Cát kết có màu xám, độ chọn lọc trung bình. Xi măng gắn kết chủ yếu là thạch anh, mica, bề dày thay đổi từ 120 ->200m. Đới V (Zone V): Chủ yếu là cát kết, xen kẽ các tập than được thành tạo trong môi trường cửa sông và đồng bằng châu thổ. Cát kết có màu xám, độ mài tròn và chọn lọc kém. Xi măng gắn kết chủ yếu là thạch anh, mica. Đới cát kết V có bề dày thay đổi từ 190 ->220m. Đặc điểm hệ thống dầu khí mỏ NP Đặc điểm tầng sinh: Từ kết quả phân tích mẫu lõi, mẫu vụn trong các giếng khoan thăm dò, khai thác và nghiên cứu về địa hóa cho thấy rằng với các chỉ số TOC, HI và loại Kerogen, các tập sét kết của tầng Oligocene nằm ngay phía dưới tầng Miocene hạ chính là các đá sinh chính của mỏ NP. Đặc điểm tầng chứa: Các tập cát kết (từ Zone I đến Zone V) đều là các đối tượng chứa tốt của tầng Miocene hạ. Tuy nhiên, các kết quả thăm dò – thẩm lượng tầng Miocene hạ cho thấy chỉ có dầu trong Zone I là có tính thương mại. Tầng chứa Miocene hạ (Zone I) có dạng cấu trúc một nếp lồi khép kín bốn chiều phát triển theo hướng Đông Bắc – Tây Nam. Đặc điểm tầng chắn: Tập sét Bạch Hổ phủ ngay phía trên nóc của Zone I đóng vai trò tầng chắn cho tầng chứa Miocene hạ mỏ NP. Sét Bạch Hổ phát triển rộng khắp bể Cửu Long và có bề dày tương đối ổn định từ 110 ->140m. Đặc điểm kiến tạo và đứt gãy Đặc điểm kiến tạo và đứt gãy của mỏ NP mang đặc trưng kiến tạo chung của toàn bể Cửu Long. Vào cuối giai đoạn tạo Rift (Oligocene) xảy ra các chuyển động kiến tạo, một số đứt gãy tái hoạt động và hình thành các đứt gãy trượt ngang theo hướng Bắc – Nam hoặc Bắc Đông Bắc - Tây Tây Nam. Các phức hệ lồi chính bị phá vỡ bởi các nén ép khu vực dọc theo các đứt gãy tạo thành một loạt các đứt gãy nhỏ bậc thang theo hướng Bắc – Nam trong suốt giai đoạn lắng đọng trầm tích Oligocene thượngï Miocene hạ (hình 6). Nhìn chung, tầng Miocene hạ rất ít bị đứt gãy phá hủy. Ở phần trung tâm cấu tạo chỉ có một đứt gãy nhỏ kéo dài theo hướng Đông - Tây, chiều dài khoảng 1.5km (hình 7). Ở khu vực phía Tây Nam, mật độ đứt gãy dày hơn, các đứt gãy này chủ yếu phát triển theo hướng Đông Bắc - Tây Nam, hoặc Bắc – Nam. Tuy nhiên, do diện tích ở khu vực này hẹp và phần lớn nằm ngoài ranh giới dầu – nước, nên mức độ ảnh hưởng đến khả năng khai thác của vỉa là không lớn. Chương II MÔ HÌNH ĐỊA CHẤT Phương pháp xây dựng mô hình địa chất cho tầng Miocene hạ đi theo các trình tự cơ bản như sau: Chuẩn bị và chuẩn hóa số liệu đầu vào (Data Preparation) Xây dựng mô hình cấu trúc (Structural Modeling) Xây dựng mô hình phân bố tướng và môi trường (Facies Modeling) Xây dựng mô hình tham số (Petrophysical Modeling) Tính toán trữ lượng (Volumetric Calculation) Đánh giá và lựa chọn mô hình (Realization Validation and Ranking) Chuyển đổi tỷ lệ (Upscaling). CHUẨN BỊ SỐ LIỆU ĐẦU VÀO Để xây dựng mô hình địa chất ta phải chuẩn bị và nhập các thông số đầu vào như : số liệu các tầng địa chấn minh giải, số liệu đứt gãy, số liệu thuộc tính địa chấn, số liệu giếng khoan và thông số vật lý, các số liệu hệ tọa độ và giới hạn vùng công tác, v.v… dưới dạng các file dữ liệu bản đồ, giếng khoan, các file độ sâu các tầng chuẩn tại giếng khoan, các file đứt gãy, … ở dạng hàng cột (ASCII) hoặc mã binary phù hợp với yêu cầu của phần mềm (xem phần phụ lục) Số liệu thuộc tính địa chấn (seismic attributes) Các thuộc tính địa chấn được minh giải từ khối địa chấn 3D. Sau khi xem xét, đánh giá đã chọn ra 2 thuộc tính cơ bản (hình 8 & 9) sau đây: Biên độ biểu kiến (Integrated Seismic Amplitude) Pha biểu kiến (Integrated Seismic Phase) Mỗi thuộc tính trên đều được phân chia thành 3 mức, tương ứng với 3 khoảng chứa là P (gồm tập chứa 1 và 2), Q (các tập 3, 4 và 5) và R (các tập 6 và 7) cụ thể như sau: Phần trên (upper): từ nóc tập chứa (Zone1) + 6ms. Phần giữa (middle) : từ nóc tập chứa (Zone1) + 20ms. Phần dưới (lower) : từ nóc tập chứa (Zone 1) + 26ms. Tổng chiều dày của cửa sổ thời gian là 48 ms (các phần có phủ chờm lẫn nhau) tương ứng với chiều dày trung bình của tầng chứa I (Zone I) là 55-60m. Công việc đánh giá thuộc tính địa chấn và xác định mối quan hệ với các thông số quan trọng như NTG (tỷ số bề dày hiệu dụng/bề dày tổng), độ rỗng được tiến hành sau khi đã xây dựng xong mô hình cấu trúc ba chiều. Để sử dụng các thuộc tính địa chấn, chúng ta có thể đưa số liệu này vào mô hình ở dạng khối 3 chiều hoặc hai chiều (thời gian hoặc độ sâu). Tiêu chuẩn để lựa chọn thuộc tính địa chấn là: Hệ số liên kết với thông số địa chất (NTG, độ rỗng, Vcl, v.v) phải đủ lớn. Thường hệ số tương quan này tốt nhất là lớn hơn 0.5. Biểu đồ phân bố thống kê của thuộc tính địa chấn tại giếng khoan và ngoài giếng khoan phải có tính tương đương về hình dạng, về các giá trị trung bình, lớn nhất và nhỏ nhất. Qua chương trình phần mềm dạng địa chấn nghịch đảo (seismic inversion technique) thuộc tính địa chấn có thể được biến đổi thành “độ rỗng địa chấn” tương ứng với các tập chứa, và được mô hình sử dụng như tài liệu thứ cấp (secondary data) để kiểm soát phân bố tham số độ rỗng ngoài giếng khoan. Tạo các file dữ liệu giếng khoan để đưa vào mô hình địa chất Sau khi đã có đầy đủ các số liệu như tướng thạch học, độ rỗng, độ bão hòa, độ sâu các tầng chuẩn, nhịp trầm tích (sequence hay unit), tọa độ thân giếng khoan (well deviation survey), một trong các công việc quan trọng cuối cùng cần chuẩn bị là thành lập các file dữ liệu giếng khoan. Mỗi giếng khoan có một file số liệu theo một định dạng chuẩn mà chương trình đòi hỏi (Xem phụ lục 1). Tạo các file độ sâu tầng chuẩn theo giếng khoan Để phục vụ cho việc mô hình hóa địa tầng, chính xác hóa độ sâu giữa các bản đồ địa chấn chuẩn với độ sâu gặp tầng chuẩn tại các giếng khoan nhằm tạo ra các bản đồ nóc và đáy các phân nhịp trầm tích từ kết quả minh giải địa chấn (seismic interpretation), việc tạo các file tầng chuẩn các giếng khoan (theo TVDSS) là cần thiết. Dạng file thường là ASCII (hàng, cột) với các thông số thống nhất với số liệu địa vật lý giếng khoan (tọa độ, độ sâu tầng chuẩn, v.v.) và phân tầng địa chất (theo phân tích mẫu) (xem phụ lục 2) Tạo các file đứt gãy Hệ thống đứt gãy đóng vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng MHĐC 3 chiều. Khác với mô hình hai chiều hoặc các dạng vẽ bản đồ thông thường, MHĐC ba chiều đòi hỏi phải sử dụng số liệu hệ thống đứt gãy ba chiều (chiều sâu đứt gãy, mặt nghiêng (mặt trượt) đứt gãy và độ lớn dịch chuyển) hay fault stick. Tùy theo quan điểm thủy động lực liên quan đến dịch chuyển nước đáy (acquifer) và độ liên kết (connectivity) mà có thể chỉ một số lượng nhất định các đứt gãy được sử dụng (xem phụ lục 3). Tạo các file bản đồ Số liệu minh giải của tầng nóc Bạch Hổ Shale (dạng thời gian) được biến đổi thành độ sâu (time-depth conversion) và sau đó sử dụng phần mềm bản đồ CPS-3 (Schlumberger) hoặc RMS (Roxar) để tạo ra bản đồ nóc tập chứa 1 (unit 1) và đáy tập chứa 1 (nóc unit 2) rồi sau đó xuất ra (export) dưới dạng ASCII file ( ví dụ gồm 3 cột x, y và độ sâu TVDSS) hoặc binary (.svs) để nạp vào phần mềm (xem phụ lục 4). XÂY DỰNG MÔ HÌNH CẤU TRÚC Mô hình cấu trúc được giới hạn bởi nóc và đáy của tập chứa 1 (unit 1) và bao gồm hệ thống đứt gãy xuyên cắt qua tập chứa này. Xây dựng mô hình cấu trúc (MHCT) ba chiều chính là xây dựng phần khung (framework) cho phân bố các tham số. Các bước cơ bản để xây dựng MHCT được tiến hành như sau: Mô hình hóa địa tầng (stratigraphy modeling) Mô hình hóa đứt gãy (fault modeling) Tạo mô hình mạng 3 chiều (3D Grid generation) Phần mô hình hóa địa tầng: chủ yếu là tạo ra các bản đồ nóc các phụ tập chứa, chính xác hóa các bản đồ sao cho độ sai lệch giữa bản đồ địa chấn và và độ sâu địa tầng tại các giếng khoan được khống chế để không lớn hơn sai số cho phép (thường nhỏ hơn 1m). Phần mô hình hóa đứt gãy: là phần phức tạp và chiếm khối lượng lớn thời gian vì hệ thống đứt gãy được lấy ra từ minh giải địa chấn thường chưa được chuẩn hóa và chọn lọc nên phải sửa chữa và hiệu chỉnh cho từng đứt gãy (fault 3D editor). Ngoài ra, quan hệ giữa các đứt gãy và hệ thống đứt gãy (theo hướng ĐB – TN và Đ –T) cũng được xem xét sao cho thể hiện được nguồn gốc và bản chất sinh thành của chúng. Mối liên quan nội tại của hệ thống đứt gãy rất quan trọng vì chúng liên quan trực tiếp đến sự vận động của hệ thống thủy động lực của cả mô hình. Kết quả của mô hình đứt gãy tạo ra các mặt trượt, ranh giới tương ứng và phù hợp với các mặt cấu trúc của các tập chứa. Phần tạo mô hình mạng ba chiều: việc tạo ra mạng 3 chiều (3D grid) đóng vai trò quan trọng, là công cụ để đánh giá chính xác và đồng bộ của các số liệu đầu vào, bao gồm giếng khoan, bản đồ, đứt gãy. Mạng 3 chiều được tạo ra dựa trên tư duy địa chất chung như trục cấu tạo, tính bất đẳng hướng địa chất theo các chiều x, y và z của môi trường, tướng và tham số. Các thông số của mạng 3 chiều được trình bày trong Bảng 1. Bảng 1: Tham số ô mạng của mô hình Tập chứa Số hàng Số cột Số lớp Độ dày của lớp Số ô Kích thước ô Nhỏ nhất Trung bình Lớn nhất Tập 1 198 231 13 0.018 0.202 0.395 594.594 100m x 100m Việc kiểm tra mô hình cấu trúc có thể thực hiện bằng cách tạo ra và xem xét các mặt cắt cấu trúc dọc và ngang (structural cross section) (hình 10 và 11). Các ô mạng của tầng nghiên cứu (tập chứa 1) được phân bố trên hệ trục tọa độ với các tham số được mô tả ở hình 12. Việc phân chia lớp cho tập chứa (layering) chủ yếu căn cứ vào kết quả phân tích tài liệu địa vật lý giếng khoan (ĐVLGK) như GR, điện trở, v.v… và kết quả phân tích thống kê số liệu đầu vào (statistic data analysis) như biểu đồ phân bố (histogram), các giá trị trung bình (mean) và độ lệch so với giá trị trung bình (standard deviation) của bề dày lớp trong toàn vùng công tác theo số liệu của tất cả các giếng khoan. Việc phân chia lớp được tiến hành theo hai phương pháp: phân chia đều theo bề dày cố định kể từ nóc (hoặc đáy) tập chứa (phương pháp single reference) hoặc chia đôi từng phần (phương pháp proportional) theo số lượng lớp cố định. Tuy nhiên, bề dày lớp trong tập chứa phải được xác định sao cho nhỏ hơn 1/3 bề dày hiệu dụng của vỉa cát và số lượng ô mạng của mô hình không quá lớn phù hợp với khả năng của máy. Sau khi xây dựng mô hình cấu trúc thì các số liệu vào như tướng, độ rỗng, thuộc tính địa chấn,… sẽ được đưa vào tương ứng với từng ô mạng (scale up log) và cho phép tiến hành phân tích đánh giá theo phép thống kê xác suất. Các tham số chủ yếu như tướng (bề dày, phần trăm) và độ rỗng (PIGN hoặc PHIT) được phân tích chi tiết theo biểu đồ phân bố (histogram), đồ thị biến đổi ba chiều (variogram) (hình 13) và qua sử dụng một số phép biến đổi thích hợp (transform) để đưa phân bố các tham số về phân bố chuẩn Gauxơ. XÂY DỰNG MÔ HÌNH TƯỚNG THẠCH HỌC VÀ MÔI TRƯỜNG Thông tin về môi trường trầm tích, tướng chủ yếu dựa vào phân tích mẫu lõi (core), mẫu vụn (cuttings) và khảo sát thực địa (field trip). Việc mô hình hóa tướng chủ yếu được thực hiện dựa trên phương pháp phân bố chuẩn Gauxơ (Sequencial Gaussian Indicator) trên cơ sở quan niệm tướng (facies) là tham số không liên tục (decrete). Từ đây, các tướng cũng như môi trường có thể được định nghĩa và mã số hóa như cát có mã là 1, sét là 2, v.v... Tuy nhiên, tùy theo tính đơn giản hay phức tạp về địa chất và độ tin cậy về tài liệu hiện có của vùng mỏ mà ta có thể xây dựng mô hình ‘đơn’ (chỉ gồm cát và sét) hoặc đa tướng (từ ba tướng trở lên). Cụ thể, với tầng trầm tích Miocene hạ của mỏ NP, việc mô hình hóa tướng và môi trường trầm tích được thể hiện như sau: Môi trường trầm tích Môi trường trầm tích gồm hai môi trường chính là trầm tích biển (marine) và trầm tích đồng bằng ven bờ (coastal plain), trong đó trầm tích biển bao gồm ngoài khơi (offshore) và ven bờ (shoreface) (hình 14). Qua liên kết nhịp trầm tích trong giếng khoan cho thấy các tập chứa từ 1 đến 3 hầu như mang tính chất biển tiến (theo chiều thẳng đứng, càng lên trên trầm tích càng mịn hơn), trong khi các tập chứa 5 đến 6 thì trầm tích mang tính biển lùi (thô dần lên trên). Ở tập chứa 4, gần như trong tất cả các giếng khoan đều quan sát thấy trầm tích dạng bột, biểu hiện môi trường ổn định của thời kì ngập lụt lâu dài (major flooding surface). Trong khi ở tập 7, trầm tích lại mang đặc trưng rõ ràng của dạng đồng bằng ven biển với hệ thống sông ngòi, kênh rạch (meandering channel) và bị ảnh hưởng bởi thủy triều (tidal effected). Tướng thạch học Theo các phân chia môi trường như trên, trong mỗi môi trường trầm tích đều có đặc trưng tướng riêng biệt của chúng, có thể được mô tả như sau: Môi trường đồng bằng ven bờ: tướng vũng vịnh (6) và tướng sông ngòi kênh rạch (5). Môi trường biển ven bờ: tướng cát thô đến trung bình (4) và cát hạt mịn (3). Môi trường biển ngoài khơi: tướng cát rất mịn lẫn bột (2) và sét (1). Theo tài liệu liên kết các giếng khoan, độ sâu tại các ranh giới của các nhịp trầm tích được xác định. Đây cũng chính là độ sâu của nóc các tập chứa. Các giá trị này sẽ dùng để chính xác hóa bản đồ nóc của các tập chứa. Tướng thạch học được minh giải và phân tích dựa trên kết quả phân tích mẫu lõi, mẫu vụn, v.v. kết hợp với việc phân tích tướng dựa trên tài liệu log (chương trình phần mềm Rockclass hoặc Rockcell hay Litho Toolkit của Schlumberger). Vì lý do phần mềm này mới và hữu dụng cho việc phân tích tướng thạch học nên việc giới thiệu nó trong tiểu luận tốt nghiệp này là cần thiết. Qui trình phân tích tướng bằng Rockcell nói chung được tiến hành theo hai bước chính sau đây: + Nhận dạng, phân tích tướng trong tầng chứa dựa theo các giếng chuẩn là giếng đã có các mẫu lõi, trên các đường log thông thường (GR, LLD, LLS, MSFL, DT, RHOB, NPHI) (unsupervised mode). + Ước định và chính xác hóa các tướng theo ranh giới thẳng đứng và tạo nên đường log tướng mô phỏng (supervised mode). Các giếng khoan được chọn để phân tích phân chia thành các nhóm, trong đó mỗi nhóm có từ một đến nhiều giếng khoan phân tích mẫu mà các tướng đã được xác định với hệ số tin tưởng cao. Một số kết quả phân tích tướng thạch học, môi trường bằng phần mềm Rockcell của các tập chứa được minh họa trong hình 15-17. Hướng trầm tích Qua một số nghiên cứu khu vực, liên kết các giếng khoan và biểu hiện trên tài liệu thuộc tính địa chấn (hình 8 và 9) cho thấy khả năng hướng đường bờ á song song với hướng Bắc – Nam (270 độ), như vậy hướng trầm tích hay hướng cung cấp vật liệu sẽ gần như TB – ĐN, tức là gần vuông góc với hướng đường bờ. Tuy nhiên, trong quá trình trầm tích theo thời gian từ tập 7 đến tập 1, các hướng trầm tích có thay đổi, ước tính từ 5 – 10 độ. Góc trầm tích (hình 18) Theo lý thuyết, góc trầm tích thường không lớn quá 0.2 (radian). Với trầm tích Miocene ở mỏ NP, giá trị này có thể thay đổi từ 0.02 đến 0.07 tùy theo tập chứa. Giá trị góc có thể mang dấu dương hoặc âm phụ thuộc vào tính biển tiến hay biển lùi, cụ thể là tùy thuộc vào quan hệ thế nằm của các tướng. Các bước mô hình hóa Mô hình hóa các tướng thực chất là mô hình hóa một hay nhiều tướng trên nền của mộât tướng khác (tướng nền hay background facies) sao cho đảm bảo số phần trăm (facies proportion) lân cận với giá trị đầu vào khi ta tiến hành mô hình hóa tướng. Mô hình hóa môi trường là kết quả của sự phân bố tướng thạch học theo không gian ba chiều với các tọa độ biên được xác định từ giếng khoan. Vì lý do nhiều tham số còn mang tính ước định, chưa đo được cụ thể hoặc còn có sai số (ví dụ như hướng và góc trầm tích, bề dày thân cát ngoài giếng khoan, …) nên xây dựng đa mô hình (lớn hơn 10) sẽ giúp giảm thiểu sai số và rủi ro địa chất. Đây cũng là lý do chính để áp dụng phương pháp “Địa chất xác suất” (Geostatistic) trong mô hình hóa vỉa chứa. Bằng các khái niệm đã trình bày ở trên, cộng với các phân tích thống kê định lượng, mô hình hóa môi trường và tướng được tiến hành theo các bước sau đây: Xây dựng mô hình phân bố môi trường trầm tích: các ranh giới giữa các môi trường được xác định qua một số giếng khoan, gồm các giá trị: tọa độ x, y, z; hướng, v.v theo quy luật từ đồng bằng ven bờ -> biển ven bờ -> biển ngoài khơi. Xây dựng mô hình đồng bằng ven bờ (Fluvial Simulation): mục đích chính là xây dựng mô hình phân bố hệ thống sông ngòi, kênh rạch phát triển trên nền đồng bằng châu thổ. Các số liệu phân tích tướng lòng sông cổ (channel) từ các giếng khoan và các số liệu thống kê khu vực, thế giới cho phép mô tả kích thước,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXây dựng mô hình địa chất theo phương pháp Geostatistic (tạm dịch là Địa chất xác suất).doc
Tài liệu liên quan