Khóa luận Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch Chùa Hương

Trong những năm gần đây lượng khách lưu lại qua đêm tại khu du lịch vẫn còn rất thấp mà như vậy có nghĩa khu du lịch nói chung và các nhà kinh doanh du lịch đã mất một nguồn thu rất lớn, chưa khai thác hết tiềm năng của khu du lịch. Trong những năm tới chúng ta phải đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng phục vụ ngày càng cao để thu hút khách du lịch đặc biệt là khách quốc tế. Các nhà quản lý và kinh doanh tại khu du lịch phải quan tâm để nâng số ngày bình quân lưu trú của khách quốc tế là 2.5 ngày từ năm 2005 và đến năm 2010 là 3 ngày. Bình quân số ngày lưu trú của khách nội địa vào năm 2002 là 2 ngày, đến năm 2005 đạt 2.5 ngày và tăng dần lên đến năm 2010 đạt 3 ngày.

docx65 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2491 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Xây dựng mô hình quản lý khai thác khu du lịch Chùa Hương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. % 8.6 8.9 9.4 8,7 9.0 100% 101% (Nguồn: Sở Du lịch Hà Tây) Nhận xét: Nhìn vào bảng ta thấy số nộp ngân sách của chùa Hương từ năm 1998-2000 tăng nhanh nhưng đến năm 2002 thì tình hình nộp ngân sách giảm chỉ đạt 4,23 tỷ đồng; giảm 8% so với năm 2000 và giảm 9.9 % so với kế hoạch năm 2002. Mặc dù tình hình nộp ngân sách Du lịch của toàn tỉnh là tăng. Đây là tình trạng đáng lo ngại đối với hoạt động Du lịch tại khu vực chùa Hương. Do đó, toàn ngành Du lịch tỉnh Hà Tây đặc biệt là huyện Mỹ Đức cần có biện pháp đầu tư, quản lý phát triển du lịch để thu hút khách, tăng tổng doanh thu để tăng nhanh nguồn thu ngân sách của khu vực và toàn ngành nói chung và tỉnh nói riêng. Ngoài ra chính biện pháp quản lý còn lỏng lẻo, nhiều cán bộ chỉ vì lợi ích trước mắt đã giúp những hộ kinh doanh chốn thuế. Nhiều cán bộ làm ở bộ phận gác cổng đã cấu kết với những người làm nghề môi giới đón khách giữa đường. Khi đó khách vẫn phải bỏ số tiền bằng vé tham quan nhưng nhà nước không thu được đồng nào mà hoàn toàn vào tay những người đó. Muốn nâng cao nguồn ngân sách nhà nước không chỉ tập chung đầu tư phát triển kinh doanh. thu hút khách mà cần có biệt pháp quản lý chạt chẽ, hình thức xử phạt nghiêm khắc đối với cán bộ vi phạm. 2.1.4. Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ phát triển Du lịch. 2.1.4.1. Cơ sở phục vụ lưu trú. Đây là việc cung cấp các phòng trọ trong khách sạn, nhà khách, nhà nghỉ, các điểm lưu trú cho khách nghỉ qua đêm. Bảng 6 : Tình hình cung ứng dịch vụ lưu trú tại khu vực chùa Hương năm 2002 Nội dung Đ/vị tính Số lượng Nhà nước Số khách sạn Khách sạn 3 Số phòng Phòng 146 Tư nhân Khách sạn, nhà nghỉ Khách sạn 9 Số phòng Phòng 80 Nhà trọ Nhà 100 (Nguồn: Sở Du lịch Hà Tây) Nhận xét : Đây là toàn bộ đơn vị kinh doanh lưu trú trong khu vực có đăng kí kinh doanh. Đây là lĩnh vực kinh doanh phục vụ khách còn rất nhiều hạn chế chưa tìm ra được biện pháp tốt. Tuy số các khách sạn còn ít so với lượng khách đến vào mùa lễ hội nhưng vẫn không sử dụng hết công suất phong vì rất nhiều yếu tố như chất lượng cơ sở vất chất cũng nh trình độ phục vụ của đội ngũ nhân viên. Trong các khách sạn của công ty và khách sạn tư nhân đều chưa đạt tiêu chuẩn. Các khách sạn nhìn chung còn có chất lượng kém do lâu ngày không được tu bổ sửa chữa. Các tiện nghi sinh hoạt trong khách sạn còn nghèo nàn, trang thiết bị không đồng bộ nên khả năng đáp ứng nhu cầu của khách là kém. Điều này dẫn đến tình trạng doanh thu từ việc thuê phòng của các công ty Du lịch chưa cao và không hấp dẫn khách ở lại qua đêm tại các điểm Du lịch. Các nhà trọ của người dân trong vùng càng không đảm bảo đáp ứng nhu cầu của khách. Tình trạng chen lấn mất vệ sinh kéo dài. Thêm vào đó công trình vệ sinh không có hoặc không đảm bảo. Mặc dù điều kiện như vậy nhưng giá cả thường không ổn định gây ra không ít khó khăn cho khách. 2.1.4.2. Cơ sở phục vụ dịch vụ ăn uống. Trong những năm qua, dịch vụ ăn uống tại đây còn tỏ ra yếu kém, không đủ năng lực phục vụ khách. Thực tế là trong các cửa hàng ăn uống của các Nhà hàng, món ăn chưa được phong phú, nấu nướng chưa ngon, thái độ phục vụ chưa tốt, đặc biệt là giá cả quá đắt đỏ. Với những lý do đó thì hầu như các cửa hàng ăn uống của các công ty Du lịch chỉ phục vụ một số ít các khách theo đoàn còn chủ yếu khách mang theo đồ ăn hoặc ăn tại các quán tư nhân. Các cửa hàng phục vụ ăn uống của tư nhân được làm tạm thời nên vệ sinh chưa thật đảm bảo. Vào mùa lễ hội số lượng khách tập trung nhiều vào một thời điểm rất ngắn nên việc phục vụ cũng như sinh hoạt của khách còn gặp nhiều khó khăn. Bảng 7: Tình hình cung ứng dịch vụ ăn uống tại khu vực chùa Hương năm 2002 STT Địa điểm Số lượng cửa hàng Diện tích (m2) 1 Khu Bến Đục 15 350 2 Khu Bến Yến 21 465 3 Khu Thiên Trù 30 569 Tổng cộng 66 1384 (Nguồn: Sở Du lịch Hà Tây) Đây là con số các nhà hàng ăn uống có đăng ký kinh doanh và có quy mô, chỉ phục vu du khách nhu cầu ăn uống. Tuy nhiên ở khu du lịch chùa Hương dịch vụ ăn uống đa phần được các nhà trọ tư nhân phục vụ chung với dịch vụ lưu trú các nhà trọ này không đảm bảo yêu cầu vệ sinh thực phẩm cũng như nơi đón tiếp khách. Phần chi tiêu cho nhu cầu ăn uống của du khách trong mùa lễ hội là rất lớn, chiếm 40 - 50% tổng số chi tiêu của khách trong cả chuyến đi. Nếu được tổ chức tốt dịch vụ ăn uống thì các công ty du lịch vừa được một khoản doanh thu lớn mà còn giải quyết được những vấn đề môi trường do hậu quả từ việc khách tự mang đồ ăn và vứt rác làm mất vệ sinh gây ô nhiễm cảnh quan, môi trường. Mặt khác các quán hàng tư nhân mọc lên gây lộn xộn trong các điểm du lịch làm mất mỹ quan. Hơn nữa rác thải của các quán ăn vứt bừa bãi xung quanh dẫn đến nguy cơ gây ô nhiễm môi trường. 2.1.4.3. Giao thông. Đây là một nhược điểm lớn của khu Du lịch. Tuy có hệ thống đường bộ và đường sông khá phong phú nhưng quy mô và chất lượng đường còn kém. Trên các tuyến đường chính lòng đường nhiều đoạn còn quá hẹp do việc lấn chiếm của nhân dân hai bên đường. Nhiều đoạn đường bị cày xới khấp khểnh do đào cống thoát nước hay sử dụng lâu ngày mà không được tu sửa đặc biệt là đoạn đường cách chùa hơn 10km. - Thêm vào đó khu vực chùa Hương là vùng đồng chiêm trũng thường xuyên bị ngập úng và hàng năm có từ 2-5 trận lũ núi vì vậy đường xá bị sạt lở xuống cấp gây nhiều khó khăn cho du khách. - Hệ thống đường mòn nối giữa các đền chùa, hang động cũng không đảm bảo an toàn cho khách du lịch. Với chất lượng đường như vậy vào mùa lễ hội tình trạng ách tắc giao thông luôn xẩy ra, một số vụ tai nạn trên các tuyến đường này cũng tăng nhanh trong trong những năm vừa qua. Tình trạng này gây nên tốc độ di chuyển của các phương tiện vận chuyển là thấp, tốn thời gian nghỉ ngơi của du khách trong các chuyến Du lịch gây bất tiện và tâm lý không thoải mái cho khách. - Ngoài ra, đặc điểm của khu Du lịch chùa Hương là phải qua suối Yến bằng đò một đoạn đường dài trong thời gian hơn 1 tiếng do đó giao thông trên nước ở đây cũng rất quan trọng. Tuy nhiên số xuồng được trang bị đủ thậm chí rất nhiều hơn so với lượng khách tới tham quan (6000 đò) nên dẫn đến tình trạng tranh giành khách mất trật tự trị an.Vào mùa lễ hội lượng khách tập trung rất đông đặc biệt vào thứ bảy và chủ nhật nên khu vực bến đò lúc nào cũng tắc đường gây cản trở khó khăn cho khách. - Vệ sinh trên suối tuy đã được công ty vệ sinh môi trường xử lý nhưng vẫn chưa đảm bảo. Vẫn còn nhiều rác trên suối Yến gây mất vệ sinh và mất mỹ quan. Dọc hai bên bờ suối các hộ kinh doanh và khách du lịch vứt xuống không được dọn kịp thời. 2.1.4.4. Các cơ sở vật chất kĩ thuật khác. * Hệ thống cung cấp nước: - Hệ thống cung cấp nước máy cho toàn khu vực đường là một vấn đề nóng bỏng của toàn khu vực này. Nước đã được đưa lên các vùng cao để phục vụ ăn uống và sinh hoạt cho khách nhưng chưa được đáp ứng đầy đủ gây ấn tượng xấu đối với khách du lịch. - Hệ thống điện: Trong những năm gần đây hệ thống điện đã được lắp và cung cấp cho khách du lịch tới tham quan - Hệ thống thông tin liên lạc: Thông tin liên lạc ngày càng trở thành nhu cầu tất yếu đối với du khách nước ngoài và thương nhân. Trong những năm gần đây thông tin liên lạc đã được trang bị đến mức độ nào đó nhưng phần nào còn nhiều hạn chế khả năng đáp ứng nhu cầu của khách, còn ít các điểm điện thoại công cộng. - Ngoài ra khu du lịch chùa Hương là một điểm có thể phát triển nhiều loại hình du lịch khác nhau để hấp dẫn du khách, tuy vậy muốn kéo thời gian lưu lại dài cần phải đầu tưư cho khu vui chơi giải chí,và hệ thống cơ sở hạ tầng và kỹ thuật. 2.1.4.5. Nguồn nhân lực. Lực lượng lao động trong ngành Du lịch trên địa bàn huyện Mỹ Đức tập trung chủ yếu tại các công ty, các doanh nghiệp nhưng có sự phân bố không đồng đều. Số lượng phục vụ tại các cơ sở lưu trú chiếm tỉ lệ thấp trong tổng số lao động (35%). Trong khi đó lực lượng lao động chở đò có khoảng 6.000 người chiếm một lượng khá động dẫn đến tình trạng cung lớn hơn cầu, tình trạng tranh giành khách liên tiếp xẩy ra. - Điều đáng chú ý là lực lượng lao động trong khu vực trình độ còn hạn chế, số lượng lao động được đào tạo qua các trường Du lịch còn ít mà chủ yếu là được học qua các khoá học do công ty tổ chức. Nhìn chung so với những năm trước tỉ lệ cán bộ có trình độ đã tăng lên nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu. Song song với vấn đề đó thu nhập người lao động trong các công ty du lịch còn thấp (thu nhập bình quân 1người/tháng: 286.000). Đây là một trong những nguyên nhân gây ra chất lượng và hiệu quả công việc chưa đạt tiêu chuẩn cao vì bản thân người lao động chưa yên tâm với việc làm đảm bảo cuộc sống cá nhân và gia đình họ. Nhân dân trong vùng chưa được đào tạo nâng cao hiểu biết về du lịch, văn minh trong du lịch. Chính điều đó làm hạn chế chất lượng phục vụ khách du lịch. Thậm chí một số người dân địa phương chỉ vì mục đích lợi nhuận trước mắt, với suy nghĩ khách hiếm khi trở lại tham quan lần nữa nên phục vụ có những hành vi tiêu cực như bắt chẹt khách, ép giá khách. Muốn khu du lịch chùa Hương ngày càng phát triển thì phải phổ biến nâng cao hiểu biết cho nhân dân địa phương. 2.1.4.6. Y tế, bảo hiểm. Khu Du lịch thắng cảnh chùa Hương là khu Du lịch có cả địa hình sông núi và mặt nước rộng, việc tiến hành các hoạt động Du lịch của khách nh Du lịch leo núi, Du lịch trên mặt hồ nước có độ sâu và bề rộng lớn thì dù có cẩn thận đến mấy cũng không thể không có những tai nạn rủi ro xẩy ra. Vì vậy vai trò của các cơ quan cơ sở cấp cứu y tế bảo hiểm là rất quan trọng. Về lĩnh vực này có thể nói đây là một trong những khâu yếu kém của khu vực chùa Hương. Nó biểu hiện ở chỗ các trang thiết bị cần thiết cho việc cấp cứu cho nạn nhân khi xẩy ra tai nạn rất nghèo nàn, cơ sở y tế, cấp cứu còn ít, thiếu các phòng sơ cứu có trang thiết bị hiện đại, không xe cứu thương nên có tai nạn phải gọi đến các bệnh viện cho xe đến. Điều này đôi khi gây nên khó khăn cho công tác chăm sóc sức khoẻ cho du khách. Tuy nhiên, hoạt động bảo hiểm cho khách đã được tiến hành. Các tổ chức Du lịch đã liên kết với các hãng bảo hiểm để bảo hiểm cho khách thông qua giá vé thắng cảnh. Hình thức này không gây phiền hà cho khách mà việc của các tổ chức Du lịch cũng được thực hiện đơn giản hơn. * Những nhận xét, đánh giá về tình hình Du lịch chùa Hương - Những thành công: + Một số chùa, động hoạt động trái phép đã được các cơ quan có thẩm quyền kiên quyết cấm hoạt động + Hệ thống thông tin liên lạc đã tương đối tốt để phục vụ nhu cầu của khách. Hệ thống hộp điện thoại công cộng được dựng những nơi thuận tiện và số lượng cũng tăng lên. + Hệ thống các sọt rác công cộng đã phần nào làm giảm sự mất vệ sinh tại điểm Du lịch, và được bố trí phù hợp với cảnh quan gây được ấn được tốt với du khách. + Hiện tượng ăn xin gần như không còn, mất trộm cắp đã giảm. Có những phòng thường trực của công an huyện Mỹ Đức trên đường đến các hang, động chùa tại điểm Du lịch đã hạn chế được tình trạng mất trật tự và an ninh đã được đảm bảo hơn trước. - Những hạn chế : + Trong những năm qua trong hoạt động du lịch rất phổ biến ở khu du lịch là thói quen tự túc mang đồ ăn uống trong mỗi chuyên đi. Đây chính là mặt hạn chế của điểm du lịch. Đối với khách du lịch việc chuẩn bị cho các bữa ăn vừa tốn thời gian vừa ảnh hưởng tới chất lượng của bữa ăn do nguội và bọc gói. Trong hành trình khách phải mang đồ ăn gây mệt mỏi và mất mỹ quan. Ngoài ra việc khách ăn xong vứt rác lung tung còn gây ô nhiễm môi trường, mất vệ sinh làm mất đi sự trong lành của môi trường cảnh quan. Đối với các tổ chức du lịch việc tổ chức ăn uống của khách đồng nghĩa mất đi một khoản thu nhập đáng kể. Mặt khác những hậu quả của nó còn làm mất đi sự hấp dẫn tại điểm du lịch, sở dĩ khách có thói quen như vậy vì một phần do khả năng thanh toán của khách không cao, một phần do giá cả, ngoài ra còn do sự bố trí các điểm dịch vụ không hợp lý do đồ ăn không hợp khẩu vị, do chất lượng các dịch vụ và nhân viên phục vụ không đáp ứng được nhu cầu của khách. + Cơ sở hạ tầng còn nhiều yếu kém đường vào khu du lịch còn nhiều đoạn do sử dụng trong thời gian dài mà không được tu bổ nên gập ghềnh khó đi. + Các sản phẩm du lich còn nghèo nàn đơn điệu ở dạng tự nhiên chưa xây dựng được các sản phẩm đặc trưng các tour khép kín ổn định để hấp dẫn khách và các sản phẩm thủ công gắn với điểm du lịch để bán cho khách làm quà lưu niệm. + Các hoạt động du lịch mang tính thời vụ chưa tổ chức tốt du lịch quanh năm gắn liền với lữ hành nên ảnh hưởng xấu đến nguồn tài nguyên du lịch + Công tác huy động gọi vốn đầu tưư và huy động các thành phần kinh tế trong và ngoài tỉnh còn chậm. + Các chùa động hoạt động trái phép đã cấm hoạt động nhưng chưa giải quyết triệt để làm mất mỹ quan khu du lịch. 2.2. MỘT SỐ DỰ BÁO CÁC CHỈ TIÊU PHÁT TRIỂN CỦA KHU DU LỊCH CHÙA HƯƠNG. 2.2.1. Dự báo luồng khách sắp tới. Bảng 8:Dự báo khách du lịch đến chùa Hương từ 2004-2010 TT khách du lịch Đơn vị Năm2004 Năm2006 Năm2010 1 khách quốc tế LK 92.000 70.000 110.000 2 khách nội địa LK 420.000 660.000 840.000 3 Tổng LK 449.000 730.000 950.000 (Nguồn:Viện nghiên cứu phát triển du lịch.) Tuy trong mấy năm gần đây tổng lượng khách đến khu du lịch Chùa Hương có giảm nhưng cùng với du lịch Việt nam, Hà Tây đang cố gắng thu hút, hấp dẫn khách. Chùa Hương là một điềm du lịch lớn trong tỉnh nên được các cấp chính quyền đang cố gắng quảng bá và tìm mọi biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Các cấp lãnh đạo đã quan tâm, chỉ đạo để khu du lịch ngày càng phát triển. Những tồn tại của khu du lịch đang được cố gắng giải quyết để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của du khách. Hiện nay ở Hà Tây đang hình thành các khu du lịch nghỉ dưỡng vui chơi giải trí tổng hợp như Ba Vì, Suối Hai, Đồng Mô nên trong thời gian tới lượng khách đến Chùa Hương so với cả tỉnh sẽ giảm. Để khắc phục tình hình này các cấp lãnh đạo quản lý chặt chẽ để tăng lượng khách tới chùa Hương năm 2004 đạt 620.000 lượt khách tăng so với năm 2003 là 23.000 (bổ xung số liệu) lượt khách. Đến năm 2010 tổng lượng khách đạt 950.000 lượt khách trong đó khách nội địa đạt 840.000 lượt khách và 110.000 khách quốc tế . - Khách nội địa tới chùa Hương chủ yếu từ Hà Nội hoặc các tỉnh phía Bắc. Hiện nay đời sống của người Việt Nam đã được cải thiện, ngày càng có nhiều người muốn đi chùa không chỉ để lễ phật cầu tài, cầu lộc cho gia đình, bản thân mà còn chiêm ngưỡng cảnh sơn thuỷ hữu tình của “Nam thiên đệ nhất động”. Dự kiến lượng khách nội địa năm 2004 sẽ đạt 420.000 lượt khách và đón được 29.000 lượt khách quốc tế, chiếm 4.8 %tổng số khách. - Tuy nhiên số lượng khách nghỉ qua đêm tại khu du lịch chùa Hương chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng số khách đến khu vực. Năm 2002 tỷ lệ này = 2 % đối với cả khách quốc tế và nội địa. Muốn tăng lượng khách nghỉ qua đêm thì tại khu du lịch chùa Hương phải có các công trình dịch vụ du lịch, vui chơi giải trí… sản phẩm du lịch đa dạng, phong phú, hấp dẫn khách du lịch. Chúng ta phải cố gắng phát triển khu du lịch bền vững và được UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới để thu hút lượng khách nội địa và quốc tế ngày càng đông tới khu du lịch. -Trong những năm gần đây lượng khách lưu lại qua đêm tại khu du lịch vẫn còn rất thấp mà như vậy có nghĩa khu du lịch nói chung và các nhà kinh doanh du lịch đã mất một nguồn thu rất lớn, chưa khai thác hết tiềm năng của khu du lịch. Trong những năm tới chúng ta phải đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, chất lượng phục vụ ngày càng cao để thu hút khách du lịch đặc biệt là khách quốc tế. Các nhà quản lý và kinh doanh tại khu du lịch phải quan tâm để nâng số ngày bình quân lưu trú của khách quốc tế là 2.5 ngày từ năm 2005 và đến năm 2010 là 3 ngày. Bình quân số ngày lưu trú của khách nội địa vào năm 2002 là 2 ngày, đến năm 2005 đạt 2.5 ngày và tăng dần lên đến năm 2010 đạt 3 ngày. Bảng 9. Dự báo lượng khách nghỉ lại đêm tại khu du lịch chùa Hương (2004-2010). Khách du lịch Nội dung Năm2004 Năm2006 Năm2010 Khách quốc tế Số lượng khách 4200 6300 16500 Ngày lưu trú 2.5 3 4 Tổng số ngày khách 10500 18900 66000 Khách nội địa Số lượng khách 33000 39600 84000 Ngày lưu trú 2 2.5 3.5 Số ngày khách 66000 99000 294000 (Nguồn: Viện nghiên cứu và phát triển du lịch) 2.2.2. Dự báo doanh thu Trong thời gian tới sản phẩm du lịch sẽ phong phú, đa dạng, chất lượng sẽ được nâng cao cùng với lượng khách nghỉ lại đêm tại khu du lịch sẽ tăng lên dần đến khả năng chi tiêu của khách du lịch sẽ tăng lên. Đó chính là hai lý do khiến doanh thu dự kiến trong những năm tới sẽ được tăng lên. Căn cứ vào tình hình phát triển cùng mức doanh thu tại khu vực ta có các con số dự báo sau: *Dự báo mức chi tiêu của khách. - Đối với khách lưu lại qua đêm. Bảng 10 : Dự báo mức chi tiêu của khách lưu lại qua đêm từ 2004 –2010 Đơn vị tính: Nghìn đồng Khách du lịch Năm 2004 Năm 2006 Năm 2010 Khách nội địa 345 405 480 Khách quốc tế 1560 1800 2550 Tổng 1905 2205 3030 (Nguồn :Viện nghiên cứu và phát triển du lịch) - Đối với khách đi trong ngày: Bảng 11 :Dự báo mức chi tiêu của khách đi trong ngày từ 2004 –2010 Đơn vị tính: Nghìn đồng Khách du lịch Năm 2004 Năm 2006 Năm2010 Khách quốc tế 1200 1500 2250 Khách nội địa 290 330 375 Tổng cộng 1490 1830 2625 (Nguồn :Viện nghiên cứu và phát triển du lịch) Bảng 12. Dự báo doanh thu khu du lịch chùa Hương những năm (2004 - 2010). Đơn vị tính: Triệu đồng Khách du lịch Năm2004 Năm2006 Năm2010 Khách quốc tế 73860 123900 336600 Khách nội địa 281400 244800 404250. Tổnglượng khách 355260 468700 740850 (Nguồn: Viện nghiên cứu và phát triển du lịch 2.2.3. Dự báo chỉ tiêu GDP du lịch và nhu cầu vốn đầu tư tại khu vực chùa Hương Căn cứ vào dự báo tổng doanh thu ở trên sau khi trừ chi phí trung gian khoảng 25- 30% tổng doanh thu. Khả năng đóng góp của ngành tại khu du lịch chùa Hương trong cơ cấu của tỉnh như sau: Bảng 13. Dự báo GDP du lịch và vốn đầu tưư của khu du lịch chùa Hương (2004 - 2010). Chỉ tiêu đơn vị tính Năm2004 Năm2006 Năm2010 Tổng giá trị GDP du lịch Triệu USD 16.8 17.7 34.6 Nhu cầu vốn đầu tư Triệu USD 22.1 23.4 50.7 (nguồn: Dự báo của viện nghiên cứu du lịch và phát triển ) Để đạt được như dự kiến ở trên ban quản lý khu du lịch chùa Hương phải có biện pháp để thu hút hơn nữa khách tới chùa Hương và ngày càng nâng cao mức doanh thu. Cụ thể du lịch chùa Hương cần tập trung vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch và các công trình vui chơi giải trí, thể thao, ngày càng đa dạng các chương trình, sản phẩm du lịch. 2.2.4. Dự báo phát triển các điều kiện phục vụ tại khu du lịch chùa Hương. * Dự báo nhu cầu khách sạn. + C/s sử dụng phòng trung bình hiện nay ở khu vực chùa Hương rất thấp. Tuy nhiên muốn kinh doanh khách sạn có lãi thì c/s sử dụng phòng phải đạt 50%. Do vậy nâng c/s sử dụng phòng ở đây lên 50% là một yêu cầu rất quan trọng, dự kiến giai đoạn tới chính sách này đạt 55-65%. + Theo xu hướng chung hiện nay số giường trung bình trong một phòng cho khách quốc tế là 1.5- 2 giường còn đối với khách nội địa ở chùa Hương chủ yếu là khách đến với mục đích lễ hội, tín ngưỡng nên bố trí 3-4 giường. Như vậy theo số lượng khách sử dụng dịch vụ lưu trú nhu cầu khách sạn ở khu chùa Hương cần có: Bảng 14.Dự báo nhu cầu khách sạn ở khu du lịch chùa Hương (2004 - 2010). Đơn vị: Phòng. Nhu cầu KS Năm 2004 Năm 2006 Năm 2010 Nhu cầu khách quốc tế 45 50 150 Nhu cầu khách Nội địa 100 150 350 Tổng 145 200 500 (nguồn: Dự báo của viện nghiên cứu du lịch và phát triển ) Tuy nhiên ngoài số lượng phòng khách sạn dự báo cần thiết phải có chỗ nghỉ ngơi cho khách đến nghỉ trong ngày. Theo hướng này có thể ưu tiên xây dựng các nhà trọ, cắm trại, bangalow… * Dự báo nhu cầu đầu tư khách sạn. Hiện nay ở khu du lịch chùa Hương có khoảng 100 phòng khách sạn (không kể nhà trọ tư nhân). Tuy nhiên các phòng này không đủ tiêu chuẩn xếp hạng. Theo dự báo năm 2006 toàn khu vực cần 500 phòng, như vậy giai đoạn từ nay đến 2006 cần tập trung đầu tư để nâng cấp các phòng hiện có để đạt được tiêu chuẩn xếp hạng từ 1-2* với số vốn khoảng1 triệu USD (trung bình mỗi phòng cần 20.000USD). Ngoài ra có thể xây dựng một số camping, bangalow… phục vụ khách nghỉ trong ngày. Giai đoạn này cần tập trung xây dựng một số hạng mục công trình, cơ sở hạ tầng, bến bãi, cơ sở vui chơi giải trí, cơ sở dịch vụ với quy mô thích hợp để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch. Giai đoạn 2004 - 2010 khu du lịch chùa Hương cần xây dựng mới khoảng 400 phòng khách sạn đủ chỉ tiêu từ 1-3* ước tính số vốn đầu tư là 20 - 25 triệu USD. *Dự báo nhu cầu lao động. Căn cứ vào tình hình cụ thể của khu du lịch Chùa Hương trong những năm qua về nguồn nhân lực cùng với dự báo phát triển trong những năm tới ta có dự báo về tình hình sử dụng nguồn nhân lực tại khu vực. Dựa vào nhu cầu lao động tính bình quân cho một phòng khách sạn của cả nước và khu vực là 1.5 lao động trực tiếp cũng như số lao động gián tiếp kèm theo (1 lao động trực tiếp kèm theo 2,2 lao động gián tiếp). Nhưng ở khu du lịch chùa Hương các dịch vụ du lịch còn ở mức chưa cao, các dịch vụ bổ xung chưa phong phú nên các chỉ tiêu chỉ áp dụng cho 1,3 lao động trực tiếp và 2 lao động gián tiếp. Ta có dự báo về tình hình lao động tại khu vực này như sau: Bảng 15. Dự báo nhu cầu lao động tại khu du lịch chùa Hương thời kỳ (2004 – 2006 - 2010). Loại LĐ Đơnvị tính Năm 2004 Năm 2006 Năm 2010 Trực tiếp Người 245 270 670 Gián tiếp Người 480 540 1340 Tổng Người 725 810 2010 (Nguồn : Viện nghiên cứu và phát triển du lịch) 2.3. THỰC TRẠNG TỔ CHỨC QUẢN LÝ KHU DU LỊCH CHÙA HƯƠNG. 2.3.1. Mô hình quản lý khai thác khu du lịch chùa Hương hiện nay. Hiện nay, khu du lịch Chùa Hương là một trong những điểm khai thác trọng yếu của ngành du lịch tỉnh Hà Tây. Hàng năm vào mùa lễ hội, Chùa Hương đón tiếp một lượng khách lớn, chiếm tỷ lệ trên 40% lượng khách đến toàn tỉnh. Tuy nhiên, sự phát triển đó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của khu du lịch . Tình trạng kinh doanh du lịch “ăn xổi ở thì”, kinh doanh mang tính “chụp giật”, “ manh mún” đã khuyến khích các hoạt động kiếm lời thiếu văn hoá làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường, cảnh quan, làm mất dần đi những giá trị có một không hai của khu du lịch. Điều này xuất phát từ những hoạt động kinh doanh khai thác. phục vụ du lịch một cách bừa bãi, thiếu quy hoạch do hoạt động quản lý khai thác khu du lịch còn lỏng lẻo, thiếu đồng bộ. Nguyên nhân sâu xa và cũng là vấn đề nổi cộm nhất tại khu du lịch chính là chưa có một mô hình quản lý một cách hợp lý tương xứng với một điểm du lịch lớn của Hà Tây nói riêng và đất nước ta nói chung. Theo quy định tại điều 12 chương III của pháp lệnh bảo vệ và sử dụng di tích lịch sử và danh thắng thì UBND tỉnh Hà Tây chịu trách nhiệm quản lý và bảo vệ khu thắng cảnh Chùa Hương. Năm 1983 UBND tỉnh Hà Tây ( Hà Sơn Bình cũ ) đã ra quyết định giao khu thắng cảnh này cho UBND huyện Mỹ Đức quản lý. Quyết định này đã không được sự nhất trí của Bộ Trưởng Bộ Văn Hoá đương thời. Từ đó trên danh nghĩa, việc bảo vệ khu du lịch Chùa Hương được giao cho một cơ quan mang tên “ Công ty thắng cảnh Hương Sơn” vừa làm nhiệm vụ quản lý nhà nước vừa thực hiện chức năng khai thác dịch vụ du lịch. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau cơ quan này đã tồn tại trong tình trạng “ hữu danh vô thực”. Cuối năm 1996, theo quyết định số 215 ngày 16/04/1996 của UBND tỉnh Hà Tây công ty này đổi tên thành “ Công ty du lịch thắng cảnh Hương Sơn” thuộc sở du lịch, làm chức năng quản lý kinh doanh bảo vệ tôn tạo và phát triển khu thắng cảnh Hương Sơn. Từ năm 1997 - 2000 thì quản lý và tôn tạo bảo vệ phát triển khu thắng cảnh Hương Sơn lại giao cho UBND tỉnh Hà Tây (tháng 8/1998). Đến năm 2001 đến nay việc quản lý khu di tích thắng cảnh Hương Sơn lại được giao cho UBND huyện Mỹ Đức. Có thể nói cho đến nay trải qua mấy lần thay đổi cơ quan quản lý nhưng việc tổ chức quản lý, bảo tồn và khai thác tài nguyên vẫn chưa tương xứng với giá trị của khu du lịch. Việc UBND huyện Mỹ Đức được giao nhiệm vụ quản lý khu di tích thắng cảnh Hương Sơn tuy cũng có một số uư điểm nhất định, nhưng xét trên nhiều khía cạnh việc phân cấp quản lý và mô hình quản lý khai thác hiện nay vẫn chưa phát huy hết thế mạnh và tương xứng với tiềm năng và vị trí của danh thắng, một công trình thiên nhiên và nhân tạo không chỉ có ý nghĩa trong nước mà còn mang tầm quốc tế đang được Bộ Văn Hoá Thông Tin đề nghị UNESCO công nhận là di sản văn hoá thế giới. 2.3.1.1. Cơ cấu tổ chức Ban quản lý đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của UBND huyện Mỹ Đức. Thành phần tham gia : Công an tỉnh , sở tài chính , sở lao động và thương binh xã hội, Uỷ ban mặt trận tổ quốc, Sở du lịch, Sở văn hoá, Sở nông nghiệp và phát triển nông thôn, UBND huyện Mỹ Đức, sở thương mại và các ban nghành liên quan khác. 2.3.1.2. Chức năng nhiệm vụ của từng bộ phận. - UBND tỉnh Hà Tây quản lý tầm vĩ mô về tình hình phát triển khu du lịch chùa Hương nói riêng và toàn tỉnh Hà Tây nói chung UBND tỉnh trực tiếp giao cho UBND huyện Mỹ Đức khai thác và quản lý khu du lịch chùa Hương. Sở Thương mại, Sở Văn hoá - Thông tin, Sở Du lịch, công an tỉnh cùng các ban ngành khác có nhiệm vụ quản lý khu du

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxDL03.docx
Tài liệu liên quan