LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ KINH TẾ _THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG HỘI NHẬP WTO 2
I .Tiến trình hội nhập WTO của Việt Nam 2
1. Giới thiệu chung về WTO 2
2. Tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam 2
2.1 Phương thức “gia nhập bằng đàm phán” đặt nước xin gia nhập vào thế bất lợi 3
2.2 Tiến trình đàm phán của Việt Nam 4
a. Đàm phán đa phương: 4
b. Đàm phán song phương: 5
c. Đàm phán về nông nghiệp: 6
d. Công tác xây dựng pháp luật phục vụ đàm phán: 6
II. Những cam kết của Việt Nam trong WTO và tác động của chúng 7
1. Những cam kết của Việt Nam 7
1.1 Cam kết về Hàng hóa 7
1.2 Những cam kết về thương mại 8
1.3 Những cam kết về dịch vụ 11
2. Đánh giá tác động của các cam kết khi Việt Nam gia nhập WTO 13
2.1. Về chính trị và an ninh quốc gia: 13
2.2 Tác động của các cam kết đa phương: 13
3 . Tác động của việc giảm thuế nhập khẩu và mở cửa thị trường dịch vụ: 15
4. Về xuất nhập khẩu hàng hóa: 18
5. Về tác động xã hội: 20
III . Cơ hội và thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO 20
1. Sự cần thiết 20
2. Cơ hội 21
3. Thách thức 22
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG KINH TẾ _THƯƠNG MẠI VIỆT NAM SAU 3 NĂM GIA NHẬP WTO 24
I. Bối cảnh quốc tế và trong nước(2007-2009) 24
1. Bối cảnh quốc tế 24
2. Bối cảnh trong nước 25
II.Thực trạng KT_TM Việt Nam sau 3 năm gia nhập WTO 26
1.Tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát 26
2. Giá tiêu dùng 27
3. Nông nghiệp 28
4. Công nghiệp 31
5. Thương mại 33
5.1 Thương mại hàng hóa trong nước 33
5.2 Xuất, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ 35
PHẦN III - ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ _ THƯƠNG MẠI TRONG THỜI GIAN TỚI 40
I - Mục tiêu tổng quát 40
1- Các nhiệm vụ chủ yếu 40
2- Các chỉ tiêu định hướng về phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu 40
II - ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN 41
1 - Về kinh tế 41
1.1- Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn 41
1.2- Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh và hiện đại hoá 44
65 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1299 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh tế - Thương mại Việt Nam trong hội nhập WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nay (năm 2006 đạt 8,17%). Tổng GDP tính theo giá hiện hành đạt 1.144 ngàn tỉ đồng, tương đương 71,3 tỉ USD. Bình quân đầu người đạt 13,4 triệu đồng - tương đương 835USD . Sang năm 2008 mặc dù chịu tác động của khủng hoàng tài chính toàn cầu vẫn giữ ở mức 6,23%. Các khoản mục như đầu tư nước ngoài tăng mạnh, thị trường xuất khẩu được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng cao, nhưng quan trọng nhất là đã hình thành được tư duy mới, chuẩn mực kinh doanh mới Năm 2008, kim ngạch xuất khẩu đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5% so với năm 2007. Năm 2008, vốn FDI thực hiện tiếp tục tăng, ước đạt 11,3 tỷ USD, chiếm 29,8% tổng vốn đầu tư. Nguồn thu từ hoạt động xuất, nhập khẩu trong cả 2 năm 2007 – 2008 đều tăng cao, tương ứng 31,9% và 61,1% so với năm trước đó.
Sở dỉ đạt mức tăng trưởng như vậy chúng ta phải tính đến những tác động tích cực của việc mở cửa và hội nhập Việt Nam đã có khung pháp lý minh bạch hơn, đã giúp tăng sự tự tin của của những nhà sản xuất Việt Nam để cạnh tranh trên trường quốc tế. Ngoài ra, trong bối cảnh suy thoái kinh tế khi một số quốc gia có xu hướng trở lại chủ trương bảo hộ nền công nghiệp, Việt Nam công khai phản đối chủ nghĩa bảo hộ và đã nhạy bén áp dụng các biện pháp tự vệ thương mại phù hợp. Bên cạnh đó, các tác động của việc gia nhập WTO cũng bộc lộ rõ hơn, như cạnh tranh gay gắt hơn, nhập siêu tăng, sự biến động của thị trường thế giới tác động nhanh và mạnh đến thị trường trong nước. Và minh chứng rõ nhất là cuộc khủng hoảng tài chính thế giới đang và đang ảnh hưởng mạnh đến sự phát triển kinh
Hình 1. Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam , 2001-2009
Nguồn : Tổng cục thống kê
Nguyên do sự tăng trưởng giảm trong 2008 (còn 6,23%) và 2009 (dự tính 4,4%-5,5%) là do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vào cuối năm 2008. Nền kinh tế Việt Nam trong thời kì hội nhập và mở cửa cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp. Sản xuất công nghiệp có xu hướng chững lại; mức tiêu thụ sản phẩm hàng hóa trên thị trường trong nước chậm; xuất, nhập khẩu hàng hoá bị giảm nhiều và thị trường xuất khẩu bị thu hẹp; tình trạng thiếu việc làm xảy ra tại một số khu công nghiệp và doanh nghiệp lớn.
2. Giá tiêu dùng
Nếu như giá bình quân năm 2006 tăng 7,5% so với năm trước, thấp hơn mức tăng của 2 năm liền trước (giá bình quân năm 2005 tăng 8,3%, năm 2004 tăng 7,7%). Thì năm 2007 chỉ số giá tiêu dùng cả năm tăng 12,63%. Nguyên do của tình trạng tăng giá này là do tình hình kinh tế thế giới diễn biến rất phức tạp; giá dầu thô, giá lương thực và giá nguyên vật liệu, máy móc thiết bị tăng cao tạo thêm những thách thức gay gắt cho việc điều hành nền kinh tế và tác động tiêu cực đến ổn định kinh tế vĩ mô; đây cũng là một minh chứng cho tác động mạnh của tác động kinh tế thế giới vào kinh tế nước nhà
Sang năm 2008 giá tiêu dùng tình hình tăng giá ở mức kỉ lục bình quân năm tăng 22,97%. Nguyên do cũng như những quốc gia châu á khác, do đồng USD suy yếu trong những năm gần đây đã tạo ra những cú sốc về tăng giá xăng dầu, giá vàng, giá lương thực thực phẩm từ đó tác động xấu đến giá cả ở VN. Giá cả thị trường thế giới liên tục tăng cao, xăng dầu tăng (giá dầu thô từ 60 USD/thùng đầu năm 2007 tăng lên trên 100 USD/thùng cuối năm 2007), sắt thép tăng 30%, phân bón tăng 20%, lúa mì tăng 60%, sợi, bông, chất dẻo, Đồng thời những mặt hàng nước ta xuất khẩu (gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, điều) cũng xuất với giá tăng rất cao, đặc biệt là giá lương thực phẩm tăng trên 30%, nên giá thu mua cũng tăng, từ đó làm ảnh hưởng lớn đến giá cả chung trong nước, vả lại khi tính chỉ số CPI thì trọng số lương thực thực phẩm ở ta chiếm tỷ lệ cao (42,85%), nhà ở vật liệu xây dựng chiếm 10%, giá xăng dầu trong năm 2007 tăng nhanh, giá vàng thế giới v trong nước tăng rất cao, ảnh hưởng gián tiếp là tác động tâm lý đến các loại giá khác, nên CPI tăng mạnh. Chính sách tiền tệ năm 2007 cũng có những vấn đề cần xem xét, cung tiền (tổng phương tiện thanh toán) tăng nhanh năm 2005 là 23.4%, năm 2006 là 33.6%, năm 2007 là 53.8%, tổng cộng 3 năm cung tiền M2 tăng 134.2%, trong khi 3 năm GDP chỉ tăng 25.09%. Chênh lệch giữa cung tiền tăng trong 3 năm qua (134.5%) với tăng trưởng kinh tế GDP (25.09%) là rất lớn, chắc chắn sẽ đè nặng lên giá cả trong nước, và cuối năm 2007, đầu năm 2008 nó bộc phát mạnh là do có sự cộng hưởng bởi lạm phát quốc tế (USD yếu) và thiên tai.
Sang năm 2009 mục tiêu, nhiệm vụ tiếp tục thực hiện ưu tiên kiềm chế lạm phát theo hướng giảm dần, chỉ số tăng giá tiêu dùng dưới 15%. phấn đấu đến năm 2010 đưa tốc độ lạm phát xuống một con số, từ đó ổn định dần kinh tế vĩ mô, bảo đảm tốt hơn an sinh xã hội; tạo mọi điều kiện để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế hợp lý bền vững
3. Nông nghiệp
Thành tựu
Sản xuất lương thực tiếp tục tăng đáp ứng cả về mặt số lượng và chất lượng,đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thị trường. Nông nghiệp Việt Nam sau hơn 2 năm gia nhập WTO: Tư duy quản lý và sản xuất đã thay đổi
Sau 2 năm, cái được lớn nhất là chúng ta đã đẩy nhanh cải cách hành chính, từng bước thay đổi tư duy quản lý và sản xuất. Nhận thức của cán bộ, doanh nghiệp, nông dân về hội nhập kinh tế quốc tế đã được nâng lên rõ rệt, phản ứng linh hoạt hơn, biết lắng nghe hơn; các lĩnh vực sản xuất đã được điều chỉnh để phù hợp với thị trường, nhất là đảm bảo chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm. Chính vì vậy, tốc độ tăng trưởng GDP của ngành nông nghiệp năm 2007 đã đạt 3,69%, so với 3,4% của năm 2006. Năm 2008, GDP của ngành nông nghiệp đạt 5.6%. Lĩnh vực xuất khẩu nông sản cũng có nhiều khởi sắc, 11 tháng đầu năm nay, kim ngạch xuất khẩu nông sản cả nước đã đạt 14,85 tỷ USD, tăng hơn 24% so với cùng kỳ. Những mặt hàng chủ lực vẫn đang chứng tỏ thế và lực với không ít sản phẩm được ghi danh trên thương trường thế giới, chiếm thị phần lớn. Đến nay, nước ta đã có 6 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, vượt chỉ tiêu đề ra đến năm 2010.
Cùng với những ưu thế sẵn có, việc gia nhập WTO tiếp tục tạo đà thuận lợi cho xuất khẩu nông sản. Bên cạnh những bạn hàng truyền thống, hầu hết các ngành hàng xuất khẩu trong năm nay đều tiếp nhận thêm bạn hàng mới. Thị trường xuất khẩu đã mở rộng đến 150 quốc gia và vùng lãnh thổ. Ví dụ, trước đây xuất khẩu cao su của nước ta chủ yếu vào thị trường Trung Quốc thì năm nay sản lượng cao su xuất khẩu sang nước này chỉ còn khoảng 59%, các thị trường khác như Hàn Quốc, Đài Loan (Trung Quốc), Malaysia, Đức lại tăng đáng kể; riêng mặt hàng thủy sản, do tích cực mở rộng thị trường nên dù kinh tế thế giới khủng hoảng nhưng năm 2008 ngành thủy sản vẫn đạt giá trị xuất khẩu 4,3 tỷ USD.
Hạn chế
Tuy nhiên, ngoài những thành tựu đáng ghi nhận, chúng ta vẫn còn rất nhiều hạn chế cần khắc phục. Nếu lĩnh vực xuất khẩu nông sản đạt được nhiều thành công thì việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài (FDI) trong nông nghiệp lại chưa chứng tỏ được lợi thế. Năm 2007, tỷ trọng FDI cho ngành nông nghiệp vẫn còn thấp, chỉ chiếm 10,6% số dự án và 6,5% số vốn đầu tư đăng ký. Đáng chú ý là dù nước ta thu hút 42 quốc gia, vùng lãnh thổ tham gia đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nhưng chủ yếu là các nhà đầu tư đến từ châu á. Việt Nam vẫn chưa thu hút được các nhà đầu tư từ các nước có thế mạnh về nông nghiệp như Hoa Kỳ, Canada, Ôxtrâylia... Đến cuối tháng 11/2008, lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp mới thu hút được 965 dự án FDI với tổng vốn đăng ký trên 4,7 tỷ USD (chiếm 10% số dự án và 3,3% vốn đầu tư FDI cả nước). Đáng lo ngại nhất hiện nay là, vốn FDI rót vào nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần.
Hình 2. Vốn đầu tư phát triển dành cho nông , lâm nghiệp, thủy sản
2001
2002
2003
2004
2005
2006
2007
Tổng số(tỉ ng)
170.5
200.145
239.246
290.927
343.135
398,9
505.000
NLTS(tỉ đồng)
16,414
17,539
20,220
22,936
25,749
29,843
32.825
Tỉ lệ (%)
9,5
8,8
8,5
7,9
7,5
7,5
6,5
Nguồn : Niêm giám thống kê các năm
Điều này phản ánh khả năng vận động, xúc tiến đầu tư của Việt Nam trong lĩnh vực này còn hạn chế. Đồng thời, theo một số chuyên gia kinh tế, đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp còn tiềm ẩn nhiều rủi ro do thường xuyên bị ảnh hưởng của thiên tai, dịch bệnh... Chính vì vậy, mặc dù là một trong những lĩnh vực được Nhà nước quan tâm hàng đầu nhưng sau khi gia nhập WTO, nông nghiệp - nông thôn vẫn không đạt được tốc độ tăng trưởng FDI như những lĩnh vực khác.
Thực tế, hiện nay trình độ sản xuất của nông dân còn thấp, bộc lộ rõ nhất là ở khâu giống cây trồng, vật nuôi chưa được kiểm soát chặt chẽ nguồn gốc; chưa kiểm soát tốt chất lượng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc thú y, thức ăn chăn nuôi; công tác bảo quản sau thu hoạch, bao bì, nhãn hiệu hàng hoá, thương hiệu vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu trong quá trình hội nhập; quy mô sản xuất nhỏ lẻ, bình quân diện tích đất còn rất thấp, khoảng 0,7 - 1ha/hộ. Vì vậy, muốn sản xuất với quy mô lớn, chất lượng đồng đều là rất khó. Bên cạnh đó, giá thành sản xuất còn cao, chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm chưa được quan tâm đầy đủ cũng khiến khả năng cạnh tranh của nông sản bị hạn chế.
Giải pháp
Để hoá giải thách thức này, cần phải chuyển đổi tư duy khi xây dựng chính sách, nghiên cứu và phát triển; thay đổi tư duy trong sản xuất; hỗ trợ trực tiếp cho nông dân, các vùng khó khăn thay vì hỗ trợ cho doanh nghiệp; thay đổi phương thức can thiệp thị trường sang hỗ trợ nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh; tăng cường đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Bên cạnh đó, một giải pháp quan trọng không kém là chúng ta cần xây dựng cơ chế cảnh báo linh hoạt, nhạy bén, thay thế các mệnh lệnh hành chính trước đây trong điều hành thị trường.
Trên cơ sở nhận diện những thuận lợi và hạn chế sau 2 năm gia nhập WTO, Bộ Nông nghiệp và PTNT xác định, nước ta tiếp tục xây dựng nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao gắn với hội nhập kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, cần hướng nông dân sản xuất theo tiêu chí sản xuất sản phẩm thị trường cần với giá thành hạ, năng suất, chất lượng tăngđể nông nghiệp, nông thôn và nông dân thực sự vững vàng với WTO, cùng với việc quy hoạch, định hướng sản xuất và tăng cường ưu đãi đầu tư trong lĩnh vực nông nghiệp, việc nâng cao trình độ, năng lực sản xuất, ứng dụng tiến bộ kỹ thuật và nắm bắt xu thế thị trường của các doanh nghiệp nông nghiệp và nông dân vẫn là nhiệm vụ quan trọng. Nhất là giai đoạn khủng hoảng kinh tế thế giới hiện nay, ngành nông nghiệp càng cần ứng phó linh hoạt hơn.
Bộ Nông nghiệp và PTNT sẽ tiếp tục theo dõi sát sao diễn biến của khủng hoảng tài chính, tín dụng thế giới và tác động của nó đến ngành nông nghiệp để có các giải pháp khắc phục, trọng tâm là đối với các mặt hàng như gạo, muối, đường và cung cầu phân bón. Nắm chắc tình hình nhập khẩu nông sản để đề xuất các biện pháp quản lý hữu hiệu nhằm hạn chế nhập khẩu, giảm bớt khó khăn cho sản xuất trong nước. Phối hợp với các bộ, ngành liên quan xây dựng đề án tổng thể các tổ chức quản lý chất lượng nông, lâm, thuỷ sản của ngành. Đặc biệt, hoàn thiện dự thảo Chiến lược đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm nông, lâm, thuỷ sản giai đoạn 2008 - 2015, định hướng đến 2020; đề án tăng cường năng lực quản lý chất lượng vật tư nông nghiệp, an toàn vệ sinh thực phẩm nông, lâm, thuỷ sản đến năm 2013; đề án đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm các mặt hàng nông, thuỷ sản chủ lực (rau, chè, thịt và thuỷ sản). Tổ chức đoàn kiểm tra liên ngành về kiểm tra chất lượng vật tư nông nghiệp, nhằm hướng đến nền nông nghiệp chú trọng chất lượng, hiệu quả và nâng cao khả năng cạnh tranh
4. Công nghiệp
Trong hơn hai năm qua, ngành công nghiệp vẫn phát triển theo bề rộng, theo hướng gia công, lắp ráp là chủ yếu. Tốc độ tăng giá trị sản xuất công nghiệp (GO) luôn cao hơn tốc độ tăng giá trị tăng thêm (VA). Tỷ trọng các ngành công nghiệp có tỷ lệ VA/GO cao ngày càng giảm (công nghiệp khai thác sau 12 năm giảm 6,93%; sản xuất vật liệu xây dựng giảm 2,75%;...). Trong khi đó, các ngành công nghiệp có tỷ lệ VA/GO thấp lại phát triển nhanh và chiếm tỷ trọng ngày càng cao (cơ khí tăng 9,9%; điện tử tăng 1,57%; hoá chất tăng 3,44% và luyện kim tăng 0,59%).
Nếu như tỷ trọng các ngành khoáng sản giảm đi là do yếu tố khách quan thì sức tăng VA chậm của các ngành chế biến lại chủ yếu do yếu tố chủ quan, bởi vậy không bù được tốc độ giảm, làm cho tỷ trọng VA/GO và tốc độ tăng VA giảm liên tục.
Bên cạnh đó, sự chuyển dịch cơ cấu các thành phần kinh tế trong ngành công nghiệp đã diễn ra theo chiều hướng: công nghiệp quốc doanh có xu hướng giảm từ 34,16% năm 2000 xuống 22,56% năm 2007, 16,5% năm 2008. Trong khi đó, công nghiệp ngoài quốc doanh lại có xu hướng tăng nhanh, năm 2000 chiếm tỷ trọng 24,55% đến năm 2008 tăng lên 33,1%. Công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài năm 2000 chiếm tỷ trọng 41,3%, năm 2007 chiếm 45,6%.
Chủ trương hình thành các tập đoàn kinh tế mạnh. Nhưng, do các thiết chế quản lý chưa đồng bộ nên việc ghép cơ học các doanh nghệp lại đã tạo ra quy mô hình thức lớn là nguyên nhân làm cho khu vực này kém linh hoạt, kém hiệu quả hơn. Mặt khác, kiểu tổ chức sản xuất khép kín là đi ngược lại với xu hướng hội nhập và phân công chuyên môn hoá, nó vô hình dung cản trở áp dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Đây có thể coi là một nguyên nhân đáng kể làm giảm VA công nghiệp.
Theo nghiên cứu của viện Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp, ở các hãng đa quốc gia trên thế giới, cứ 100 doanh nghiệp trong một chuỗi tham gia chế tạo sản phẩm cuối cùng thì có khoảng 95 doanh nghiệp thực hiện các hoạt động thuộc khu vực hỗ trợ, chỉ có 5 doanh nghiệp lắp ráp - sản xuất sản phẩm cuối cùng. Trong khi đó, tỷ trọng doanh nghiệp ở Việt Nam tham gia vào khu vực hỗ trợ rất ít, chủ yếu sản xuất - lắp ráp. Do đó, so với tổng giá trị thì phần VA của công nghiệp Việt Nam là thấp. Biểu hiện của nhóm ngành này là: giá trị gia tăng thấp; tiêu tốn nhiều tài nguyên và đặc biệt là năng lượng; ít chuyển giao công nghệ, sử dụng công nghệ truyền thống; thu hút ít lao động, chủ yếu là lao động phổ thông; gây tổn hại môi trường. Việc tiếp nhận dòng đầu tư công nghiệp đối với các nhóm ngành này không những chỉ gây giảm VA/GO trước mắt mà còn là nguy hại cho sự phát triển bền vững. Ở Việt Nam có khoảng 2.000 doanh nghiệp may nhưng mới chỉ có chừng 250 doanh nghiệp hỗ trợ. Tương tự như vậy ngành cơ khí chế tạo, ngành điện tử gia dụng cũng chủ yếu dừng lại ở lắp ráp. Đây là nguyên nhân của sự sụt giảm VA/GO trong công nghiệp thời gian qua.
Hơn lúc nào hết, Việt Nam cần có một cơ quan đủ mạnh làm đầu mối để xúc tiến phát triển công nghiệp hỗ trợ. Cơ quan này phải có cơ sở dữ liệu tốt về tình hình công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam, của các nước xung quanh và đặc biệt là có đủ vị thế để dàn xếp việc kết nạp các doanh nghiệp Việt Nam vào chuỗi giá trị của các tập đoàn đa quốc gia trong thời kì hội nhập.
Bên cạnh đó, cuộc chạy đua về thu hút đầu tư cả ở phạm vi quốc gia, đặc biệt là ở các địa phương sau khi được phân cấp đã đạt được những thành tựu định lượng khá cao nhưng theo đó chất lượng thu hút đầu tư chưa thật sự được quan tâm. Kết quả là Việt Nam đã, đang tiếp nhận quá nhiều công nghiệp VA thấp vào đất nước.
Tái cơ cấu ngành cần được thực hiện theo hai hướng: thực hiện đồng bộ các chính sách từ thu hút đầu tư, các chính sách tài chính tiền tệ, chính sách lao động tiền lương... đều tập trung cho việc khuyến khích các ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao, ít sử dụng tài nguyên năng lượng, giảm thiểu ô nhiễm, tập trung quyết liệt phát triển hệ thống công nghiệp hỗ trợ.
Nhằm bảo đảm phát triển mạnh sau khủng hoảng, cần dành phần thoả đáng cho kích thích đào tạo nghề, đây là giải pháp để hạn chế tình trạng dư thừa lao động và chuẩn bị chiến lược sau khủng hoảng. Cần quan tâm xây dựng chính sách hỗ trợ về tài chính các chương trình đào tạo nhân lực chất lượng cao vì đây là sự hỗ trợ trực tiếp quan trọng cho sự đổi mới công nghệ sản xuất của các doanh nghiệp, đồng thời tạo ra lực lượng lao động chất lượng cao phục vụ cho các ngành công nghiệp có giá trị tăng thêm cao, tiết kiệm nguyên, nhiên liệu và bảo vệ môi trường. Các hỗ trợ này là hoàn toàn phù hợp với cam kết WTO.
5. Thương mại
5.1 Thương mại hàng hóa trong nước
Theo cam kết của Việt Nam trong Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam-Hoa Kỳ (BTA) và một số cam kết khi gia nhập WTO, đến năm 2008, các nhà phân phối nước ngoài có thể thành lập liên doanh với vốn tối đa là 99,99% tại Việt Nam. Đến năm 2009, những tập đoàn phân phối này được thành lập công ty 100% vốn nước ngoài. Nhiều người e ngại doanh nghiệp Việt Nam thuộc một số lĩnh vực như: bán lẻ, tài chính-ngân hàng, viễn thông sẽ “chết”, hoặc phải sáp nhập để tồn tại. Nhưng với lợi thế “sân nhà”, những nỗ lực vươn lên của các ngành dịch vụ nói trên cho thấy doanh nghiệp không dễ “chết” như dự báo.
Tổng mức bán lẻ trên thị trường nội địa vẫn tăng mạnh đặc biệt sau một năm gia nhập WTO. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự tăng trưởng nhanh về tổng sản lượng hàng hóa bán lẻ sau hơn hai năm gia nhập sự đổi mới về cơ chế kinh tế , đời sống dân cư tăng mạnh, sức mua hàng hóa tăng nhanh . Bên cạnh đó là sự nổ lực không mệt mỏi của các doanh nghiệp trong việc thúc đẩy nhu cầu của khách hàng và ngày càng hoàn thiện các hoạt động kinh doanh cũng như dịch vụ bán hàng nhằm thích ứng với tiến trình hội nhập trong thời gian giử chân các đại gia bán lẻ và chuẩn bị cho những sự cạnh tranh được dự báo là vô cùng ác liệt từ bên ngoài.
Hơn 2 năm Việt Nam gia nhập WTO, ngành bán lẻ trong nước tuy phải “chia” thị phần cho các nhà bán lẻ nước ngoài, nhưng vẫn giữ vững thị phần và doanh số bán hàng liên tục tăng. Sau hai năm chính thức trở thành thành viên của WTO, ngành dịch vụ bán lẻ tại Việt Nam đã không “chết” như dự báo mà đang phát triển theo nhiều chiều hướng tích cực và bền vững. Nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, thói quen mua sắm của người dân đã “bảo hộ” cho ngành bán lẻ trong nước. Tuy nhiên, phải nhìn nhận một cách khách quan rằng sự thành công này là kết quả của sự nỗ lực học hỏi, không ngừng cải tiến để đưa doanh nghiệp phát triển theo nhu cầu mới của xã hội.
Thời kì 2001-2006 tổng mức bán lẻ hàng hóa xã hội tăng bình quân 18%/năm. Bước sang năm 2007, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 31,0%. Sự tăng trưởng đột biến trong năm 2007 tạo ra sự sôi động và những thành tựu quan trọng trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa , dịch vụ, góp phần cơ cấu lại các khu vực thị trường trong nước .Năm 2008, hoạt động thương mại và dịch vụ năm 2008 kém sôi động so với năm 2007 đây cũng là minh chứng cho tác động khủng hoảng do giá cả hàng hoá và dịch vụ tăng cao, dẫn đến sức mua trong dân giảm đáng kể, sản phẩm sản xuất ra tiêu thụ chậm. Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá thực tế năm 2008 ước tính đạt 968,1 nghìn tỷ đồng, tăng 31% so với năm 2007 (nếu loại trừ yếu tố tăng giá, mức tăng chỉ đạt 6,5%), trong đó khu vực kinh tế Nhà nước đạt 112,9 nghìn tỷ đồng, tăng 20,4%; kinh tế cá thể đạt 538,1 nghìn tỷ đồng, tăng 32,2%; kinh tế tư nhân đạt 284,5 nghìn tỷ đồng, tăng 34,3%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đạt 22,7 nghìn tỷ đồng, tăng 20,9%. Trong tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng nêu trên, kinh doanh thương nghiệp đạt 798,1 nghìn tỷ đồng, tăng 31,5%; khách sạn, nhà hàng đạt 109,3 nghìn tỷ đồng, tăng 26,2%; dịch vụ đạt 48,4 nghìn tỷ đồng, tăng 31,3%; du lịch đạt 12,2 nghìn tỷ đồng, tăng 41,8%. Trong những tháng cuối năm, mặc dù nhiều chương trình khuyến mãi hấp dẫn dành cho khách hàng được quảng cáo, giá cả nhiều hàng hoá và dịch vụ đã giảm so với các tháng trước, nhưng do giá vẫn đứng ở mức cao nên chưa khuyến khích tiêu dùng của dân cư trên thị trường.
Để tồn tại và giữ vững thị phần trước các doanh nghiệp nước ngoài là vấn đề rất khó khăn, nếu không có những đối sách hợp lý. Bởi các doanh nghiệp nước ngoài, bên cạnh sức mạnh về tiềm lực tài chính và kênh phân phối rộng, còn sẵn sàng chịu lỗ trong thời gian đầu để xâm nhập thị trường. Ngoài ra, sự cạnh tranh giành thị phần giữa các nhà bán lẻ trong nước cũng quyết liệt không kém.
Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp trong ngành thương mại chưa tạo được kênh phân phối hàng hóa trên phạm vi rộng. Trong khi kênh phân phối sẽ giúp người tiêu dùng chọn lựa hàng hóa dễ dàng. Nếu các doanh nghiệp không chuyển mình, đến lúc nào đó, hệ thống siêu thị trong nước và các nhà bán lẻ nước ngoài sẽ “bóp chết” tư nhân nhỏ lẻ”. Những nhà đầu tư nước ngoài mạnh về tiềm lực tài chính, kênh phân phối đến tận vùng sâu, nhưng vẫn còn những thị phần nhỏ cho doanh nghiệp tư nhân, nếu biết khai thác tốt. Hơn nữa, do tập quán tiêu dùng, thu nhập của người dân đồng bằng còn thấp nên những điểm kinh doanh nhỏ lẻ vẫn là sự lựa chọn của người tiêu dùng.
Còn năm 2009 , lại thêm một dự báo u ám về tình hình kinh tế toàn cầu khi Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) hôm 23-3 đưa ra báo cáo nhận định thương mại toàn cầu năm nay sẽ giảm tới 9%. Thương mại thế giới tăng khoảng 2% trong năm 2008. Trong năm 2007, khi cuộc khủng hoảng tín dụng mới bắt đầu, thương mại thế giới vẫn duy trì được đà tăng trưởng 6%. Các chuyên gia WTO cho biết dự đoán của một số người cho rằng các nước đang phát triển sẽ ít bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế nhưng “điều này không hoàn toàn đúng”. WTO cảnh báo sẽ rất khó dự đoán được mức suy thoái toàn cầu lần này, song cũng nhấn mạnh đang có những triển vọng lạc quan khi xuất khẩu ở Trung Quốc, Singapore, lãnh thổ Đài Loan và VN đã tăng trở lại trong tháng 2-2009 sau nhiều tháng. do tác động của khủng hoảng nền kinh tế toàn cầu nên qua kết qủa quý I/ 2009 đã có dự đoán mới về tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo giá sẽ tăng 15-18% so với 2008
5.2 Xuất, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ
a. Xuất khẩu
Với thời cơ hội nhập và mở cửa hàng hóa Việt Nam không còn xa lạ gì với người tiêu dùng trên thế giới. Bên cạnh thành công thu hút FDI là gia tăng xuất khẩu, đây là yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Việt Nam hiện ở vị thế xuất siêu với 159 trong số 200 nước và vùng lãnh thổ mà Việt Nam có quan hệ thương mại. Đáng chú ý là khu vực kinh tế trong nước đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao hơn tốc độ chung, qua đó chứng tỏ các doanh nghiệp trong nước đã bước đầu tận dụng được khả năng mở rộng và tiếp cận thị trường từ việc gia nhập WTO. Kết quả xuất khẩu năm 2007 đạt 48 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm 2006, vượt trên 3% so với kế hoạch Chính phủ đặt ra. Kim ngạch của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm xấp xỉ 57% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, đạt 27,3 tỷ USD, tăng 18,6% so với năm 2006, khu vực doanh nghiệp trong nước tăng trên 23%. Kết thúc năm 2007, có 10 mặt hàng và nhóm mặt hàng đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD là thuỷ sản, gạo, cà phê, cao su, dầu thô, dệt may, giày dép, điện và linh kiện máy tính, sản phẩm gỗ, nhóm sản phẩm cơ khí. Trong đó, ngoài 4 mặt hàng lớn truyền thống là dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản đều đạt trên 3 tỷ USD, hai mặt hàng điện tử và sản phẩm gỗ cũng đạt trên 2 tỷ USD. Một số nông sản chủ lực cũng đã thắng lớn trong năm 2007 do những lợi thế về giá trên thị trường thế giới. Năm 2008 ước tính đạt 62,9 tỷ USD, tăng 29,5%, bao gồm khu vực kinh tế trong nước đạt 28 tỷ USD, tăng 34,7%, đóng góp 50,3% vào mức tăng chung; khu vực kinh tế nước ngoài không kể dầu thô 24,5 tỷ USD, tăng 26,8% và dầu thô 10,5 tỷ USD, tăng 23,1%. Tuy kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm nay tăng khá cao so với năm 2007 nhưng nếu loại trừ trị giá tái xuất sắt, thép, vàng và yếu tố tăng giá của 8 mặt hàng chủ yếu (dầu thô, than đá, gạo, cà phê, cao su, hạt tiêu, hạt điều, chè) thì kim ngạch hàng hoá xuất khẩu chỉ tăng 13,5%. Trong tổng kim ngạch hàng hoá xuất khẩu năm 2008, nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản chiếm tỷ trọng 31%, nhóm hàng nông sản chiếm 16,3%. Nhìn chung, kim ngạch xuất khẩu năm 2008 của các mặt hàng chủ yếu đều tăng so với năm 2007, chủ yếu do giá trên thị trường thế giới tăng. Có 8 nhóm hàng/mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD gồm: Dầu thô 10,5 tỷ USD, dệt may đạt 9,1 tỷ USD, giày dép đạt 4,7 tỷ USD, thủy sản 4,6 tỷ USD, gạo 2,9 tỷ USD, sản phẩm gỗ 2,8 tỷ USD, điện tử máy tính đạt 2,7 tỷ USD và cà phê 2 tỷ USD(tăng 2 mặt hàng so với năm trước là gạo và cà phê).
Có được những thành tựu như trên là do nhiều hoạt động xúc tiến thương mại được tổ chức: Hàng trăm hội trợ triển lãm với quy mô khác nhau đã diễn ra ở trong và ngoài nước, trong đó có các hội chợ có tiếng về đồ gỗ ở Hoa Kỳ, thủy sản ở châu Âu và hội chợ Trung Quốc - SEAN (CAEXPO) lần thứ 4 tại Nam Ninh, Trung Quốc; nhiều lượt đoàn cán bộ đi khảo sát các thị trường trọng điểm, tiềm năng, thị trường xa, láng giềng, tiếp tục khôi phục thị trường truyền thống Nga, Đông Âu; nhiều doanh nghiệp tháp tùng các vị lãnh đạo Đảng và Nhà nước trong những chuyến thăm nước ngoài hoặc tham gia hoạt động trong những “Ngày Việt Nam ở nước ngoài” tổ chức tại Pháp, Hàn Quốc, Ấn Độđã ký kết được nhiều hợp đồng, bản ghi nhớ trị giá hàng tỉ USD. Các hoạt động đó góp phần quảng bá tiềm năng kinh tế - thương mại Việt Nam; gương mặt mới về xuất khẩu của Việt Nam, nhất là thương hiệu quốc gia; giúp cho doanh nghiệp nâng cao năng lực tiếp cận thị trường, nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng, trên cơ sở đó tổ ch
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1980.doc