Còn chánh báo thì sao? Đức Phật nói trong khi người ta còn phải
ở những căn nhà lụp xụp bên cạnh đống rác hôi hám, thì bạn
được ở ngôi nhà khang trang, được thưởng thức những hoa
thơm, trái ngọt, ăn những bữa cơm ngon, sống trong không khí
trong lành. Đó cũng là do bạn là người trước đó đã gieo phúc rất
nhiều và nay được nhận. Nói như thế để thấy quan điểm của Đức
Phật là ủng hộ sự giàu có.
15 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1559 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kinh doanh là dấn thân, thương trường là cõi Phật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Kinh doanh là dấn thân, thương
trường là cõi Phật?
Kinh doanh là một cách dấn thân. Lúc này, thương trường cũng
là cõi Phật. Đó cũng là một cách tu, thậm chí tu như thế còn
phiền nhiễu gấp mấy trong chùa, nhưng nhờ đó thành quả cũng
lớn hơn.
Nghe chủ đề buổi thuyết trình "Văn hóa Phật giáo trong kinh
doanh", những tưởng sẽ được doanh nhân Tạ Thị Ngọc Thảo
chia sẻ về cách thức áp dụng triết lý, văn hóa Phật giáo trong
kinh doanh, hay chí ít là kinh nghiệm của bản thân bà - vừa là
Phật tử, vừa là doanh nhân. Nhưng bất ngờ, Phật tử Tạ Thị Ngọc
Thảo lại chọn một cách tiếp cận hoàn toàn khác: "Chùa làm kinh
doanh trong phạm vi có thể - tại sao không?"
Đối tượng cụ thể mà bà Tạ Thị Ngọc Thảo hướng đến trong Tuần
văn hóa Phật giáo được tổ chức gần đây là chùa Huế, như bà tự
nhận: Mong muốn được "khơi dậy tinh thần kinh doanh của một
vùng đất văn hiến, đó là tỉnh Thừa Thiên - Huế". Bởi theo bà, Huế
có quá nhiều lợi thế. Người Huế luôn tự hào và yêu quý nhất mực
mảnh đất này, nhưng Huế còn nghèo quá, mà lý do cụ thể nhất là
thu nhập bình quân đầu người thấp - 1.030 USD/ người và tỷ
trọng nông nghiệp quá cao 14,5%
Tuần Việt Nam đã có cuộc trao đổi với bà Tạ Thị Ngọc Thảo sau
buổi thuyết trình có phần gây tranh cãi này.
Phật muốn chúng sinh giàu có
- Vì sao bà lại chọn nói về đề tài "Chùa làm kinh doanh trong
phạm vi có thể - tại sao không?"
- Nếu chỉ lo cho đời sống của chùa thì hiện nay hầu như các chùa
đều có thể tự túc được, không phải trông cậy nhiều vào nguồn
cúng dường.
Nhưng để phụng sự xã hội, nhất là các tăng ni dấn thân phụng
sự xã hội, thì phải trông vào các nguồn khác, trong đó có nguồn
cúng dường, nguồn doanh nghiệp tài trợ... Một trường hợp cụ thể
trong hoạt động của giới tu hành hiện nay ở Huế là Phòng khám
từ thiện Tuệ Tĩnh đường - nơi khám chữa bệnh cho hơn 250
bệnh nhân nghèo mỗi ngày, thì nguồn thu để duy trì hoạt động
luôn là vấn đề đau đầu.
Kinh tế phát triển thì không sao, nhưng khi kinh tế suy thoái như
hiện nay thì nguồn cúng dường cho chùa bị giảm. Nguồn kinh phí
cho công việc phúc lợi xã hội cũng đương nhiên phải giảm. Bác
sĩ giám đốc rất lo sẽ đến lúc Tuệ Tĩnh đường phải đóng cửa. Nếu
tình huống đó xảy ra thì trước mắt là 250 bệnh nhân nghèo không
có nơi để khám bệnh.
Để những công trình phúc lợi, từ thiện của Phật giáo hoạt động
được bền vững thì nhà chùa phải chủ động được nguồn tài
chính, nghĩa là phải có hoạt động kinh doanh để lấy lãi nuôi
những hoạt động phúc lợi này.
Khi đặt ra vấn đề kinh doanh với giới tu hành thì không chỉ Phật
tử, cư sĩ, mà xã hội nói chung cũng dễ phản ứng, trong khi đó
kinh doanh như thương gia Lương Văn Can định nghĩa là: "Sử
dụng sản phẩm hoặc dịch vụ của mình như phương tiện để giải
quyết những vấn đề xã hội và làm cho cuộc sống tốt đẹp hơn", thì
kinh doanh có gì là sai trái mà không được làm? Trong cách nhìn
của tôi, đó cũng là một cách tu.
Nữ doanh nhân - Phật tử Tạ Thị Ngọc Thảo
Hơn nữa, trong giới luật có cấm con của Phật tích lũy tài sản,
phát sinh lợi nhuận, nhưng con Phật có hai chúng, chúng xuất gia
và chúng tại gia. Đức Phật lại rất ủng hộ sự giàu có của chúng
sinh.
Trong kinh Phật có nói về y báo và chánh báo. Y báo là dựa vào
cái mình nương tựa. Nếu bạn được nương tựa vào người chồng
làm kinh doanh giàu có lương thiện, cha mẹ là người phúc đức,
con của bạn là đứa trẻ thông minh đạo hạnh, thì người ngoài sẽ
nhận ra ngay y báo bạn tốt. Bạn đã gieo phúc và bây giờ được
nhận.
Còn chánh báo thì sao? Đức Phật nói trong khi người ta còn phải
ở những căn nhà lụp xụp bên cạnh đống rác hôi hám, thì bạn
được ở ngôi nhà khang trang, được thưởng thức những hoa
thơm, trái ngọt, ăn những bữa cơm ngon, sống trong không khí
trong lành. Đó cũng là do bạn là người trước đó đã gieo phúc rất
nhiều và nay được nhận. Nói như thế để thấy quan điểm của Đức
Phật là ủng hộ sự giàu có.
Với những người xuất gia, Đức Phật khuyên sống thanh bần, vì
không muốn con Phật vướng vào những thường tình đó sẽ làm
hạn chế sự phụng sự cho đạo pháp, cho chúng sinh. Nhưng
những người con Phật có tóc và chúng sinh thì Phật luôn luôn
ủng hộ họ giàu có.
Văn hóa Phật giáo trong kinh doanh là thế nào?
- Bà có nghĩ khi trình bày đề tài này tại Huế sẽ vấp phải những
phản ứng không?
- Trình bày đề tài chùa làm kinh doanh nơi đất Huế, với tôi là sự
thử thách, thậm chí tôi xem đây là một đề tài đột phá tư duy,
nhưng không thể không nói. Tôi nghĩ, may mà bây giờ mưa thuận
gió hòa, đời sống của tăng ni và của người dân chưa đến nỗi quá
khó khăn.
Nhưng nếu có một biến cố đột biến xảy ra, chẳng hạn suy thoái
kinh tế trầm trọng, thiên tai dịch họa ụp đến bất thường thì mọi
chuyện đều thay đổi. Đến lúc này nếu chùa không có cơ sở kinh
doanh để chủ động một nguồn thu, duy trì những công trình phúc
lợi xã hội mà chùa đang điều hành, thì đời sống của hàng ngàn
tăng ni và dân nghèo ở Huế có thể sẽ bị chao đảo.
Kinh doanh không hề là vấn đề xấu. Vấn đề là ta sử dụng đồng
lợi nhuận đó như thế nào, có đủ sức điều khiển đồng tiền, làm
chủ bản thân không? Cái đó thì không phải do tiền, đổ thừa cho
đồng tiền là không đúng.
Hơn lúc nào hết, trong thời hội nhập hiện nay, chủ động được
nguồn thu để làm từ thiện, bớt lệ thuộc vào nguồn cúng dường,
thông qua đó tạo việc làm và cơ sở vật chất, thu hút nguồn năng
lực trung và cao cấp, góp phần tăng GDP thì chính là văn hóa
Phật giáo trong kinh doanh.
Trước khi trình bày đề tài "Chùa làm kinh doanh trong phạm vi có
thể - tại sao không?" tôi rất lo, vì chỉ cần hai từ kinh doanh giữa
Tuần lễ văn hóa Phật giáo thì đã là "nhạy cảm" rồi. Tôi đã thiền 2
tiếng trước buổi thuyết trình, vì tôi chuẩn bị một tinh thần giao lưu
căng thẳng hơn. Ngay cả trong lúc trình bày tôi cũng thiền. Sau
khi trình bày xong đến phần giao lưu tôi cũng thiền. Tôi hoàn toàn
tỉnh thức trong mọi lời nói của mình.
Tôi cũng được biết, bài nói chuyện đó gây nhiều sự bàn cãi.
Nhưng sau khi thầy Trừng, thầy của rất nhiều tăng ni ở đây. Thầy
dạy ở Học viện Phật giáo, vốn là người rất khó tính mà thầy công
nhận đây là một đề tài mới, cần thiết, thì tôi nhẹ người, vì đấy
chính là tiếng nói phản hồi của Huế. Cũng có lẽ Đức Phật phù hộ
nên Huế nhẹ nhàng đón nhận.
Tôi mới nhận ra rằng lúc này tôi nói là đúng thời cơ. Nói sớm thì
không hay, nói chậm nữa thì qua mất cơ hội. Đưa đề tài này ra
lúc này là rất hợp duyên.
- Vậy theo bà, những người không phải Phật tử của Huế có thể
tiếp nhận điều gì từ buổi thuyết trình của bà?
- Tôi lại nghĩ những người chưa phải Phật tử, kể cả Phật tử cũng
thấy rằng chùa chủ động kinh doanh là vấn đề cần thiết, nhưng
họ không thích những người mặc áo lam lại trực tiếp đứng ra
mua bán, đụng chạm với đồng tiền.
Nhưng con Phật có hai chúng, chúng xuất gia và cư sĩ tại gia. Bởi
thế tôi mới đề xuất giải pháp, nếu trong hàng ngũ cư sĩ có những
người có ý tưởng kinh doanh đứng ra thành lập một công ty với
HĐQT là các nhà sư thì có làm sao đâu?
Những việc gì thật sự đụng đến tiền bạc thì giới cư sĩ làm, còn
những việc phụng sự xã hội thì các thầy các sư làm được chứ.
Rõ ràng ở đây, những người con Phật cả hai chúng xuất gia và
tại gia đều biết rằng đồng lợi nhuận đó sẽ như nước Cam Lồ rưới
vào những quãng đời bất hạnh.
Kinh doanh cũng là một cách dấn thân. lúc này, thương trường
cũng là cõi Phật. Đó cũng là một cách tu, thậm chí tu như thế còn
phiền nhiễu gấp mấy trong chùa, do đó thành quả cũng lớn hơn.
Muốn làm từ thiện hiệu quả nhà chùa cũng cần tự chủ được về
tài chính. Ảnh minh họa
Luật nhân - quả luôn ứng nghiệm
- Vậy còn những doanh nhân không phải Phật tử, cũng không
định kết hợp với nhà chùa làm kinh doanh, thì có thể áp dụng văn
hóa Phật giáo như thế nào?
- Văn hóa dân tộc ta được xây dựng trên nền tảng văn hóa Phật
giáo, nên tất cả những gì lợi cho mình, lợi cho người, đem niềm
vui đến cho mình, đem niềm vui đến cho người, hoặc sự cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp mà có lợi cho người tiêu dùng; sự
giàu có của mình góp thêm vào sự giàu có của đất nước, tiền bạc
của số người giàu được chia sẻ lại cho số người còn người
nghèo, để khoảng cách giàu nghèo rút ngắn lại, thì đó chính là
văn hóa Phật giáo. Bất cứ doanh nghiệp nào áp dụng như thế thì
giàu một cách bền vững, vì họ làm chủ "thụ dụng" (hưởng thụ và
sử dụng đồng tiền mình làm ra).
Ngược lại, nếu sự giàu có của mình xâm phạm đến quyền lợi của
người khác, đến môi trường, cào cấu vào thiên nhiên rồi trốn
thuế, gian lận thương mại, rút ruột công trình để làm giàu cho
mình, thì không có cách gì bền vững, không chóng thì chày sẽ đổ
vỡ. Theo đúng thuyết nhân quả, gieo gì sẽ gặt nấy.
Là một doanh nhân, không cần phải là doanh nhân Phật tử, nếu
ngay bây giờ không nghĩ đến chuyện gieo, nghĩ đến nhân duyên,
coi chừng sẽ gặp ác báo. Vì thuyết nhân quả là quy luật khách
quan do Đức Phật phát hiện ra, chứ không phải vấn đề tâm linh
mơ hồ.
- Ngoài những "hậu quả" về mặt vật chất, còn những hậu quả về
mặt tinh thần thì sao?
- Tôi xin kể một trường hợp cụ thể của một người bạn mà tôi
không muốn nhắc tên. Người bạn này có một chuỗi nhà hàng
chuyên bán thịt thú rừng, giàu có lắm vì họ mua thú rừng của
người dân tộc với giá rất rẻ, rồi bán lại với giá rất đắt. Họ có hai
người con, một trai, một gái, 18 tuổi và 19 tuổi. Vậy mà cả hai con
liên tục ra đi, một người tháng trước xe đụng chết, người con còn
lại tháng sau xe đụng chết. Hai vợ chồng nhận ra ngay vấn đề,
dẹp ngay chuỗi hàng quán đó, tức thì sám hối. Đó là nhân quả
đồng thời.
Tôi có đọc những lá thư của những người tử tù là cán bộ rất lớn
bên Trung Quốc. Họ kể rằng khi chỉ một chữ ký của họ để uốn
một con đường từ hướng Tây qua hướng Nam là họ có được cả
chục triệu đô la, do đó họ không kềm lòng được. Họ cũng có ý
trách luật pháp không giúp cho họ ngăn chặn việc làm giàu quá
dễ dàng như vậy. Họ có nói giá luật pháp chặt chẽ hơn, họ được
giám sát nghiêm ngặt hơn, giá họ không kiếm tiền dễ như thế, thì
họ đâu đến nỗi?
Khi họ có được đồng tiền dễ dàng như vậy, thì vợ của họ theo
trai, con của họ thấy tiền nhiều quá thì xài phí phạm, ăn chơi sa
đọa, dẫn đến đứa thì nhiễm bệnh thời đại, đứa thì làm gái...
Chính bản thân họ liên tục thấy cô đơn, họ mới đi tìm những
người tình nhỏ ở Đài Loan.
Để giữ những người tình nhỏ đó họ phải dùng những đồng tiền
tham nhũng kiếm được, cho đến một ngày những người tình nhỏ
quỵt hết những đồng tiền đó, rồi họ bị bắt, và bây giờ thì bị tử
hình. Họ kết luận, những đồng tiền kiếm được không trong sạch
làm cho lương tâm luôn bị day dứt, không bao giờ có được một
giờ vui thật sự trong đời.
Họ ao ước nếu cuộc đời còn rộng tay với họ, nhà nước hãy cho
họ đến một vùng nào đó xa xôi hiểm trở cũng được, để họ có
điều kiện cày cuốc kiếm ra từng mẩu khoai, miếng ăn, để có thời
gian họ sám hối. Nhưng một mưu cầu nhỏ nhoi như thế không
còn kịp nữa vì vay thì phải trả, đó là luật nhân quả.
Vậy thì doanh nhân hãy kinh doanh theo văn hóa Phật giáo, hãy
gieo những hạt giống tốt lành, để thu hoạch nhiều quả ngọt.
- Trên thế giới đang xuất hiện nhiều doanh nghiệp, với họ mục
tiêu quan trọng nhất là phụng sự xã hội, dường như giống triết lý
của đạo Phật. Người Việt mình thường tự nhận là theo đạo Phật,
nhưng trong kinh doanh lại chưa theo được văn hóa Phật giáo. Vì
sao vậy?
- Tôi nghĩ rằng hiện nay một số doanh nhân đang gặp khủng
hoảng về triết lý sống, vì vậy họ sống theo bản năng, nặng về
phần xác, nhẹ về phần hồn. Đã thế pháp luật hiện nay chưa đủ
chặt chẽ để buộc những người này phải sống, làm việc và kinh
doanh theo pháp luật.
Quan sát xã hội tôi thấy không chỉ một số doanh nhân mà đại bộ
phận người dân cũng gặp khủng hoảng về triết lý sống. Tại sao
xã hội ta hiện nay có quá nhiều người bị khủng hoảng về triết lý
sống? Đây là một câu hỏi lớn mà những người có trách nhiệm
phải cùng tìm câu trả lời.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_doanh_la_dan_than_7464.pdf