Loài người sẽ không tránh khỏi cái ác cho tới khi các nhà triết học chân chính và biết tư duy đúng đắn chưa giữ được các chức trách nhà nước hoặc các nhà cầm quyền chưa trở thành nhà triết học chân chính

Vấn Đề Giai Cấp Lãnh Đạo: Như chúng ta được biết thời đó, xã hội Hy Lạp được phân chia thành ba chế độ nhà nước: một là nhà nước quân chủ, hai là nhà nước chủ nô quý tộc và ba là nhà nước chủ nô dân chủ. Ba hình thức này về mặt lãnh đạo thường phát sinh những biến tướng hay “kẻ sinh đôi biến chất” của nó: chế độ quân chủ biến thành nền bạo chính, chế độ quý tộc thành chế độ đầu sỏ, chế độ dân chủ thành chế độ mị dân. “Những biến chất diễn ra vì các nhà cầm quyền có thiên hướng quan tâm nhiều hơn bản thân và đến lợi ích vị kỷ của mình, chứ không phải đến lợi ích của công dân. Nhân tố làm biến chất cũng là tự do thái quá, tự do này tất yếu kéo theo thói mị dân là cái làm huỷ hoại đạo đức”.[10] Và một khi những chính thể quốc gia đó không còn giữ được hình ảnh ban đầu hay đi vào con đường quá khích thì sự suy sụp và đào thải chắc chắn phải xảy ra. Đó là một điều khó tránh khỏi.

Từ đây ông vạch ra những sai lầm trong các chế độ. Thông thường, giới cầm quyền quý tộc hay có thiên hướng tự cô lập và và tập hợp quyền lực vào cho mình chính vì thế mà thường gây mất lòng dân nên dễ mất nước. Ngược lại chế độ dân chủ sẽ tự huỷ hoại mình cũng chỉ vì quá dân chủ. Thực ra, Platon không tin tưởng gì vào chế độ dân chủ bởi theo ông thì “mới xem qua thì nó (chế độ dân chủ) là một lí tưởng quá tốt đẹp nhưng thực ra nó trở nên vô cùng nguy hiểm vì dân chúng không được giáo dục để có thể lựa chọn người tài giỏi ra cầm quyền và ấn định đường lối thích hợp để cho dân chúng cầm quyền không khác gì cho con thuyền quốc gia vượt qua vùng bão tố, miệng lưỡi của bọn chính trị gia làm nước nổi sóng và lật hướng đi của con thuyền. Không chóng thì chầy một chính thể như vậy sẽ đi vào con đường độc tài”.[11] Ông viện dẫn rằng từ việc đóng giày mình cũng biết chọn lựa những thợ lành nghề, chuyên nghiệp; khi bị bịnh ta cũng tìm tới bác sĩ giỏi chứ không bao giờ tìm tới những vị lương y đẹp trai hay miệng lưỡi

doc28 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1983 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Loài người sẽ không tránh khỏi cái ác cho tới khi các nhà triết học chân chính và biết tư duy đúng đắn chưa giữ được các chức trách nhà nước hoặc các nhà cầm quyền chưa trở thành nhà triết học chân chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t nước lí tưởng thật sự ở trong thực tế thì không phải dễ mà nếu không khéo thì sẽ chuốc lấy những hậu quả nặng nề từ ý tưởng mộng mơ đó. Điều này chúng ta cũng dễ thấy ở nhà nước cộng sản Việt Nam trong những năm dưới thời bao cấp và giáo hội Thiên chúa giáo trong thời Trung Cổ. Tất cả đều là những vết nhơ đáng gớm, đáng quên đi khỏi lịch sử. Mỗi lần nhắc tới những vấn đề liên quan đến nó khiến nhiều người không khỏi chạnh lòng. Ở đây ta nhận ra một điều là dù muốn xây dựng quốc gia lí tưởng theo bất cứ chủ trương đường lối cũng được nhưng tuyệt đối phải đặt nền móng trên người dân, tất cả phải “do dân và vì dân”. Lịch sử đã cho thấy, chưa có quốc gia nào xa rời với người dân mà thành công và tồn tại lâu dài. Và có một điều cần phải lưu ý là xã hội là một thực thể sống động, luôn luôn biến chuyển và đổi thay vì thế, khi xây dựng phát triển nền chính trị xã hội chúng ta cũng cần phải linh động và uyển chuyển theo từng thời điểm mà có những việc làm thích hợp. Chúng ta không thể lấy cái cố định mà ràng buộc cái bất định, đó là việc làm phi lí, không hợp với quy luật, không hợp với tự nhiên thì không thể nào thành công là một điều dễ dàng nhận ra. Và cuối cùng, chúng ta phải có những lời khen ngợi với Platon, dẫu ông không đưa ra được những đừơng hướng đúng đắn nhất, nhưng không ai đòi hỏi một triết gia có những kế sách cho mấy ngàn năm cả. Với những ý tưởng của ông trong một xã hội cổ đại Hy Lạp thì qủa thật đáng kính và đáng phục rồi. Có lẽ nếu ông sống vào thời đại ngay nay thì không những chỉ có bấy nhiêu vấn đề và tư tưởng và biết đâu “quốc gia lí tưởng” của ông sẽ thực hiện thành công?  Thích Nguyên Tuấn - khóa 6 [1] Xem Lịch Sử Triết Học của Bộ GD & ĐT do Bùi Thanh Quất chủ biên. NXB Giáo Dục, 1999, tr.147-51 [2] Nguyễn Tiến Dũng, Lịch Sử Triết Học Phương Tây. TPHCM: NXBHCM, 2005. tr. 31 [3] Bùi Thanh Quất & Vũ Tình, Lịch Sử Triết Học. NXB Giáo Dục, 1999, tr. 169 [4] Trí Hải & Bửu Đích dịch, Câu Chuyện Triết Học của Will Durant. SaiGòn, Tu thư Vạn Hạnh. 1971. tr.19 [5] Đây là câu ca ngợi của Hegel, một triết gia người Đức, trích trong Nguyễn Tiến Dũng, sđd, tr. 107. [6] Platon là tiếng tôn xưng của mọi người đặt cho ông với ý nghĩa là người khoẻ mạnh, thông minh xuất chúng. [7] Trí hải, sđd, tr.27. [8] Trí Hải, sđd. Trg 29 [9] Sđd, tr.34 [10] Đỗ Minh Hợp và nhiều tác giả, Đại Cương Lịch Sử Triết Học Phương Tây. NXB Tổng Hợp, 2006. tr. 148 [11] Trí Hải, sđd, tr. 37. [12] Sđd. Tr. 36. [13] Theo Lê Tôn Nghiêm, ông phân chia giá trị ba giai cấp này tương ứng với ba giai cấp ở trên là giai cấp Vàng, giai cấp Bạc, giai cấp Đồng. [14] Trí hải sđd, tr. 39. [15] Sđd, tr. 149 [16] Trí Hải, sđd, tr. 47. [17] Sđd, tr. 56. [18] Sdd, tr. 59 [19] Đỗ minh hợp, sđd, tr.153 [20] Sđd, tr. 68. [21] Sđd, tr. 65 [22] Sđd, tr.68 Ánh sáng siêu hình của Platon TTO - Platon (428-347 tr. CN) đã đẩy quan niệm về sự khác biệt căn bản giữa vẻ bề ngoài và bản chất bên trong đến cực điểm. Ông cho rằng có hai cấp độ của thực tại: thực tại của thế giới vật lý mà các giác quan của chúng ta tiếp cận được - đó là thế giới không vĩnh cửu, hay thay đổi và ảo giác – và thực tại của thế giới thực, thế giới của các Ý niệm vĩnh cửu và bất biến. Để minh hoạ sự lưỡng phân giữa hai thế giới và quan niệm cho rằng thế giới cảm giác và nhất thời chỉ là sự phản ảnh nhạt nhòa của thế giới các Ý niệm, Platon đã đưa ra một phúng dụ nổi tiếng gọi là phúng dụ hay thần thoại cái hang. Bên ngoài hang có một thế giới lung linh các màu sắc, các hình dạng và ánh sáng mà con người trong hang không thể nhìn thấy, không thể tiếp cận được. Tất cả những gì con người ở đây tri giác được, đó là bóng của các vật và các sinh vật của thế giới bên ngoài hắt lên thành hang. Thay vì sự rực rỡ của các sắc màu, sự rõ nét của các hình dạng của hiện thực, họ chỉ được thấy một màu xám buồn tẻ và các đường viền  mờ nhoè của những cái bóng. Tính hai mặt này của thế giới kéo theo tính hai mặt của Tồn tại. Trong thế giới các Ý niệm nơi cái Thiện ngự trị, nó là vĩnh cửu và bất biến, tồn tại bên ngoài thời gian và không gian; còn trong thế giới cảm giác, con tạo nhào nặn vật chất theo các kế hoạch của thế giới các Ý niệm. Liên quan đến thị giác, Platon lấy lại một số khái niệm của những người đi trước và sắp xếp chúng lại theo cách riêng của ông. Chẳng hạn, trong cuốn Timée, ông đã phát triển ý tưởng “lửa” trong mắt mà Empédocle đã phát biểu bảy mươi năm trước. Ông dẫn ví dụ về cái kim rơi xuống đất; chúng ta có thể tìm cái kim này rất lâu, nhưng, để thấy nó, thì chỉ cần cái nhìn của chúng ta  rơi trên nó, chạm vào nó, và trong một chừng mực nào đó là sờ mó nó. Như vậy thị giác là một loại xúc giác hoạt động thông qua các tia thị giác. Bằng chứng: chẳng phải đôi khi chúng ta cảm thấy có ai đó nhìn sau gáy ta đấy sao? Platon cũng chấp nhận bốn màu cơ bản của Empédocle bằng cách coi chúng gắn liền với bốn nguyên tố. Đi theo dấu chân của Démocrite, ông đã lấy lại quan niệm cho rằng có các màu là do các hạt cơ bản. Nhưng ông bác bỏ các quan niệm nguyên tử luận của Démocrite và cho rằng thế giới được cấu thành không phải từ các nguyên tử, mà từ các đa giác đều. Ở Platon, ánh sáng thuộc vào hạng siêu hình. Mặt Trời là con của cái Thiện, và mắt, nhạy cảm với ánh sáng, là một cơ quan gắn chặt nhất với Mặt Trời. Như vậy thị giác là kết quả cảu sự tổng hợp của ba quá trình bổ sung cho nhau. Mắt phát ra lửa, lửa kết hợp với ánh sáng xung quanh để tạo thành một chùm sáng duy nhất. Chùm sáng này được phóng thẳng ra phía trước cho đến khi gặp bề mặt của một vật; ở đó, nó gặp tia các hạt do vật phát ra dưới tác dụng của ánh sáng xung quanh và kết hợp với chùm sáng ban đầu. Tia các hạt này chứa thông tin về tình trạng của vật, màu sắc và kết cấu của nó. Sau đó chùm sáng co lại để truyền đến mắt những thông tin này. Các hạt đi qua những lỗ nhỏ xíu trong măt để truyền thông tin đến não, nơi diễn giải những thông tin này. Bởi vì hình ảnh sinh ra chỉ do sự gặp gỡ giữa các tia thị giác có bản chất thần thánh phát ra từ mắt chúng ta với các tia phát ra từ vật, “những gì giống nhau đi đến với nhau”, nên Platon có thể giải thích được tại sao chúng ta không thể nhìn thấy trong bóng tối: sở dĩ mắt không thể nhìn trong đêm tối, chính là bởi vì các vật không phát ra các tia, nên “lửa” bên trong mắt không thể tiếp xúc với “lửa” phát ra từ các vật bên ngoài. Trong sơ đồ Platon, mắt đồng thời là cơ quan phát và cơ quan thu, vừa chủ động vừa thụ động, và vai trò của ánh sáng xung quanh đã được nêu ra một cách rất rõ ràng. Về tư tưởng giáo dục Arixtốt Bottom of Form Người ta đã biết rõ về Arixtốt với tư cách nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ đại, khối óc bách khoa nhất trong số các nhà triết học Hy Lạp cổ đại, người đặt nền móng cho logic học. Nhưng có lẽ còn ít người biết về ông với tư cách nhà giáo dục, người mà cách đây hơn hai nghìn năm, trong các tác phẩm Về giáo dục, Chính trị học và Đạo đức học... đã đưa ra những quan điểm hết sức sâu sắc về vai trò, mục đích của giáo dục, về hệ thống giáo dục và sư phạm học... Về vai trò, mục đích của giáo dục Theo quan niệm thông thường, mọi sự giáo dục, dù công khai hay không công khai, đều hướng tới một lý tưởng nhân đạo Nhưng đối với Arixtốt, giáo dục như là cứu cánh của con người, của nhân loại, là điều kiện rất quan trọng để cá nhân hoà đồng với xã hội. Arixtốt cho rằng tài sản tối cao mà mọi người đều mong ước, đó là hạnh phúc. Nhưng con người hạnh phúc của Arixtốt không phải là con người hoang dại, không phải là con người ở tình trạng tự nhiên, mà là con người được giáo dục, con người sung sướng, sống tốt, có đạo đức ông tự đặt câu hỏi: Có phải hạnh phúc là một cái gì có thể học được hay thu nhận được qua tập quán, qua các cuộc tập dượt, hoặc cuối cùng, có phải hạnh phúc đến với chúng ta do sự chia sẻ của một ơn huệ thần thánh nào đó hay chỉ là do sự may rủi. Arixtốt cho rằng, ở con người có hai phẩm hạnh cơ bản là phẩm hạnh trí tuệ vả phẩm hạnh luân lý. Phẩm hạnh trí tuệ phụ thuộc phần lớn vào học vấn đã tiếp thu được, cả cho sự sản sinh, sự lớn lên và do vậy, phẩm hạnh ấy cần đến kinh nghiệm và thời gian. Còn phẩm hạnh luân lý là sản phẩm của tập quán và do vậy, không có một phẩm hạnh luân lý nào được sản sinh do tự nhiên (mang tính bẩm sinh). Ông viết: "Người ta muốn trở thành người tất thì phải tiếp nhận một sự giáo dục và các tập quán của con người tất". Như vậy, trong quan niệm của Arixtốt, phẩm hạnh trí tuệ được hình thành thông qua giáo dục, còn phẩm hạnh luân lý được hình thành thông qua tập quán và do vậy, ngay từ khi còn nhỏ, con người cần được giáo đục cả về kiên thức và tập quán của loài người. Arixtốt cho rằng ba yếu tố làm cho con người trở thành người tất và đạo đức là: tư chất, tập quán và lý trí (raison). Con người, theo ông ngay từ khi sinh ra đã có tư chất của một con người, đã có một số khuynh hướng phát triển về thể xác và tinh thần. Nhưng cũng có nhiều phẩm chất (năng khiếu) vốn có ở con người lại chẳng có lợi ích gì cho con người, bởi các tập quán mà người ta tiếp nhận được từ giáo dục trong gia đình và xã hội đã làm biến đổi chúng, thậm chí còn làm cho chúng mất hẳn. Hơn nữa, dưới tác động của các tập quán, một số phẩm chất thuộc về bản chất cơ thể đã quay hướng về cái tất nhất hay cái xấu nhất. Ngoài tư chất, tập quán, con người còn sống bằng lý trí và chỉ có con người mới có lý trí. Khi tư chất (năng khiếu) của con người được lý trí thuyết phục theo một xu hướng khác, nghĩa là thông qua giáo dục, thì nó sẽ tất hơn cái năng khiếu bấm sinh vốn có ở con người. Do đó, sự kết hợp hài hoà cả ba yếu tố (tư chất, tập quán và lý trí) trong con người là rất cần thiết. Với quan niệm đó, Arixtốt cho rằng, để đạt đến hạnh phúc, đến sự hoàn thiện, con người phải có một số năng khiếu (khuynh hướng) nhất định ngay từ khi còn nhỏ. Nhưng cái đó chưa đủ. Phải thông qua giáo dục thì hạnh phúc tiềm tàng mới trở thành hiện thực. Tương tự như vậy, ông cho rằng, chỉ có thông qua giáo dục, con người mới có được các phẩm chất và sự khôn ngoan và do vậy nó cần phải học nghệ thuật sống. Trong triết lý giáo dục Arixtốt, giáo dục hướng đến sự thư nhàn chiếm vị trí trung tâm và đó là khâu chủ yếu của việc giáo dục nghệ thuật làm người. Theo Arixtốt, con người chỉ có được hạnh phúc thực sự khi có được sự thư nhàn. Sự thư nhàn mà Arixtốt nói đến ở đây không đồng nghĩa với sự rong chơi, đó là tài năng của con người trong việc sử dụng một cách tự do thời gian của mình. Và sự tự do là mục tiêu cuối cùng của giáo dục, bởi con người không thể có hạnh phúc khi không có tự do, sự tự do được thực thi trong chiêm nghiệm, hoặc trong hoạt động triết học, tức là trong sự hoạt động của ý thức khi đã gạt bỏ mọi sự ràng buộc về vật chất. Điều này phù hợp với quan niệm của ông về triết học: triết học là nhu cầu của những nhu cầu đã được thỏa mãn. Vì thế, theo ông, giáo dục thường không mang tính chất đào tạo nghề nghiệp, bởi việc thực thi một nghề có thể là một thứ nô lệ hạn chế. Với Arixtốt, chức năng cao hơn của giáo dục là đem lại cho con người sự tự do sáng tạo và một năng lực toàn diện chứ không phải chỉ là cung cấp cho họ một nghề nghiệp rất hạn chế và do vậy, làm cho họ trở nên què quặt. Theo Arixtốt, sự thư nhàn mà giáo dục cần hướng tới còn là con người được tự do chăm lo đến các việc cần thiết. Chính qua sự tự do đó mà con người có được sự khôn ngoan, sự hiến dâng cho triết học, sự chiêm nghiệm và đây mới là hạnh phúc thực sự của con người. Thông qua thư nhàn - biểu hiện của sự tự do, giáo dục phải đạt được mục đích cuối cùng của con người là cuộc sống trí tuệ và năng lực ý thức. Đối với Arixtốt, giáo dục không những dẫn con người đến đạo đức, nguồn gốc chủ yếu của hạnh phúc, mà còn tạo ra các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng và ổn định đạo đức, nghĩa là đảm bảo hạnh phúc cho cộng đồng. Theo Arixtốt, chính do giáo dục mà cộng đồng và xã hội được hình thành. Sự hình thành xã hội gắn liền với sự hình thành cộng đồng, mà sự hình thành cộng đồng là do giáo dục đem lại. Arixtốt nhấn mạnh, để thiết lập một xã hội có đạo đức và bảo đảm tối đa hạnh phúc cho công dân, thì không thể phó mặc cho sự may rủi, mà phải dựa vào khoa học và ý chí. Và ông còn cho rằng, giáo dục không những tạo ra xã hội, cộng đồng cấu thành xã hội, mà còn đảm bảo sự ổn định xã hội. Theo ông, bất cứ một sự thay đổi nào cũng có thể dẫn đến sự tham nhũng và do vậy, cái mà ông mong tìm được là một xã hội lý tưởng, hiện thực trong trạng thái ổn định. Cuối cùng, Arixtốt cho rằng, nếu giáo đục cá nhân phải hướng đến sự thư nhàn, thì ở cấp nhà nước, giáo dục phải là giáo dục cho hoà bình. Cũng như thư nhàn, mục tiêu cuối cùng của đời sống cá nhân, hoà bình là mục tiêu cuối cùng của chiến tranh xã hội. Cuộc sống, về tổng thể, gồm hai bộ phận: công việc và thư nhàn, chiến tranh và hoà bình. Do vậy, chiến tranh phải hướng đến hoà bình, công việc phải hướng đến thư nhàn; cái cần thiết và hữu ích phải hướng đến những điều cao thượng, đến những cái mà các chính khách phải chú ý tới trong việc lập pháp, cũng như trong việc giáo dục công dân. Về hệ thống giáo dục Hệ thống giáo dục mà Arixtốt hướng tới là một nền giáo dục thường trực, thường xuyên và liên tục, bao trùm và kéo dài suốt đời người. Quá trình đó được chia thành nhiều giai đoạn; mỗi giai đoạn gồm bảy năm. Giai đoạn đầu là giai đoạn giáo dục trẻ em trước khi vào học ở trường. Ở giai đoạn này, trách nhiệm giáo dục thuộc về cha mẹ, nhất là người cha. Bởi, người cha là tác giả của sự tồn tại của đứa trẻ (ơn huệ lớn nhất) cũng như của sự nuôi dưỡng và giáo dục nó. Nhiệm vụ giáo dục này được thực hiện trước khi đứa trẻ sinh ra, cho nên cần áp đụng các biện pháp để trẻ em khi sinh ra có được các phẩm chất vật chất thiết yếu. Cụ thể, tuổi cha và tuổi mẹ phải ở một độ tuổi nhất định nào đó và nên có thai vào mùa đông. Trong thời kỳ thai nghén, người mẹ phải chăm sóc kỹ lưỡng thân thể mình bằng cách đi dạo chơi và ăn uống đầy đủ, đồng' thời phải có sự yên tĩnh hoàn toàn về tư tưởng. Trẻ sơ sinh phải có được một khẩu phần ăn giàu về chất. Ngay từ tuổi ấu thơ, trẻ em phải được rèn luyện về thân thể vả phải được làm quen với giá rét. Đến 5 tuổi, trẻ em cần được đào luyện với các trò chơi. Nhưng các trò chơi phải thích hợp với chúng, không được gây cho chúng sự mệt mỏi và quá buông thả. Ở chúng, mọi sự thô lỗ trong ăn nói, hoặc việc xem các bức tranh không đúng đắn phải được loại trừ để tránh gây cho chúng những cảm giác không xứng đáng, bởi nếu không, đến tuổi thanh niên sau này, chúng sẽ xa lạ với tất cả những thứ mà luân lý trách phạt. Khi 5 tuổi đầu qua đi, trong 2 năm tiếp theo, trẻ em cần được tham gia với tư cách thính giả của các buổi giảng dạy mà bản thân chúng phải nghiền ngẫm sau này. Đến 7 tuổi, trẻ em cần được đến trường. Thời kỳ này kéo dài đến tuổi 21 và được chia làm ba cấp. Tuy nhiên, quá trình giáo dục chưa phải đã hoàn thành ở tuổi 21. Nhưng, không còn nghi ngờ gì nữa, trong thời kỳ này, con người đã được tiếp thu một sự giáo dục và sự chăm sóc rất sáng suốt, bởi ngay cả khi đã đến tuổi người lớn, họ vẫn phải thực hành những điều mà họ đã học được ở thời ký này và chuyển chúng thành những tập quán, thói quen của mình. Theo Anxtốt, thân thể đạt đến độ chín ở giữa tuổi 80 và 35, còn tâm linh thì vào khoảng tuổi 49. Đối với Arixtốt, giáo dục là công việc của nhà nước. Các trường học phải là trường công lập. Cũng như Platôn, Anxtốt đã đi trước thời đại trong việc xây dựng hệ 'thống giáo dục công lập mà ngày nay, chúng ta vẫn đang thực hiện. Việc thiết lập một sự giảng dạy công cộng là một sự dân chủ hoá của giáo dục. Giáo dục nhất thiết phải là thông nhất và đồng nhất cho mọi người, kể từ khi lọt lòng cho đến 21 tuổi. Về sư phạm học Trước hết, Arixtốt cho rằng, cần phải tránh sự cực đoan, thái quá trong giảng dạy. Ngay cả trong lĩnh vực thể dục, cũng không nên mong muốn đào tạo nên những nhà vô địch với bất ký giá nào. Và trong giảng dạy âm nhạc, nên hướng đến sự hình thành thú vui âm nhạc ở mọi người hơn là đào luyện các ký tài. Hơn nữa, chỉ nên đòi hỏi ở người học những cái mà anh ta có thể làm được. Và không nên áp đặt những bài học chính trị đối với lớp thanh niên khi mà họ chưa có một kinh nghiệm nào về cuộc sống. Cuối cùng, giảng dạy phải có giới hạn thích hợp đối với người học, phải tính đến tuổi tác, tính cách, năng lực tiếp thu, thể lực của người họe, bởi sự lập luận nhanh và đúng đắn không phải là năng lực có tính đồng đều ở mọi người học. Theo Arixtốt, để phù hợp với tư chất của con người, cả về thân thể, tinh thần và lý trí, sự giáo đục phải được tiến hành qua từng giai đoạn, trong đó việc chăm sóc thân thể phải đi trước việc chăm sóc tinh thần và tiếp đến, phải thực hiện việc chăm lo sở thích. Nhưng, chăm lo sở thích là để phục vụ cho trí tuệ và chăm sóc thân thể là để phục vụ cho tinh thần. Do lý trí và trí tuệ chỉ phát triển ở trẻ em từ một độ tuổi nào đó, nên giáo dục cần được khởi đầu bởi thể dục, tiếp đến là âm nhạc và kết thúc bằng triết học. Arixtốt phân biệt hai loại sư phạm bổ sung cho nhau: giáo dục bằng lý trí và giáo đục bằng tập quán. Đối với giáo đục bằng tập quán, Arixtốt không ủng hộ cách dạy với sự lặp lại một cách máy móc (đối lập với cái mà ngày nay chúng ta gọi là "sư phạm tích cực") Trong Đạo đức học, ông nhấn mạnh: Cái thứ mà chúng ta được học để làm ra, thì trong khi làm, chúng ta đã học cái thứ ấy. Thí dụ, chính chúng ta xây dựng mà chúng ta trở thành nhà xây dựng, chính chúng ta chơi đàn cithara mà chúng ta trở thành nghệ nhân chơi cithara. Điều đó cũng có giá trị đối với giáo dục đạo đức, luân lý: Chính qua thực thi các hành động đúng mà chúng ta trở thành người đúng đắn, thực thi các hành động có điều độ mà chúng ta trở thành người điều độ, thực thi các hành động can đảm mà chúng ta trở thành người can đảm, thực thi khoa học mà chúng ta trở thành nhà khoa học, trở thành người nắm vững khoa học. Bằng tập quán và sự giáo dục tích cực đó, các năng khiếu tự nhiên của con người sẽ không ngừng được phát triển. Theo Arixtốt, phương pháp giáo dục như vậy không khiến cho người học phải hứng chịu một cách thụ động. Trái lại, chỉ có phương pháp đó mới đánh giá chính xác kết quả học tập. Cũng ở đây, lý thuyết về giáo dục đã đi theo trọng tâm của hệ thống triết học Arixtốt: được hành động là một thú vui của con người. Với Arixtốt, việc giáo dục bằng tập quán liên quan đến sự bắt chước, kinh nghiệm và trí nhớ. Ông cho rằng, con người thích bắt chước. Đó là tập tính cố hữu của con người: có ở con người ngay từ khi còn là trẻ thơ. Và theo ông, tất cả mọi nghệ thuật đều xuất phát từ sự bắt chước thiên nhiên. Do vậy, sự bắt chước là yếu tố chính trong giảng dạy và giáo dục. Trong giáo dục đạo đức, phải có gương tốt bởi không có gương tất thì không thể có được sự bắt chước những điều tất, và điều đó là đúng với mọi lĩnh vực. Nhưng có một số phẩm hạnh và kiến thức mà con người chỉ có thể thu nạp được bằng kinh nghiệm. Ví dụ, sự thận trọng và sự thận trọng chỉ có thể trở thành thông thuộc với con người khi được thông qua kinh nghiệm, điều mà một thanh niên không bao giờ có được. Chính vì vậy mà người ta có thể tự hỏi vì sao một đứa trẻ đã có thể trở thành nhà toán học, mà lại không có khả năng trở thành nhà triết học, hoặc ngay cả nhà vật lý học. Nói về vai trò của trí nhớ và sự lập lại nhiều lần của các hành động trong giáo dục, Arixtốt cho rằng, giáo dục bằng lý trí là phần phụ, bổ sung cho giáo dục bằng tập quán. Mục đích của nó là làm cho người học hiểu rõ về các nguyên nhân của mỗi sự vật. Giáo dục bằng lý trí thường hướng đến cái phổ thông, cái vượt qua kinh nghiệm. Với những người chỉ có kinh nghiệm, họ biết rất rõ cái gì của sự vật, nhưng lại mù tịt cái tại sao của nó, còn những người có tri thức khoa học thì lại hiểu cả cái tại sao lẫn cái vốn có của sự vật. Arixtốt xác định hai phương pháp đặc trưng của giáo dục bằng lý trí là giảng dạy theo lối quy nạp và giảng dạy theo lối diễn dịch. Theo ông, trên thục tế, chúng ta chỉ học theo lối quy nạp hoặc diễn dịch mà thôi. Muốn chứng minh được tính chân thực, trước hết phải xuất phát từ các nguyên tắc phổ biến và quy nạp (từ các trường hợp riêng biệt). Theo Arixtốt, các khoa học lý thuyết (toán học, thần học) được giảng dạy phần lớn theo cách diễn dịch, có nghĩa là không xuất phát từ các thí dụ, mà từ các nguyên tắc phổ biến. Đây là trình độ cao nhất của giáo dục bằng lý trí và do đó, được thực thi bằng phép tam đoạn luận. Như vậy, ở Arixtốt, giáo dục bằng lý trí trùng hợp với sự vận động của khoa học hay triết học lý luận, còn giáo dục bằng tập quán trùng hợp với hành động đạo đức hay triết học thực hành... Tóm lại, theo Arixtốt, do bản chất của mình, con người vốn đã có những năng khiếu đặc biệt, nhưng chỉ có thể bằng giáo dục thì con người mới học được cách làm người, mới trở thành con người thực thụ, con người hoàn thiện. Tất cả các hoạt động nghệ thuật, các hoạt động giáo dục đều hướng đến mục tiêu khắc phục những nhược điểm của con người. Chính thông qua giáo dục mà nền văn hoá của nhân loại được tạo dựng. Khi con. người đã trở nên hoàn thiện thì không cần đến giáo dục. Lý thuyết giáo dục của Arixtốt không mất đi tỉnh thời sự của nó. Điều mà ông nói về vai trò của giáo dục trong xã hội, về một hệ thống giáo dục thường xuyên và một nền giáo dục cho hoà bình, về sư phạm học đã khiến cho những người có trách nhiệm đối với nền giáo dục hiện thời phải suy ngẫm. Đặc biệt, điều đó rất có ý nghĩa đối với việc xây dựng và phát triển nền giáo dục Việt Nam, một nền giáo dục đang thiếu sự định hướng của tư duy triết học. Giáo dục như thế nào là đúng le manh cuong  - Email:  tgcvietnam@gmail.com   (03/07/2009 11:58:56 PM) Giáo dục như thế nào là đúng thì trong chế độ xã hội, tức là cái môi trường của giáo dục nó tự làm tất cả. Đối với môi trường xã hội tư bản hiện nay thì giáo dục chủ yếu là chạy theo bằng cấp, chạy theo những cái không có thực tế. Còn trong chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa thì sao? Nó chưa được thực tế hóa chế độ này nhưng, cũng nên phải bàn tới để xác định được định hướng. Cổ phần hóa giáo dục nên hay không nên? Nhiều ý kiến phản đối cổ phần hóa giáo dục là đúng, nhưng chỉ đúng với hoàn cảnh mà người ta nói hiện tại và phải xem xem cái đề án cổ phần hóa này như thế nào thì mới biết chính xác là đúng hay sai, nếu làm và căn cứ như việc cổ phần hóa của các doanh nghiệp hiện nay thì đúng là sai hoàn toàn. Cụ thể làm sao có động lực cho giáo dục phát triển thì tất yếu phải chuyển đổi thành sở hữu của những người bên trong đó để họ tâm huyết làm việc cho tốt. Ở đây tôi nói tới mô hình xã hội chủ nghĩa không nói tới việc cổ phần như hiện nay và chắc chắn rằng đề án cổ phần hóa này không có khả thi vì, làm được theo mô hình xã hội chủ nghĩa phải có nhiều định hướng khác liên quan. Trong chế độ xã hội tư bản chủ nghĩa, nhiều người bàn tới triết lý giáo dục, nhưng không đề cập tới nhiều cơ chế giáo dục, nhu cầu giáo dục và cái thực tế để giáo dục, tức là hiện nay người ta chỉ biết có giáo dục như thế nào, giáo dục ra sao còn giáo dục để làm gì thì ít ai hiểu, có nghĩa là theo tôi hiểu thì người ta chỉ biết cải thiện biện pháp giáo dục còn, làm gì để tạo ra được động lực, tức là phải có động cơ và cơ chế cho giáo dục có thể tự phát triển thì không có. Cụ thể trong vấn đề giáo dục tôi cũng nhận thấy có nhiều điều khó hiểu. Cái quan trọng nhất của giáo dục là có trở nên thành tài hay không thành tài, rồi sau đó là có được việc hay không được việc, có nghĩa là phải làm được việc còn, có nhiều bằng cấp, học vị mà những công trình thực tế không có thì cũng không nên coi đó là chức tước học vị quan trọng, cái gì cũng phải nên thực tế. Có khi là giáo dục nhưng không quan tâm tới bằng cấp, học vị, chỉ cần biết giáo dục tốt, làm được việc và công việc thực tế sẽ tự cấp cho mỗi người một cái bằng, dựa vào những việc mà họ làm được. Có nghĩa là giáo dục nên không cấp bằng, không quan tâm tới bằng cấp mà chỉ cần đưa ra được một yêu cầu và tạo mọi điều kiện cho giáo dục và kiểm soát được nó là được, trong thực tế xã hội sẽ tự cấp cho người được giáo dục cái bằng, cái quan trọng nhất là làm được việc còn bằng cấp hay không có bằng cấp không quan trọng, ở đây chính là môi trường để cho người được giáo dục lẫn người giáo dục và người chưa được giáo dục có được sự hăng say, đam mê và nỗ lực để làm được việc. Công việc làm được không phải là thể hiện như hình thức ghi điểm và rồi dựa vào đó để đánh giá như từ trước tới nay mà là một môi trường thực sự, một môi trường mà giúp cho những người được giáo dục có thể phát huy được hết khả năng của mình, thông qua người giáo dục, thậm chí là bất cứ người nào có nhu cầu cũng phát huy được hết khả năng của mình. Từ cái môi trường này thì chúng ta chẳng cần phải biết giáo dục như thế nào, giáo dục ra sao, tự thân giáo dục sẽ vận động, ai cần như thế nào thì thực hiện như thế và cũng được đáp ứng như thế... Đòi hỏi trong lãnh đạo và quản lý xã hội phải tổ chức ra được những môi trường thực tế giúp cho người được giáo dục thi thố tài năng, năng lực của mình qua đó để chứng minh, nếu không có cái này thì coi như cũng không có được gì vì, học là phải để làm được cái gì đó, ngay cả trong những bậc học từ mầm non trở đi đều như vậy, ở cấp nào thì tổ chức môi trường thi thố tài năng ở cấp đó, những gì

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLoài người sẽ không tránh khỏi cái ác cho tới khi các nhà triết học chân chính và biết tư duy đúng đắn chưa giữ được các chức trách nhà nước hoặc các .doc
Tài liệu liên quan