Chọn những nơi có chất nước tốt, không bị ô nhiễm có mực nước sâu.
Cần tránh nững nơi có tàu bè qua lại, đặc biệt cần tránh xa nguồn nước thải
của các nhà máy công nghiệp hóa chất, nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu.
Để giảm hao hụt và thuận tiện khi nuôi nên thả cá lớn (15-30 gr/con đối
với cá lóc bông, 10-15 gr/con đối với cá lóc thường) và cá đã quên sử dụng
thức ăn chế biến. Nếu cá nhỏ hơn cần có bè nuôi riêng cho đến khi cá đạt
kích thước trên. Mật độ thả nuôi trung bình từ 120-130 con/m3. Kích cở cá
đều nhau, khỏe mạnh, cơ thể cân đối.
Về vấn đề lâu dài cần phải dùng thức ăn chế biến hoặc thức ăn tự chế
để nuôi cá lóc trong bè. Bởi vì loại thức ăn này dễ bảo quản, chuyên chở
thuận tiện và tận dụng được nguồn phế liệu phụ phẩm của nhà máy chế
biến
13 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5230 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Kỹ thuật nuôi cá quả (cá lóc), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
2.000 UI/kg cá mẹ, tiêm lần 1 là 1/3 số thuốc, lần 2 : số còn lại. Cá đực tiêm
bằng 1/2 cá cái.
Tiêm xong ghép cá cái và đực vào bể đẻ, sau 14 tiếng cá động hớn và đẻ trứng,
trứng thụ tinh mới đầu chìm dưới đáy bể sau khi hút nước trương lên nổi lơ lửng
trong nước.
Vớt trứng thụ tinh cho vào bình ấp hoặc bể ấp. Dụng cụ ấp trước khi cho ấp
phải tiêu độc bằng 0,1 ppm xanhmêtylen, tiêu độc xong lấy nước vào một đầu, đầu
kia tháo nước ra giữ mức nước không thay đổi, trong thời gian ấp giữ nhiệt độ nước ít
thay đổi, biên độ thay đổi chỉ dưới 2oC nếu không sẽ ảnh hưởng đến tỉ lệ nở. Nhiệt độ
nước 25oC thời gian ấp nở là 36 tiếng, nhiệt độ 26 - 27oC thời gian 25 tiếng.
2. Phương pháp nuôi
2.1 Nuôi cá bột và giống :
Cũng giống như ương nuôi các loài cá bột khác, trước khi thả cá phải tẩy dọn
ao sạch, gây nuôi thức ăn tự nhiên sẵn trong ao. Mật độ nuôi 5 - 10 vạn/666m2, thông
thường là 6 - 7 vạn. Trong 7 - 8 ngày đầu chưa cần cho ăn, sau đó vừa cho ăn vừa bón
phân, mỗi vạn cá bột cho ăn 3 - 4kg tảo trần, nuôi như vậy 18 - 20 ngày khi toàn thân
cá biến thành màu vàng bắt đầu xuất hiện vảy, sau đó biến thành màu đen, thân dài 3
- 6 cm, tỉ lệ sống 60 - 65%. Nuôi tiếp 20 ngày nữa, thân dài 6 cm, lúc này có thể cho
ăn cá con, tôm con hoặc thức ăn chế biến giàu đạm. Sau 2 tháng nuôi cá đạt 9 - 12cm,
lúc này có thể thả vào ao to để nuôi thành cá thịt.
2.2 Nuôi cá thịt :
a) Nuôi thô : Nuôi ghép trong các ao cá khác để tận dụng hết tiểm năng của
vực nước và lợi dụng cá quả để tiêu diệt các loài cá tạp khác cạnh tranh thức ăn,
không gian và dưỡng khí làm cho cá nuôi phát triển tốt. Ao có nuôi ghép cá quả bờ
phải cao hơn mặt nước 30 - 40 cm, không có lỗ rò. Mỗi ao 666 m2 nuôi ghép 50 - 300
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
cá quả cỡ từ 3 cm hoặc cỡ 12cm. Sau 5 - 6 tháng nuôi cá lớn được 0,2 - 0,6 kg, tỉ lệ
sống 80%.
b) Nuôi tinh (nuôi đơn) :
- Ao nuôi : Diện tích ao 600 - 1.300m2 để dễ quản lý. Xung quanh ao thả bèo
tây hoặc bèo cái, dùng tre, nứa chắn giữ cá quả không nhảy ra ngoài ao, đồng thời
cũng tạo được nơi nghỉ ngơi kín đáo cho cá. Ao sâu 2 - 1,5m, nguồn nước phong phú.
- Mật độ nuôi : Cần dựa vào nguồn thức ăn và chất nước để quyết định, nhìn
chung thả 10 con/m2 (cá 3 cm), sau đó xem tình hình sinh trưởng của cá, dùng lưới
đánh bắt những con sinh trưởng quá nhanh để tránh tình trạng cá lớn nuốt cá bé, mật
độ cuối cùng là 2 - 3 con/m2, nếu nguồn nước phong phú cũng có thể tăng thêm mật
độ. Nếu thả cá cỡ 12 - 18 cm nuôi đến cuối năm có thể đạt 0,6 kg/con. Ngoài ra có
thể thả ghép vào một ít cá mè để khống chế chất nước.
- Luyện cho ăn : Thức ăn sống và thức ăn chế biến cá đều có thể ăn được. Thức
ăn sống gồm : tảo trần, cá rôphi con, tôm con, giun, dòi
Khi cho ăn cá con cần khống chế lượng thức ăn, quá nhiều dễ sinh ra hiện
tượng nổi đầu. Nếu cho ăn thức ăn chế biến phải luyện ngay từ nhỏ (cỡ 2 cm) tốt nhất
nuôi trong ao xi măng có nước chảy, mỗi m2 thả 500 con, bắt đầu cho ăn giun ít tơ,
thức ăn cho vào sàn đặt cách mặt nước 10 cm khi cá đã quen ăn rồi dần dần giảm số
lượng giun ít tơ tăng số lượng cá tạp nghiền nát cho đến khi cá quả quen với thức ăn
chế biến thì thôi, lúc này cá đã đạt 4 - 5 cm (tỉ lệ sống 20%). Không được đang luyện
cho ăn thức ăn chế biến lại cho thức ăn sống.
Thức ăn chế biến thường dùng 70% cá tạp nghiền nát; bột đậu tương hay bánh
khô dầu 20%, men tiêu hoá 5%, một ít vi lượng và chất kháng sinh, vitamin. Mỗi
ngày cho ăn 2 lần vào sáng và tối. Số lượng cho ăn 5 - 7% trọng lượng thân. Mùa
sinh trưởng nhanh cũng không cho ăn quá 10%. Nuôi 1 năm cá đạt 0,5 kg/con, sản
lượng 300 kg/666m2.
- Quản lý chăm sóc : Cá quả có khả năng nhảy phóng rất cao (nhảy cao khỏi
mặt nước 1,5m); nếu nước ở ngoài ao thấp hơn nước trong ao thì cá nhảy qua ao có
nước thấp, nước chảy hoặc trời mưa càng kích thích cá quả nhảy đi. Vì vậy nhất là
khi có mưa rào phải thăm ao. Cá quả cần thức ăn phải tươi và sạch, cho nên trước khi
cho ăn phải dọn rửa sàn ăn. Tuy cá quả có khả năng chịu được môi trường nước kém
02, nhưng không phải vì thế mà để nước bẩn. Phải thường xuyên bổ sung thêm nước
mới, bảo đảm nước trong sạch, tốt nhất có giòng chảy.
Minh Dung
(Theo Thông tin KHCN Thuỷ Sản)
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Chú ý khi nuôi cá lóc con và cá lóc thịt
(NTNN, 31/10/2003 & 6/11/2003)
Căn cứ vào tính ăn của cá lóc có thể nuôi ghép với cá nuôi như cá mè, trôi,
chép, trắm cỏ, rô phi, diếc để khống chế mật độ của những loài cá tạp và những cá
sinh đẻ nhiều như cá rô phi, cá diếc nhằm đảm bảo thức ăn cho các loài cá kinh tế chủ
yếu, cải tạo và nâng cao sức sản xuất các vùng nước. Tuy vậy, khi nuôi, cần tính cẩn
trọng chú ý tỉ lệ, mật độ, kích cỡ cá thả.
Nuôi cá lóc con
Trước khi nuôi cá lóc phải dọn tẩy ao sạch sẽ để cho sinh vật phù du phát triển
mạnh mới thả cá bột vào ao. Mật độ ương 5-10 vạn con/mẫu. Sau khi thả 7-8 ngày
chưa cần cho cá ăn, sau đó một mặt vừa bón phân vào ao, mặt khác vớt động vật phù
du bổ sung vào cho cá ăn (3-4 kg động vật phù du cho một vạn cá). Nuôi như vậy 18-
20 ngày thấy cá có màu vàng, trên thân xuất hiện vảy, sau đó chuyển sang màu đen,
thân dài 3-6cm, tỉ lệ sống khoảng 60-65%, nuôi tiếp 20 ngày nữa cá đạt 6cm, lúc này
bắt đầu cho cá ăn tôm, tép, cá con hay thức ăn chế biến có đạm cao. Nuôi trong 2
tháng cá đạt cỡ 9-12cm thành cá giống đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.
Nuôi cá thịt ở ao
Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản I đã nuôi thử nghiệm cá lóc với cá rô phi
(dùng cá rô phi làm thức ăn cho cá lóc).
Diện tích ao: 35m2.
Độ sâu: 70-80cm.
Mật độ thả: 0,5-1con/m2.
Qua 4 tháng nuôi cỡ cá lóc 80-100g/con, lớn được 350g/con. Tính ra cứ 4 kg
cá rô phi con được 1kg cá lóc thịt.
Nuôi cá lóc ghép với cá nuôi khác
Diện tích ao: 200m2. Trên bờ ao bằng phên nứa cao 0,4m, thả bèo tây chiếm
5% diện tích ao nuôi. Nuôi ghép cá lóc với cá mè, trôi, chép, rô phi, diếc. Thức ăn
bằng phân lợn ủ, mỗi tuần bón 2 lần. Mỗi lần 0,1-0,15kg/m3 nước.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Kết quả qua 3 tháng nuôi sản lượng nuôi ghép cá lóc tốt hơn ao nuôi khác và
khống chế được sự sinh sản của cá rô phi, cá diếc, chưa thấy ảnh hưởng đến sinh
trưởng cá khác. Tốc độ lớn của các loài cá nuôi trong ao là: cá lóc 147g/con, cá mè
120g/con, cá trôi 40g/con, cá rô phi 70g/con.
Kỹ thuật nuôi cá lóc trong ao đất
I. Kỹ thuật ương nuôi cá lóc:
1. Ương cá bột 5 ngày tuổi (chiều dài khoảng 6 cm) thành cá giống 60
ngày tuổi (chiều dài khoảng 6-12 cm).
a. Điều kiện ao ương:
- Diện tích 200-1000 m2, giữ nước được trong mùa kiệt và không bị nậgp
trong mùa lũ. Nguồn nước không bị nhiễm bẩn, nhiễm phèn. Cấp thoát nước
chủ động, độ sâu 1,2-1,5 m.
- Bón vôi để diệt tạp, diệt mầm bệnh và tăng pH (không bị phèn). Liều
lượng vôi: 10-15 kg/100 m2 ao (ao mới đào).
b. Bón phân tạo thức ăn tự nhiên:
- Bón phân chuồng (phân gà, bò, heo....) ủ cho hoai, liều lượng 10-
15kg/100 m2 ao.
- Bón phân đạm (phân urê) 300 gram/100 m2 ao, phân lân 100 gr/ 100
m2 ao. Khi phân bón lót đã phân hủy hết (6-7 ngày) nước có màu xanh đọt
chuối thì tiến hành thả cá vào ương.
c. Mật độ thả ương:
Mật độ thả cá ương từ 5.000- 10.000 con cá bột/100m2 ao. Nếu ương cá
bằng vèo đặt trong ao (có những điều kiện như trên) mật độ ương là 800-
1000 con/ 1 m2 vèo.
d. Cho ăn và chăm sóc:
- Giai đoạn cá 5-15 ngày tuổi: Chủ yếu cho ăn động vật phù du (trứng
nước), kết hợp với bón phân tạo màu nước xanh đọt trước.
Trong trường hợp thiếu hợp những loại thức ăn trên có thể cho cá ăn
cua, cá tạp xay nhuyễn: 1 kg cua, cá tạp/ 10.000 cá con/ngày.
- Giai đoạn cá 18-25 ngày tuổi: Vẫn sử dụng những loại thức ăn trên và
bổ sung thêm Vitamin C, Vitamin ADE. Lúc này cá đã có màu vàng, trên thân
xuất hiện vẫy, cá mẹ không còn quanh quẩn bên cá con và cá con cũng bắt
đầu tách đàn sống độc lập.
- Giai đoạn cá 25-35 ngày tuổi: Cá đã có màu đen giống cá trưởng
thành, chiều dài 2-6 cm. Ăn được cá tạp xay nhuyễn, lượng cho ăn khoảng
10% trọng lượng thân cá. Tỉ lệ sống đến giai đoạn này khoảng 80%.
- Giai đoạn cá 35- 60 ngày tuổi: Thân dài 6-12 cm đạt tiêu chuẩn cá
giống. Cho cá ăn các loại cá tạp, tôm tép, liều lượng 8% trọng lượng cá. Tỉ lệ
sống trong giai đoạn này khoảng 60%. Lúc này đã có thể tuyển lựa cá đồng
cở đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
2. Nuôi cá lóc thương phẩm:
- Vì là loài cá dữ chuyên bắt mồi sống nên giai đoạn nuôi thịt không cần
bón phân gây màu nước. Trong ao nuôi, ngoài sử dụng các loại cá tạp, cá
còn có thể ăn các thức ăn chế biến có hàm lượng đạm cao, lượng cho ăn
chiếm từ 5-6% trọng lượng cá.
- Mật độ thả nuôi: 8-10 con/1m2 ao.
- Nuôi 8 tháng cá đạt trọng lượng trung bình 600 gr/con.
- Hệ số thức ăn của cá lóc là 5-6 kg thức ăn/1 kg cá.
3. Nuôi cá lóc trong bè:
Chọn những nơi có chất nước tốt, không bị ô nhiễm có mực nước sâu.
Cần tránh nững nơi có tàu bè qua lại, đặc biệt cần tránh xa nguồn nước thải
của các nhà máy công nghiệp hóa chất, nhà máy sản xuất thuốc trừ sâu.....
Để giảm hao hụt và thuận tiện khi nuôi nên thả cá lớn (15-30 gr/con đối
với cá lóc bông, 10-15 gr/con đối với cá lóc thường) và cá đã quên sử dụng
thức ăn chế biến. Nếu cá nhỏ hơn cần có bè nuôi riêng cho đến khi cá đạt
kích thước trên. Mật độ thả nuôi trung bình từ 120-130 con/m3. Kích cở cá
đều nhau, khỏe mạnh, cơ thể cân đối.
Về vấn đề lâu dài cần phải dùng thức ăn chế biến hoặc thức ăn tự chế
để nuôi cá lóc trong bè. Bởi vì loại thức ăn này dễ bảo quản, chuyên chở
thuận tiện và tận dụng được nguồn phế liệu phụ phẩm của nhà máy chế
biến.
Khả năng sử dụng thức ăn của cá thay đổi theo từng giai đoạn phát triển
của cơ thể cá. Lúc cá còn nhỏ cần cho ăn nhiều hơn cá lớn, có thể tham
khảo theo bảng sau:
Kích cở cá giống (gr/con) Khẩu phần ăn (%)/ trọng
lượng cá
<10 10-12
10-20 8-10
20-30 5-8
30-50 5-8
50-100 5-8
>100 3-5
Cần thường xuyên kiểm tra bè nuôi nhất là nơi có đặt “ mặt đục” bằng
lưới, dây neo. Đồng thời tiến hành làm vệ sinh bè để được thông thoáng,
không thả cá mật độ quá dày.
II. Phòng trị bệnh cá lóc
- Cá ương ở giai đoạn dưới 25 ngày tuổi, bệnh thường gặp là bệnh do
ký sinh trùng gây nên, phòng bệnh này bằng cách định kỳ 10-15 ngày bón vôi
bột (CaCO3) liều lượng 3-4kg/100m
2 hòa với nước, lóng trong, sau đó lấy
nước trong đó tạt vào ao (làm nhiều lần), đối với bè treo túi vôi thì liều lượng
khoảng từ 2-4kg/10m3. Giữ cho nước có màu vàng lợt hoặc xanh đọt chuối.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Cấp, thay nước và tạo dòng chảy để đảm bảo đủ lượng oxy cho ao, tránh
ương mật độ dày. Thường xuyên dùng muối ăn tưới ao, liều lượng 1-2 kg/m3
nước ao.
- Cá ương ở giai đoạn lớn hơn 25 ngày tuổi đến 60 ngày tuổi: Ở giai
đoạn này cá hao hụt nhiều nhất. Bệnh thường gặp là viêm ruột do cá chuyển
loại thức ăn.
Biện pháp phòng: Thường xuyên trộn muối ăn vào cá mồi trước khi xay
nhuyễn, bón vôi bột 3-4 kg/100m2 ao (hòa nước lóng trong, lấy nước trong tạt
ao). Trộn thuốc Sunfadimezin: 2gr + Vitamine C: 1 gr vào 1kg cá mồi, mỗi
tháng cho ăn liên tục 3 ngày.
- Giai đoạn nuôi cá thịt: Thường gặp bệnh viêm ruột, ghẻ lở, rận cá.
+ Phòng bệnh: Giữ vệ sinh ao, thường xuyên bón vôi như trên.
+ Trị bệnh: (Sunfa 20gr + Oxytetra 5gr)/100 kg cá. Liên tục 6 ngày.
Lưu ý:P trộn thuốc vào bột gòn, sau đó rắc lên thức ăn đã xay nhuyễn.
trong quá trình nuôi nên xổ giun cho cá (có thể dùng thuốc xổ giun cho heo,
liều sử dụng bằng ½).
Nguồn: Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn tỉnh An Giang.
CÁ LÓC
Cập nhật từ www.longdinh.com.vn
a) Cá chuối Ophiocephalus maculatus Lacép
b) Cá sộp Ophiocephalus striatus Bloch
c) Cá lóc bông Ophiocephalus micropeltes
Các loại cá lóc
Cá lóc là loài cá sống phổ biến ở đồng ruộng, kênh, rạch, ao, hồ, đầm, tốc độ
sinh trưởng nhanh, thích nghi với mọi môi trường nước (đục, tù, nóng) có thể
chịu đựng được ở nhiệt độ 39 - 40oC.
Ở Miền Nam, Cá lóc bông được nuôi trong lồng (bè).
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA CÁ LÓC
1. Là loài cá dữ, phàm ăn, tính ăn rộng: Cá nhỏ ăn : giáp xác, chân chèo,
ấu trùng bọ gậy, ấu trùng côn trùng, tôm con, nòng nọc, các
loại cá nhỏ khác. Cá trưởng thành ăn tạp: cá, ếch, nhái, tôm...
Chúng ăn mạnh vào mùa hè, khi nhiệt độ giảm xuống dưới 12oC
cá ngừng kiếm ăn. Cá béo vào trước mùa đẻ, cá ở vùng nước lợ
béo hơn ở vùng nước ngọt.
2. Sinh sản: Cá 1 - 2 tuổi bắt đầu đẻ trứng, có thể đẻ 5 lần/năm. Sau khi đẻ,
cá mẹ bảo vệ cá con khoảng một tháng rồi tiếp tục đẻ lần khác. Mùa đẻ ở miền
Bắc vào tháng 5 - 8, tập trung vào tháng 4 - 5.
Cá đẻ ở nơi yên tĩnh, có nhiều cây cỏ thực vật thủy sinh, đẻ vào sáng sớm, sau
mỗi trận mưa rào 1 - 2 ngày. Trước lúc đẻ, cá làm tổ hình tròn, đường kính tổ
khoảng 40 - 50 cm. Ở nhiệt độ 20 - 35oC sau ba ngày nở thành con. Trong
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
môi trường tự nhiên, sau 3 ngày cá con tiêu hết noãn hoàng, lớn dài 4 - 5 cm
bắt đầu tách khỏi đàn sống độc lập.
3. Sinh trưởng: Cá lớn nhanh vào mùa xuân hè. Cá lóc 1 tuổi dài 19 - 39 cm,
nặng 100 - 750 g. Cá hai tuổi thân dài 38 - 45 cm, nặng 600 - 1400 g. Cá ba
tuổi dài 45 - 59 cm, nặng 1.200 - 2.000 g. Cá có thể sống trên 10 năm dài 67
- 85 cm, nặng 7000 - 8000 g.
Cá thích ở nơi có rong đuôi chó, cỏ dừa, tóc tiên, vì nơi này chúng dễ ẩn mình
để rình mồi. Mùa hè thường sống ở trên tầng mặt, mùa đông khi nhiệt độ dưới
8oC cá thường xuống sâu hơn, ở nhiệt độ 6oC cá ít hoạt động.
KỸ THUẬT NUÔI CÁ LÓC
1. Phân biệt cá đực, cá cái:
- Cá đực: thân dài, thon, đầu to, bụng nhỏ rắn chắc, lỗ sinh dục
và lỗ hậu môn riêng biệt.
- Cá cái: thân ngắn, đầu nhỏ, bụng to, mềm sệ xuống, lỗ sinh dục
to, lồi gần sát lỗ hậu môn.
2. Kỹ thuật nuôi cá: Dựa vào tính ăn của cá lóc, có thể nuôi ghép với cá mè,
trôi, chép, trắm cỏ, rô phi, diếc để diệt cá tạp đảm bảo hợp lý nguồn thức ăn,
cải tạo và nâng cao sức sản xuất của vùng nước. Tuy nhiên, cần chú ý tỉ lệ,
mật độ kích cỡ cá thả.
Nuôi cá lóc con: Trước khi thả cá bột vào, phải dọn tẩy ao để sinh vật phù du
phát triển mạnh. Mật độ: 6 - 7 vạn con/mẫu. Sau khi thả 7 - 8 ngày chưa cho
ăn, có thể vừa bón phân vừa vớt động vật phù du bổ sung vào ao (3 - 4 kg
động vật phù du / một vạn cá). 18 - 20 ngày sau cá có màu vàng, trên thân
xuất hiện vảy, sau đó cá chuyển màu đen, dài 3 - 6 cm, tỉ lệ sống khoảng 60 -
65%, nuôi tiếp 20 ngày, cá đạt 6 cm, bắt đầu cho ăn tôm, tép, cá con hay thức
ăn chế biến có đạm cao.
Nuôi trong 2 tháng, cá giống được 9 - 12 cm, đưa ra ao lớn nuôi thành cá thịt.
Nuôi cá thịt ở ao: Trạm Nghiên cứu cá nước ngọt Đình Bảng, Tiên Sơn, Hà
Bắc (nay là Viện Nghiên cứu nuôi trồng Thủy sản I) đã thí nghiệm nuôi cá lóc
với cá rô phi (dùng cá rô phi làm thức ăn cho cá lóc).
Ao diện tích: 35 m2. Độ sâu: 70 - 80 cm. Mật độ thả: 0,5 - 1 con/m2.
Sau 4 tháng nuôi, cá đạt 80 - 100 g/con, con lớn đạt 350 g/con.
Tính ra cứ 4 kg cá rô phi con được 1 kg cá lóc thịt.
Nuôi cá lóc ghép với cá nuôi khác: Nuôi ghép cá lóc với cá mè, trôi, chép, rô
phi, diếc. Diện tích ao: 200 m2. Trên bờ ao rào bằng phên nứa cao 0,4 m, thả
bèo tây chiếm 5% diện tích ao nuôi. Thức ăn bằng phân lợn ủ, mỗi tuần bón 2
lần. Mỗi lần 0,1 - 0,15 kg/m3 nước. Sau 3 tháng nuôi, cá lóc đạt 147 g/con, cá
mè : 120 g/con, cá trôi: 40 g/con, cá rô phi : 70 g/con.
Nuôi cá lóc thịt ở Trung Quốc
a. Nuôi ghép với cá khác: Nuôi ghép cá lóc với cá mè, trôi, trắm, chép trong ao
để tạo điều kiện tốt cho các loài cá nuôi sinh trưởng nhanh.
Ao phải có bờ cao (bờ cao hơn mặt nước ao 30 - 40 cm), nước ở ao không rò rỉ,
cá lóc cỡ 3 cm, ghép 50 - 300 con/mẫu. Sau 5 - 6 tháng nuôi cá lớn được 0,2 -
0,6 kg/con, tỉ lệ sống 80%. Năng suất cá lóc 20 - 50 kg/mẫu.
b. Nuôi cá lóc là chính: Diện tích ao: 1 - 2 mẫu; Độ sâu: 1,5 - 2 m.
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
Xung quanh ao thả bèo Nhật Bản rộng 0,8 - 1 m (dùng cọc và sào ngăn lại) để
phòng cá nhảy đi, tạo môi trường cho cá lóc lớn nhanh.
Mật độ thả: Dựa vào nguồn thức ăn và chất nước để quyết định. Có thể thả 10
con/m2 (cỡ 3 cm). Để tránh tình trạng cá lớn ăn cá bé, bắt cá lớn chuyển sang
ao khác , mật độ 2 - 3 con/m2. Nếu nguồn thức ăn phong phú, mật độ có thể
dầy hơn.
Nuôi cỡ cá giống 12 - 18 cm/con, cuối năm đạt 0,5 - 0,6 kg/con. Ngoài ra có
thể ghép một ít cá mè trắng, mè hoa để cải thiện chất nước.
* Luyện cho cá ăn:
Thức ăn gồm:
- Thức ăn sống như: động vật phù du, tôm, tép con, cá con, giun, dòi.....
- Thức ăn chế biến: phối hợp 70% cá tạp nghiền nát, 20% bột đậu khô lạc...
5% men, còn lại là các vitamin, muối khoáng, thuốc kháng sinh.
Cho ăn 2 lần/ngày, sáng và chiều. Số lượng cho ăn bằng 5 - 7% trọng lượng
cá, mùa cá sinh trưởng nhanh không cho ăn quá 10% trọng lượng cá. Nếu cho
cá ăn thức ăn chế biến, phải tập luyện cho cá ngay từ còn nhỏ. Trong thời gian
luyện cho ăn thức ăn chế biến, không được cho ăn thức ăn sống. Nuôi 1 năm
cá đạt 0,5 kg/con. Năng suất 300 kg/mẫu.
* Quản lý ao nuôi: Cá lóc thịt có thể nhảy cao đến 1,5 m nhất là khi trời mưa
hay có dòng nước chảy. Vì vậy phải thăm ao thường xuyên.
Thức ăn phải tươi, trước lúc cho ăn phải vệ sinh sàn cho ăn. Để đảm bảo nước
luôn sạch, tốt nhất nên có dòng chảy. Nuôi ở ao có diện tích 3,5 mẫu năng
suất đạt 300 kg/mẫu và 50 kg cá mè, là đạt hiệu quả kinh tế cao.
Nuôi cá lóc ở bè
Ở miền Nam, cá lóc con cỡ 3 - 4 cm đem ương, nuôi ở bè rộng 1,5 (1,5 - 1 m)
thả 5.000 con, cho ăn bằng cá linh băm nhỏ, phế phẩm ở các chợ, đầu, ruột
cá… xay nhuyễn đặt lên tấm vỉ bằng tre. Nuôi đến cỡ 10 - 12 cm chuyển sang
bè có kích thước lớn hơn. Thường nuôi 3 tháng đạt 1,2 kg/con.
(Trích “ Kỹ thuật nuôi lươn, ếch, baba, cá lóc” của KS NGÔ TRỌNG LƯ- Nhà xuất bản Nông
nghiệp 2003).
SẢN XUẤT GIỐNG VÀ NUÔI CÁ QUẢ Ở ẤN ĐỘ
oài cá quả (Channa striatus) (còn gọi là cá lóc bông) là loài luôn phải hít thở không
khí. ở ấn Ðộ loài này được gọi là cá lịch sọc (striped murrel). Ðã từ lâu, cá quả được
nuôi thương phẩm ở Thái Lan, Ðài Loan và Philippin. Cá quả được biết đến nhờ vị
ngon tuyệt vời và giá cả cao trên thị trường. Ngoài ra, độ béo của thịt cá thấp, có ít xương
răm và có khả năng chữa bệnh. Loài cá quả có khả năng hít thở không khí qua các bộ
phận hô hấp phụ, phù hợp với điều kiện nuôi trong môi trường nước thiếu ôxy như các
đầm lầy và các ao bị ôxy hoá. ở những nơi này, các quần thể cá bình thường khác có thể
không phát triển được.
Loài cá quả có thể sống ở môi trường khắc nghiệt với lượng ôxy hoà tan thấp và lượng
amôniắc cao và chúng thường được nuôi ở các ao nuôi tăng trưởng với mật độ 40 - 80
con/m2, năng suất cá hằng năm đạt từ 7 - 156 tấn/ha. Tuy nhiên, ở ấn Ðộ chưa áp dụng
một cách chính thức quy trình nuôi cá quả. Hằng năm, lượng cá quả bán trên thị trường
L
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
đang ngày càng giảm sút, mặc dù vẫn có giá cao (100 - 120 Rubi /kg). Nguyên nhân
chính là do thiếu một trung tâm cung cấp cá giống, việc nuôi cá không được thúc đẩy và
do tình trạng phổ biến nuôi cá chép ở các nông trại của ấn Ðộ.
Channa striatus là loài cá quả phổ biến nhất và có sự phân bố tự nhiên rộng nhất ở
các vùng nước ngọt của ấn Ðộ, XriLanka, Pakistan, Bănglađét, Mianma, Malaixia, Thái Lan,
Việt Nam, Campuchia, Philippin và Inđônêxia. Cá quả có rất nhiều ở các vùng đồng bằng
của ấn Ðộ.
Cá quả được tìm thấy ở hầu hết các vùng cư trú của thuỷ sinh vật nhiệt đới như trong
ao, đầm lầy, ruộng lúa, sông, hồ và các kênh rạch và thậm chí là các ao bị ôxy hoá cao.
Loài cá này cũng ưa những vùng nước nông có nhiều cây bụi và cỏ dại. Chúng có thể phát
triển tốt ở bất kỳ vùng nước lầy trũng hoang sơ nào nhờ vào cơ quan hô hấp phụ.
Các loại thức ăn của cá quả
Trong điều kiện tự nhiên, ở giai đoạn cá quả bắt đầu ăn các thức ăn ngoài thì thức ăn chủ yếu
của cá bột là động vật nguyên sinh và tảo. Trong khi đó, cá quả hương lại ăn các loại giáp xác phù
du, còn cá giống thì ăn các loại động vật như tôm, côn trùng thuỷ sinh, cá nhỏ và nòng nọc. Cá
quả lớn thể hiện rõ đặc tính của động vật ăn thịt, thức ăn của chúng là các động vật thuỷ sinh lớn
như ếch và các lọai cá nhỏ khác. Loài cá này là động vật ăn cả thịt đồng loại. Quan sát chúng ở
giai đoạn cá bột và cá nhỏ cho thấy những con cá lớn và khoẻ hơn thường ăn những con nhỏ và
yếu hơn.
sinh sản
Nhìn chung, cá quả bắt đầu sinh sản trước khi có gió mùa một thời gian ngắn ở các ao
và sông và mùa sinh sản được kéo dài trong suốt thời kỳ gió mùa. Loài cá này đạt đến giai
đoạn thành thục trong khoảng 11 tháng, khi chúng đạt được chiều dài từ 25 - 30cm.
Cá quả lớn lên một cách tự nhiên trong thời gian từ tháng 7 đến tháng 12. Ðàn cá bố
mẹ ở giai đoạn trưởng thành cần được giám sát vào các tuần đầu hằng tháng. Ðể đánh
giá được giai đoạn trưởng thành của cá cái, nên xét nghiệm buồng trứng bằng cách ép
nhẹ lên phần bụng của cá để cho trứng cá rỉ ra tự do. Các đặc điểm về hình thái học bên
ngoài (như bụng cá tròn hơn, lỗ sinh dục tròn hơi đỏ, cơ quan núm sinh dục nở rộng, hơi
đỏ, hơi nhọn và có các dấu chấm đỏ nhạt), có thể giúp xác định được đó là cá cái khi nó
đã trưởng thành. Ðối với cá đực khi ép nhẹ lên bụng cá, không thấy tinh dịch chảy ra như
loài cá chép. Trong thời gian không phải mùa sinh sản của cá rất khó nhận biết bằng mắt
và xác định được giới tính của cá bố mẹ. Sức sinh sản của loài này ít hơn nhiều so với loài
cá chép ấn Ðộ, lượng sinh sản thông thường đạt khoảng 18.000 trứng cá thể.
Công nghệ sản xuất giống
Sản xuất giống cá quả quy mô nhỏ đòi hỏi các yêu cầu sau:
- - Cá bố mẹ phải khoẻ
- - Ao nuôi vỗ cá bố mẹ (15 x 10 x 1m)
- - Bể cho cá đẻ ( 3 x 3 x 1m )
- - Bể ương ấu trùng (3 x 1 x 0,8m )
- - Ao nuôi (15 x 10 x 1m)
Các yêu cầu chi tiết khác bao gồm lưới sinh vật phù du, máng nhựa; các ống nghiệm;
Generated by Foxit PDF Creator © Foxit Software
For evaluation only.
hoócmôn và bơm nước v..v Nguồn nước có thể được bơm từ giếng khoan hoặc từ một con
kênh hoặc sông gần đó.
Chăm sóc và quản lý cá bố mẹ
Ao nuôi cá bố mẹ có hình chữ nhật và diện tích từ 75 - 160m2, trang bị các máy móc
phù hợp để duy trì sự sống cho đàn cá bố mẹ. Ðộ sâu của ao từ 1 - 1,5m. Nền đáy của ao
không được thấm nước để tạo điều kiện cho quá trình khoáng hoá các chất hữu cơ và hấp
phụ chất dinh dưỡng. Nhìn chung đất sét, đất thịt pha sét và đất mùn đều có thể làm nền
ao tốt. Các vùng đất đá, cát, và đá vôi không nên dùng làm ao nuôi. Nguồn cá bố mẹ có
thể từ khai thác tự nhiên hoặc nguồn nuôi. Khi cá bố mẹ đạt cỡ từ 0,5 - 1,2 kg là phù hợp
để kích thích cho đẻ. Mật độ nuôi cá bố mẹ từ 16.000 - 20.000 kg/ha là thích hợp.
Loài cá quả này có thể sống ở điều kiện nước thiếu ôxy, nhưng đối với cá nuôi thương
phẩm thì đòi hỏi điều kiện sống phải tốt và giàu thức ăn để phát triển. Tổng số một ao
nuôi bằng đất có thể thả 120 con/ao (80 cá cái; 40 cá đực) loại này đã được nuôi trong bể
từ 2 - 3 tháng trước mùa sinh sản. Yêu cầu chất lượng và số lượng nước phù hợp là quan
trọng nhất đối với ao nuôi vỗ cá bố mẹ. Nguồn nước tốt nhất là nước sông, độ pH từ 7,5 -
8 và nhiệt độ từ 29 -31oC. Hằng tháng cần thay nước ở bể, khi thay nước nên để lại
khoảng 50% số nước và nên thay hằng tháng. Tuy nhiên, mỗi tuần cần bổ sung để duy trì
mức nước.
Phương pháp cho ăn và sinh sản
Chất thải hữu cơ như ruột gà và chất thải của cá có thể được tìm thấy ở các chợ tại
địa phương, sau đó được làm sạch và cho vào những chiếc xô và giữ lạnh. Khi cho cá ăn,
thức ăn được nghiền nhỏ thành một loại có tên gọi là ad libitum. Thức ăn còn thừa phải
được loại bỏ ngay vì nó sẽ gây ô nhiễm môi trường nước.
Kích thích cá quả sinh sản bằng các kích tố cho rụng trứng tự nhiên và nhân tạo. Có thể sử
dụng các loại hoócmôn như dịch não thuỳ, HCG, Ovaprim và Ovatide để kích thích cá sinh sản.
Trong số các loại hoócmôn này, Ovaprim là một sản phẩm nhân tạo, có công thức là SgnRHa được
dùng với liều lượng 0,5ml/kg cân nặng thì sẽ đạt được kết quả tốt. Mỗi lứa sinh sản cần 1 con cái
và 2 con đực được xử lý hoócmôn.
Lựa chọn cá bố mẹ cho đẻ
Chọn cá cái có bụng mềm và căng phồng. Tuy nhiên, quá trình thành thục của cá cần
được kiểm tra bằng cách ép, vuốt nhẹ lên bụng cá, để cho buồng trứng hơi lộ ra qua núm
sinh dục. Lấy một ít trứng đặt trên tiêu bản kính và kiểm tra bằng kính hiển vi. Nếu trứng
có kích cỡ theo quy định (khoảng 1 - 1,2 mm), là thời điểm thích hợp cho cá cái đẻ, nếu
trứng có hình thức chưa đạt theo quy định hoặc hình dạng khác thường thì không nên cho
con cá cái đó đẻ. Ðối với cá đực, có thể đánh giá bằng cách kiểm tra núm sinh dục lộ rất
rõ bên ngoài. Cá được tiêm hoócmôn vào cơ ở vùng lưng với
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- ky_thuat_nuoi_ca_qua_6357.pdf