Cá sặc rằn thành thục lần đầu sau 7 tháng tuổi. Khi thành thục, có thể
phân biệt dễ dàng cá đực, cá cái bằng các biểu hiện bên ngoài của dấu
hiệu sinh dục phụ. Khi thành thục, ở cá đực phần tia mềm vây lưng
kéo dài tới hoặc vượt khỏi gốc vi đuôi, còn cá cái vi này rất ngắn và
không bao giờ chạm tới gốc vi đuôi. Ngoài chỉ tiêu căn bản này, cũng
có thể phân biệt cá đực với các sọc ngang đậm nét chạy từ lưng xuống
bụng rõ hơn cá cái và miệng của nó cũng lớn hơn.
22 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1861 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh nghiệm ương nuôi cá sặc rằn giống, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chất lượng tốt
không bị phèn (pH = 7 là tốt nhất, không nên sử dụng ao có pH < 6). Nước
không bị nhiễm bẩn, không bị nhiễm độc (chủ yếu độc do thuốc trừ sâu).
- Diện tích: Tùy thuộc qui mô sản xuất, điều kiện sẵn có và khả năng của
từng gia đình. Có thể tận dụng các kênh mương sẵn có để ương cá. Tuy
nhiên không nên sử dụng những kênh mương quá dài để tiện cho việc chăm
sóc quản lý. Nếu kênh quá dài thì có thể chặn ngăn thành từng đoạn ngắn.
- Với phạm vi gia đình và tùy tình hình hiện nay ở khu vực, ao ương cá sặc
rằn nếu có diện tích vài trăm m2 là thích hợp. Tùy theo yêu cầu lượng cá
giống thả mà có thể có ít hay nhiều ao.
- Độ sâu ao: Độ sâu dùng ương nuôi cá sặc rằn có thể biến động, nhưng để
tiện cho chăm sóc quản lý và hoạt động của cá con, ao có độ sâu 0,8 - 1m là
hợp lý nhất.
- Chất đáy: Không sử dụng ao đất phèn để ương cá. Đáy ao là bùn hoặc bùn
pha cát là tốt nhất. Độ dày bùn đáy ao thích hợp cho ương cá sặc rằn là 20 -
25 cm, không nên dùng ao có đáy quá trơ ít bùn (thường là ao mới đào) hoặc
ao có đáy bùn quá dày (thường là ao lâu ngày không sên vét).
- Trường hợp dùng ao có đáy bùn dày thì trước khi thả cá nuôi, ao cần được
tát cạn, sên vét bớt bùn đáy, chỉ để lại 20 -25 cm.
- Điều kiện chiếu sáng: Ao ương cá con cần đủ ánh sáng mặt trời. Đây là yếu
tố đặc biệt quan trọng. Nếu sử dụng những ao thiếu ánh sáng thì kết quả
ương nuôi sẽ thấp, ít khi thành công. Vì vậy không nên để bóng cây che trên
mặt ao.
- Mặt nước ao cần thoáng, cần loại bỏ hết rong, cỏ nước, bèo ở trên mặt ao.
2/ Chuẩn bị ao trước khi thả cá nuôi:
- Tát cạn ao:
- Bón vôi: Thường dùng là vôi bột, bón 10kg/100m2
- Tu sửa bờ: chống ngập úng, chống rò rỉ, chống mất nước, chống cá khác
(đặc biệt là cá lóc) vào ao.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
5
- Phơi đáy ao: Nếu gặp trời nắng mà phơi được đáy ao vài ngày thì tốt nhất.
Nhưng lưu ý là những vùng đất bị nhiễm phèn thì không nên phơi lâu.
- Bón phân: Có thể dùng phân gà, phân heo hoặc phân xanh (các loại lá
xanh, tốt nhất là lá điên điển) để bón lót cho ao từ 15 -20kg/ 100m2 ao.
- Lấy nước cho ao: Nước cần được lọc qua lưới dày trước khi đưa vào ao để
tránh cá khác, tép vào ao. Nước cấp cho ao đủ độ sâu cần thiết từ 0,8 - 1m.
- Diệt trừ dịch hại trước khi thả cá: Có nhiều loại dịch hại đối với cá. Nhưng
thường quan tâm để diệt nhất là trứng ếch nhái và bọ gạo. Để diệt trứng ếch
nhái cần rào lưới xung quanh bờ ao. Để diệt bọ gạo, sử dụng dầu lửa
1lít/1.000m2ao, dầu lửa được rải xuống đầu ao, phía đầu gió cho lan tràn
khắp ao. Sau khi thả dầu lửa xuống một ngày thì có thể thả cá bột.
3/ Thả cá bột xuống ao:
- Tuổi cá thả nuôi: Sau khi cá nở được 2 - 3 ngày (tức là khi thấy cá bơi lội
nhanh nhẹn) thì đem thả xuống ao. Tính từ lúc chích cho cá đẻ thì khoảng 4
ngày sau khi chích. Vấn đề liên quan chặt chẽ đến thời gian chuẩn bị ao.
- Thời gian thả cá: Thích hợp nhất là từ 8 - 9 giờ sáng và những lúc trời
không có mưa lớn. Tránh thả cá vào những khi nhiệt độ nước quá cao.
- Mật độ thả: 400- 500 con/m2 là thích hợp.
4/ Cho ăn chăm sóc:
- Sau khi bón phân lần đầu tiên (bón lót) lúc ao còn cạn nước, thì sau một
tuần lấy nước vào ao, cần bón thêm một lần phân. Lần thứ 2 này chỉ bón
10kg/100m2 tức là chỉ 1/2 lần đầu.
- Cho ăn: Sau khi thả cá bột xuống ao, tiến hành cho ăn ngay.
* Trong tuần lễ đầu tiên: Mỗi ngày cho ăn 2 lần, mỗi lần 2 lòng đỏ trứng gà
(vịt) luộc + 1 kg bột đậu nành/1.000m2 (pha nước vào thức ăn cho loãng, tạt
đều khắp ao).
* Tuần lễ thứ 2: Mỗi ngày cho ăn 2 lần, mỗi lần 1 kg cám mịn + 0,5 kg bột
cá/1.000m2 ao (cũng pha nước như tuần đầu).
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
6
* Tuần lễ thứ 3: Tùy theo mức độ ăn của cá mà tăng thêm lượng thức ăn cho
phù hợp.
- Quản lý cá: Thường xuyên quan sát ao cá, tránh bị mọi, tràn bờ, kịp thời
phát hiện bệnh dịch hại (ếch, nhái, rắn...) để diệt trừ. Đồng thời quan sát hoạt
động của cá (ăn mạnh hay yếu, có thiếu Oxy hay không...) để kịp thời xử lý.
- Giảm mật độ cá: Sau khi ương cá sặc rằn khoảng 1 tháng, cá đã lớn không
còn đủ sức chứa lượng cá con. Cần phải san thưa sang ao khác để giảm mật
độ. Thông thường từ một ao ban đầu cần thêm 1 ao nữa để đưa cá hương qua
nuôi. Có như vậy thì cá mới tiếp tục lớn khỏe và mạnh. Ao thứ 2 dùng để
đưa cá qua, cũng cần được chuẩn bị như ao đầu tiên để thả cá bột (tát cạn,
bón vôi...)
5/ Luyện cá trước khi xuất ao:
Trước khi đưa cá ra khỏi ao cần được luyện trước một tuần bằng cách hằng
ngày lội xuống ao xua đuổi cá, mỗi ngày 1 lần trong tuần.
Khi cá ương được 60 ngày tuổi mới thu hoạch, nếu thu sớm dễ xay xát sẽ
hao hụt nhiều khi vận chuyển.
Dùng lưới kích thước mắt nhỏ.
Chứa cá trong bể xi măng hay bể đất lót nylon, nước trong bể phải xanh.
Cá phải được chứa trên bể ít nhất 2 ngày mới xuất đi
Ks. Nguyễn Mạnh Hà-TTGNN
Bản tin Nông nghiệp và Nông thôn Vĩnh Long (số 25, tháng 10/2003)
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
7
TTKN ĐỒNG THÁP GIỚI THIỆU ƯƠM NUÔI CÁ SẶC RẰN
KỸ THUẬT ƯƠM NUÔI CÁ SẶC RẰN và CÁCH PHÒNG TRỊ
BỆNH
I. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC
1. Sinh trưởng: Trong điều kiện nhiệt độ thích hợp 25 – 35oC cá đạt
trọng lượng khoảng 140 g/con sau 2 năm (ở ĐBSCL, quan sát cá đực
và cá cái cùng kích thước, thường cá đực có trọng lượng nhỏ hơn. Hiện
tượng cá đực có kích thước nhỏ, có thể do trong quá trình sinh sản, cá
đực phải giữ tổ, và chăm sóc cá con, nên ăn ít, hoặc không ăn trong
thời gian này.
2. Dinh dưỡng: Cũng như nhiều loài cá khác, ở thời kỳ đầu sau khi nở,
cá dinh dưỡng bằng noãn hoàng. Sau khi noãn hoàng tiêu biến, cá
chuyển sang ăn thức ăn bên ngoài.
Thức ăn ở thời kỳ đầu gồm nhiều loại, như phiêu sinh động vật (Ciliata,
Rotifera, Copepoda, Cladocera), phiêu sinh thực vật (Bacillariophyceae,
Cyanophyceae, Chlorophyceae) và thủy thực vật tan ra.
Ở thời kỳ trưởng thành, cấu tạo bộ máy tiêu hóa của cá phù hợp với loài
ăn tạp. Những loại thức ăn thường xuyên bắt gặp và chiếm khối lượng
lớn trong ruột cá gồm: mùn bã hữu cơ, thực vật phiêu sinh, động vật
phiêu sinh, mầm non thực vật, cũng như các loại thực vật thủy sinh
mềm trong nước.
Cá cũng sử dụng tốt các loại thức ăn do người cung cấp như: bột ngũ
cốc các loại, động vật và khi thiếu thức ăn chúng ăn cả trứng của
chính nó.
3. Đặc điểm thành thục sinh dục của cá sặc rằn
Cá sặc rằn thành thục lần đầu sau 7 tháng tuổi. Khi thành thục, có thể
phân biệt dễ dàng cá đực, cá cái bằng các biểu hiện bên ngoài của dấu
hiệu sinh dục phụ. Khi thành thục, ở cá đực phần tia mềm vây lưng
kéo dài tới hoặc vượt khỏi gốc vi đuôi, còn cá cái vi này rất ngắn và
không bao giờ chạm tới gốc vi đuôi. Ngoài chỉ tiêu căn bản này, cũng
có thể phân biệt cá đực với các sọc ngang đậm nét chạy từ lưng xuống
bụng rõ hơn cá cái và miệng của nó cũng lớn hơn.
Sự phát triển tuyến sinh dục của cá sặc rằn ở vùng ĐBSCL theo mùa
rất rõ. Vào mùa khô (tháng 1 – 2), phần lớn cá ở giai đoạn II, sang
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
8
tháng 3 giai đoạn III tăng dần và đã thấy xuất hiện những cá thể ở
thời kỳ đầu của giai đoạn IV.
Vào khoảng thời điểm giao mùa (khô sang mưa) là sự chuyển biến rất
nhanh của tuyến sinh dục. Thời kỳ này, đa số cá có tuyến sinh dục ở
giai đoạn IV, chỉ một ít cá ở giai đoạn III. Khi mùa mưa tới, nhất là sau
những trận mưa rào đầu mùa, cá tìm tới những nơi nước cạn ven bờ,
nhiều cây cỏ thủy sinh để sinh sản. Cá sinh sản trong suốt mùa mưa,
nên trong đàn luôn xuất hiện những cá thể có mức độ thành thục khác
nhau.
Khi sinh sản cá sặc rằn bắt cặp và tìm đến vùng nước ven bờ, nơi có
nhiều cây cỏ thủy sinh để đẻ. Hoạt động sinh sản bắt đầu với việc làm
tổ bằng bọt của cá đực, sau đó cá cái đẻ trứng ra ngoài, trứng được
thụ tinh và cũng chính cá đực dùng miệng gom trứng lại rồi đặt vào tổ
bọt.
Kể từ khi trứng thụ tinh, trong điều kiện nhiệt độ nước 27 – 29oC cá
nở sau 20 – 23 giờ. Trong suốt thời gian này kể từ khi trứng đẻ tới nở
và dinh dưỡng bằng noãn hoàng, cá đực thường xuyên bơi lội quanh tổ
để bảo vệ và dùng vây quạt nước cung cấp oxy cho trứng.
II. CHUẨN BỊ ĐÀN CÁ SINH SẢN
Đàn cá dùng cho sinh sản có thể được nuôi trong các ao, đìa từ trước
hoặc cũng có thể sử dụng cá đã thành thục (có trứng tốt) ở tự nhiên
(trong ruộng, rừng tràm). Tuy vậy, cá được nuôi thì chủ động và hiệu
quả hơn cá thu từ tự nhiên.
1. Nuôi cá chuẩn bị cho sinh sản
a. Ao dùng nuôi cá
- Diện tích ao: tùy thuộc vào qui mô sản xuất, thông thường diện tích
khoảng 100 m2 là thích hợp cho qui mô gia đình, ao có hình vuông
hoặc chữ nhật.
- Độ sâu: thích hợp là 0,5 – 0,8 m.
- Đáy ao: có lớp bùn mỏng, khoảng 10 cm. Không nên có lớp bùn quá
dày.
- Chất nước: nước ao không bị phèn, độ pH thích hợp khoảng 7, không
nhiễm độc (thuốc sâu), nước sạch, có điều kiện thay nước cho ao.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
9
- Ánh sáng: ao cần đầy đủ ánh sáng, không để cây cối quanh bờ che
phủ ánh sáng chiếu vào ao. Mặt ao thoáng, không để cây cỏ, rong bèo
phủ trên mặt ao.
- Trước khi thả cá nuôi, ao cần được tát cạn, bón vôi để diệt hết các
loại cá tạp. Bón 10 kg vôi bột/100 m2.
b. Thời gian nuôi: Tiến hành thu gom cá và nuôi từ tháng 1 (tính
theo dương lịch) không nên nuôi trễ hơn.
c. Mật độ thả nuôi: Tùy theo kích thước cá thả nuôi. Thông thường
chọn những con có trọng lượng từ 12 – 15 con/kg là thích hợp. Thả
vào ao mật độ 0,5 kg/m2. Khi tiến hành thả cá cần lưu ý tỷ lệ giữa cá
đực và cá cái là 1:1.
d. Cho ăn
Cá sặc rằn là loài cá ăn tạp, nên thức ăn sử dụng để nuôi cá có thể
gồm nhiều loại tùy theo khả năng tìm kiếm và cung cấp của gia đình.
Thức ăn tự chế: các loại thức ăn dùng để nuôi cá là : tấm cám, bột
bắp, khoai lang, khoai mì, bánh dừa, bột cá… Tùy theo điều kiện từng
gia đình mà sử dụng cho phù hợp. Nhưng trong các thành phần trên
thì cố gắng có bột cá và cám. Những thứ khác thì tùy điều kiện mà cho
thêm. Các loại thức ăn được trộn chung lại với ít nước để nắm từng
nắm nhỏ cho ăn trong một cái sàn ăn. Cho ăn khoảng 3% trọng lượng
cá nuôi, tức là cứ 100 kg cá thì cho ăn 3 kg thức ăn trong một ngày.
Thức ăn công nghiệp: ngoài thức ăn tự chế biến như trên, nếu có điều
kiện mua được thức ăn chế biến sẵn của các công ty Con Cò, CP… thì
càng tốt. Những loại thức ăn này được chế biến dưới dạng viên nổi trên
mặt nước, khi cho ăn ít bị hao. Khi sử dụng thức ăn công nghiệp thì
hiệu quả nuôi cao hơn thức ăn chế biến ở gia đình. Thức ăn công
nghiệp cũng cho ăn 2 – 3% trọng lượng cá.
e. Quản lý chăm sóc
- Công việc chủ yếu là tránh thất thoát cá do tràn bờ, do rắn ăn cá, do
mất trộm, do cá tự ra khỏi ao…
- Thực hiện thay nước cho ao để tránh bị dơ bẩn.
f. Kiểm tra cá
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
10
- Sau khi thả cá nuôi được 2 tháng thì kiểm tra lần đầu tiên. Mục đích
của lần này là xem cá mập ốm, chế độ nuôi (nhất là cho ăn) đã thích
hợp chưa. Nếu thấy cá mập thì giảm lượng thức ăn, nếu thấy cá ốm thì
tăng lượng thức ăn.
- Tháng 3 : Kiểm tra 1 lần
- Tháng 4: kiểm tra 2 lần
Mục đích của những lần kiểm tra tháng 3, tháng 4 là xem xét sự thành
thục của cá để lập kế hoạch cho cá đẻ.
Thông thường vào tháng 4 đã có thể cho một số cá sinh sản được và
cá sẽ đẻ nhiều vào tháng 5, 6 (đầu mùa mưa).
2. Thu gom cá tự nhiên cho sinh sản
a. Thời gian thu gom cá: Tùy thuộc vào nguồn cá tự nhiên. Có thể
tiến hành vào tháng 4, 5, 6.
b. Điều kiện cá được thu gom
- Phải khỏe mạnh, có khả năng sinh sản (thành thục)
III. CHO CÁ SINH SẢN
1. Lựa chọn cá cho sinh sản
- Cá cái: lựa chọn những con khỏe mạnh, bụng lớn, mềm, hậu môn hơi
hồng.
- Cá đực: những con khỏe mạnh, vuốt nhẹ vào bụng gần hậu môn
thấy có sẹ màu trắng (giống mủ đu đủ). Lưu ý là sẹ ra rất ít phải quan
sát kỹ.
- Tỷ lệ đực cái là : 1:1
2. Dụng cụ cho đẻ: Có thể dùng thau, khạp, lu, bể xi măng, bể đắp
đất lót bạt…
3. Chích thuốc cho cá đẻ
Thời gian chích: thường là chiều mát (khoảng 4 – 5 giờ chiều)
Loại thuốc: có thể dùng HCG, hoặc LRH + Motilium
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
11
Liều lượng thuốc dùng: 1 lọ HCG chích được cho 3,5 kg cá cái +
3,5 kg cá đực; 1 lọ LRH + 2 viên Motilium chích được cho 2 kg cá
cái + 2 kg cá đực.
Sau khi chích thuốc thả cá vào dụng cụ cho đẻ, tỷ lệ 1 : 1. Cần đậy để
cá khỏi nhảy ra ngoài.
Dùng lá môn hoặc lá sen úp lên mặt nước để cá làm tổ đẻ. Để ở nơi
yên tĩnh, sau khi chích từ 8 – 10 giờ thì cá đẻ.
IV. KỸ THUẬT ƯƠNG NUÔI CÁ SẶC RẰN
1. Điều kiện ao
Nguồn nước: phải dồi dào, có điều kiện cấp thoát nước cho ao
khi cần thiết. Ao không bị khô cạn hoặc ngập úng. Nước phải có
chất lượng tốt không bị phèn (pH = 7 là tốt nhất, không nên sử
dụng ao có pH nhỏ hơn 6). Nước không bị nhiễm bẩn, không bị
nhiễm độc (chủ yếu độc do thuốc trừ sâu).
Diện tích: tùy thuộc qui mô sản xuất, điều kiện sẵn có và khả
năng từng gia đình. Có thể tận dụng các kênh mương sẵn có để
ương cá. Tuy nhiên, không nên sử dụng những kênh mương quá
dài để tiện cho việc chăm sóc quản lý. Nếu kênh quá dài thì có
thể chặn ngăn thành từng đoạn ngắn.
Với phạm vi gia đình và tình hình hiện nay ở khu vực, ao ương cá
sặc rằn nên có diện tích vài trăm m2 là thích hợp. Tùy theo yêu
cầu lượng cá giống thả mà có thể có ít hay nhiều ao.
Độ sâu: độ sâu ao dùng ương nuôi cá sặc rằn có thể biến động,
nhưng để tiện cho chăm sóc quản lý và hoạt động của cá con, ao
có độ sâu 0,8 – 1 m là thích hợp nhất.
Chất đáy: không sử dụng ao đất phèn để ương cá, đáy ao là bùn
hoặc bùn pha cát là tốt nhất. Độ dày bùn đáy ao thích hợp cho
ương cá sặc rằn là 20 – 25 cm, không nên dùng ao có đáy quá
trơ ít bùn (thường là ao mới đào) hoặc ao có đáy bùn quá dày
(thường là ao lâu ngày không sên vét).
Trường hợp dùng ao có đáy bùn dày thì trước khi thả cá nuôi, ao
cần được tát cạn, sên vét bớt bùn đáy, chỉ để lại 20 – 25 cm.
Điều kiện ánh sáng: Ao ương cá con cần đủ ánh sáng mặt trời.
Đây là yếu tố đặc biệt quan trọng. Nếu sử dụng những ao thiếu
ánh sáng thì kết quả ương nuôi cá sẽ thấp, ít khi thành công. Vì
vậy, không nên để bóng cây che trên mặt ao.
2. Chuẩn bị ao trước khi thả cá nuôi
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
12
Tát cạn ao.
Bón vôi: thường dùng là vôi bột, bón 10 kg/100 m2 ao. Những
ao hơi bị phèn thì bón tăng hơn có thể tới 15 kg/100 m2.
Tu sửa bờ, lấp lỗ mọi, chống ngập úng, chống rò rỉ, mất nước,
chống cá khác (đặc biệt là cá lóc) vào ao.
Phơi đáy ao: nếu gặp trời nắng mà phơi được đáy ao vài ngày thì
tốt nhất. Nhưng lưu ý là những vùng đất bị nhiễm phèn thì
không nên phơi lâu.
Bón phân: có thể dùng phân gà, phân heo, hoặc phân xanh (các
loại lá xanh, tốt nhất là lá điên điển) để bón lót cho ao từ 15 –
20 kg/100 m2 ao.
Lấy nước cho ao: nước cần được lọc qua lưới dày trước khi đưa
vào ao để tránh tép, cá khác vào ao. Nước cấp cho ao đủ độ sâu
cần thiết từ 0,8 – 1 m.
Diệt trừ địch hại trước khi thả cá, nhất là trứng ếch nhái và bọ
gạo. Để diệt trứng ếch nhái cần có sự kiên trì, tỉ mỉ, vào mỗi
buổi sáng đi quanh ao vớt bỏ trứng ếch nhái. Để diệt bọ gạo, sử
dụng dầu lửa 1 lít/100 m2 ao, dầu lửa được rải xuống đầu ao,
phía đầu gió cho lan tràn khắp ao. Sau khi thả dầu lửa xuống ao
được một ngày thì có thể thả cá bột.
3. Thả cá bột xuống ao
- Tuổi cá thả nuôi: sau khi cá nở 2-3 ngày (tức là khi thấy cá bơi lội
nhanh nhẹn) thì đem thả xuống ao. Tính từ lúc chích cho cá đẻ thì
khoảng 4 ngày sau khi chích. Vấn đề này liên quan đến thời gian
chuẩn bị ao.
- Thời gian thả cá: thích hợp nhất là từ 8 – 9 giờ sáng và những lúc
trời không có mưa lớn. Tránh thả cá vào những khi nhiệt độ nước quá
cao.
- Mật độ thả : 400 – 500 con/m2 là thích hợp
4. Cho ăn chăm sóc
- Sau khi bón phân lần đầu tiên (bón lót) lúc ao còn cạn nước, thì sau
1 tuần lấy nước vào ao, cần bón thêm một lần phân. Lần thứ hai này
chỉ bón 10 kg/100 m2 tức là chỉ bằng 1/2 lần đầu.
- Cho ăn: sau khi thả cá bột xuống ao, tiến hành cho ăn ngay:
+ Trong tuần lễ đầu tiên: mỗi ngày cho ăn 2 lần, mỗi lần 2 lòng đỏ
trứng gà (vịt) luộc + 0,5 kg bột đậu nành.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
13
+ Tuần lễ thứ 2: mỗi ngày cho ăn 2 lần, mỗi lần 1 kg cám mịn + 0,5
kg bột cá/100 m2 ao.
+ Từ tuần lễ thứ 3: tùy theo mức độ ăn của cá mà tăng thêm lượng
thức ăn cho phù hợp. Thông thường mỗi ngày khoảng 3 kg (bột cá +
cám) cho 100 m2 ao là phù hợp.
- Quản lý cá: thường xuyên quan sát ao cá, tránh bị mọi, tràn bờ, kịp
thời phát hiện địch hại (ếch nhái, rắn,…) để diệt trừ. Đồng thời quan
sát hoạt động của cá (ăn mạnh hay yếu, có bị thiếu oxy hay không,…)
để xử lý kịp thời.
- Giảm mật độ cá: sau khi ương cá sặc rằn khoảng 1 tháng, cá đã lớn,
ao không còn đủ sức chứa hết lượng cá con. Cần phải san thưa sang
ao khác để giảm mật độ. Thông thường từ 1 ao ban đầu cần thêm 1 ao
nữa để đưa cá bột qua nuôi. Có như vậy thì cá mới tiếp tục lớn và khoẻ
mạnh. Ao thứ hai dùng để san cá qua, cũng cần được chuẩn bị như ao
lần đầu tiên để thả cá bột (tát cạn bón vôi).
5. Luyện cá trước khi xuất ao: Trước khi đưa cá xuất bán ra khỏi ao,
cần được luyện trước 1 tuần bằng cách hàng ngày lội xuống ao xua
đuổi cá, mỗi ngày 1 lần trong 1 tuần.
V. KỸ THUẬT NUÔI CÁ THƯƠNG PHẨM
1. Kỹ thuật nuôi ao
a. Điều kiện ao nuôi
Diện tích: 200 – 1000 m2, có thể nuôi ở diện tích lớn hơn tùy
theo từng hộ nuôi.
Độ sâu từ 1 – 1,5 m.
Ao gần nơi có nguồn nước sạch và có cống cấp thoát nước chủ
động.
Bờ ao phải cao hơn mực nước lũ cao nhất là 0,5 m và cải tạo ao.
b. Cải tạo ao
Tát cạn sên vét bùn đáy ao chỉ còn lại 10 – 20 cm.
Bón vôi 7 – 10 kg/100 m2.
Phơi nắng 2 – 3 ngày.
Bón phân chuồng ủ hoai 30 – 40 kg/100 m2 ao.
Lấy nước vào 30 – 40 cm.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
14
Sau 2 – 3 ngày cho phân chuồng phân hủy rồi lấy nước vào cho
đủ rồi thả cá.
c. Cá giống
Mật độ thả 15 – 20 con/m2
Kích cỡ cá 4 – 6 cm/con
Cá khỏe không xây xát, không dị hình, đồng cỡ.
Thả cá vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát để tránh sốc nhiệt độ.
d. Thức ăn
Cho cá sặc rằn ăn gồm: cám, bột cá (loại cá tươi hoặc phụ phẩm
của nhà máy) xay nhỏ cho cá ăn.
Thành phần: cám 60% + bột cá 40%.
Khẩu phần thức ăn : 5 – 7% trọng lượng cá/ngày.
Làm sàn thả thức ăn để dễ kiểm tra lượng thức ăn hàng ngày.
Cho ăn ngày 2 lần.
Có thể bón phân chuồng bổ sung 2 tuần/lần 30 – 40 kg/100 m2
ao để tăng thức ăn tự nhiên cho cá.
Hàng ngày kiểm tra hoạt động của cá.
Sau 8 – 10 tháng cá đạt trọng lượng 100 – 150 g/con thì có thể
thu hoạch được.
2. Kỹ thuật nuôi trong ruộng lúa
a. Chuẩn bị ruộng
Chọn ruộng có bờ bao cao hơn đỉnh lũ 0,5 m.
Có diện tích mương bao 10 – 15% diện tích ruộng.
Mương bao có bề ngang 2 –3 m sâu 1 – 1,5 m chạy dài xung
quanh ruộng.
Có vị trí gần kênh rạch để cấp thoát nước.
b. Cải tạo (như cải tạo ao)
c. Cá giống
Mật độ thả 2 – 3 con/m2
Kích cỡ cá giống 4 – 6 cm/con
Cá khỏe không xây xát, không dị hình, đồng cỡ.
Thả cá vào lúc sáng sớm hoặc chiều mát.
Cá giống được thả ở mương bao sau đó cho nước ngập ruộng để
cá tự kiếm ăn thêm.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
15
d. Thức ăn gồm
Cám + bột cá
Ngày cho ăn 2 lần
Lượng thức ăn 5 – 7% trọng lượng cá/ngày.
Có thể 2 tuần/lần bón 20 – 30 kg phân chuồng, vừa làm thức ăn
cho cá vừa giúp lúa phát triển tốt.
Hàng ngày kiểm tra hoạt động của cá.
Sau 8 – 10 tháng nuôi cá đạt cỡ 80 – 120 g/con có thể thu
hoạch được.
VI. MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP
1. Bệnh đốm trắng (bệnh trùng quả dưa)
- Nguyên nhân bệnh là do trùng quả dưa. Có hai giai đoạn trong chu
kỳ sống của trùng quả dưa, đầu tiên là giai đoạn trưởng thành, kế đến
là giai đoạn ấu trùng. Trong giai đoạn trưởng thành trùng quả dưa
được nhìn thấy dưới da hoặc mang cá có thể nhìn thấy như những đốm
trắng bằng mắt thường.
Khi trùng quả dưa trưởng thành, chúng sẽ tách ra khỏi da cá và sinh
sản bằng cách phân chia tế bào bên trong vách dày của tế bào. Khi
chúng trưởng thành tế bào sẽ bị vỡ và những ấu trùng sẽ thoát vào
môi trường nuôi, ấu trùng sẽ lội trong nước và sẽ tấn công vào da
hoặc mang của ký chủ (cá) trong vòng 24 giờ. Sự tấn công của ấu
trùng đôi khi phá vỡ mô của cá và chính vì điều này làm cho cá bột trở
nên yếu đi và chết đột ngột. Đối với cá bột nhiễm bệnh vây sẽ rách tơi
và cơ thể nhợt nhạt. Nếu việc điều trị không thích hợp và kịp thời thì
cả đàn cá bột trong ao ương sẽ chết trong 2 – 3 ngày.
- Dấu hiệu bệnh lý: trong giai đoạn đầu của bệnh sẽ xuất hiện những
đốm màu trắng bằng đầu kim hoặc nhỏ hơn trên thân cá. Sau xuất
hiện các đốm trắng trên da cá và vây cá bị tua ra. Cá bột bơi lội chậm
chạp và tỷ lệ chết cao.
- Cách phòng trị: để trị bệnh này có kết quả tốt cần phải điều trị thành
nhiều đợt nối tiếp nhau. Nhìn chung có thể dùng 25 ml Formol trong 1
m3 nước ao, trị 3 lần cách nhau 3 ngày 1 lần thì sẽ có hiệu quả. Sau
mỗi lần điều trị nước trong ao sẽ không được thay trong suốt 40 giờ,
do đó trong thời gian trị liệu số lượng Moina (trứng nước) hoặc những
thức ăn khác của cá bột sẽ phải giảm để ngăn chặn sự ô nhiễm nước.
Lịch điều trị sẽ như sau :
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
16
+ Ngày 1 : tắm Formol cho cá 1 lần.
+ Ngày 3 : thay khoảng 75% nước ao và tắm Formol lần 2.
+ Ngày 6: thay 20 – 25% lượng nước và tắm Formol lần 3 và giữ
nguyên trong 2 ngày.
+ Ngày 8 : sau 8 ngày cá bột sẽ khỏe mạnh và không cần tiếp tục
điều trị nữa.
Cần chú ý rằng bệnh đốm trắng có thể lây lan rất nhanh sang các ao
khác. Vì thế các ao lân cận nhiễm bệnh cũng phải được điều trị với liều
lượng 25 ppm formol cùng lúc với ao bệnh. Đồng thời những ống dẫn
nước, lưới kéo và vợt cũng cần phải tẩy trùng bằng cách ngâm vào
dung dịch 200 ppm Formol (tức 20 ml Formol trong 100 lít nước) ít
nhất 1 giờ, sau đó xả nước lại và phơi nắng.
2. Bệnh trùng bánh xe
Thường gây bệnh trên nhiều loài cá khác nhau: trê, basa, tai tượng,
chép, mè, trôi, lóc bông,… gây thiệt hại lớn ở giai đoạn cá hương, cá
giống. Bệnh thường xảy ra ở các bể, ao ương với mật độ dày và môi
trường nuôi quá dơ bẩn. Ở ĐBSCL trùng mặt trời hầu như phát triển
quanh năm nhưng cao điểm vào mùa nắng.
- Dấu hiệu bệnh lý: khi cá nhiễm trùng mặt trời, trên thân cá có lớp
màu hơi trắng đục, da cá sậm lại, mang cá nhợt nhạt, cá giảm ăn và
nổi đầu từng đàn trên mặt nước. Ở cá trê giống bị nhiễm bệnh này các
vây cá bị rách tơi và râu cá bị cong nên còn gọi là bệnh “quéo râu”.
- Cách phòng trị: đây là bệnh ngoại ký sinh, do đó tùy vào điều kiện
thực tế có thể dùng một trong những loại hóa chất sau đây để xử lý cá
bệnh:
+ Khi ương cá con dưới ao nhiễm bệnh này, tốt nhất nên dùng Sulfat
đồng (phèn xanh) phun khắp ao với liều lượng 0,3 – 0,5 g/m3 nước ao
trị 2 – 3 lần, mỗi lần cách nhau 1 ngày. Khi sử dụng phèn xanh cần
tính chính xác thể tích nước ao.
+ Để trị cá bị trùng mặt trời ương trên bể xi măng nên dùng xanh
Malachite với nồng độ 1 – 2 g/m3 nước bể, tắm cho cá trong thời gian
30 phút hoặc dùng Formol với liều lượng 25 ml/m3 bể. Trị 3 ngày liên
tục. Nên trị bệnh cá lúc mát trời và trong thời gian trị bệnh nên giảm
lượng thức ăn đi một nửa.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
17
Biện pháp tốt nhất để phòng bệnh trùng mặt trời là giữ gìn vệ sinh bể
ương sạch sẽ, mật độ ương vừa phải, tránh thức ăn dư thừa ở đáy ao.
Trước khi ương nuôi cá phải tẩy vôi, diệt mầm bệnh.
TTKN KIÊN GIANG giỚi thiỆu KỸ THUẬT SINH SẢN CÁ SẶC
RẰN
Kỹ sư Đặng Khánh Hồng (điện thoại: 0913 819729)
Phòng kỹ thuật Trung tâm Khuyến nông Kiên Giang
MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC VÀ SINH SẢN NHÂN TẠO CÁ
SẶC RẰN
Dựa vào quy trình kỹ thuật được các Thầy cô Khoa Thuỷ Sản trường
Đại học Cần Thơ chuyển giao, tài liệu của các cơ quan chuyên môn ở
một số tỉnh ĐBSCL, kết hợp với thực tế ở địa phương . Trung Tâm
Khuyến Nông Kiên Giang đã triển khai hơn 50 điểm trình diễn cho cá
sặc rằn sinh sản tại nông hộ. Bên cạnh những điểm trình diễn, cán bộ
kỹ thuật Trung Tâm cũng rất nhiệt tình chuyển giao thành công kỹ
thuật này cho bà con nông dân khác.
Cá sặc rằn thuộc loài Trichogaster pectoralis Regan.
Họ : Anabantidae; Bộ phụ : Anabantoidei; Bộ : Perciformes; Tổng bộ:
Percimorpha
Cá sặc rằn phân bố tự nhiên tại Thái Lan, Campuchia, Việt Nam và
được di giống sang các nước Malaysia, Indonesia. Phân bố rộng rãi
trong nhiều thủy vực như : Kênh rạch, ruộng lúa, ao lung ... Ở Việt
Nam cá phân bố chủ yếu trong các vùng trũn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- kinh_nghiem_uong_nuoi_ca_sac_ran_giong_3739.pdf