MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN . 8
1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước . 8
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước. 11
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT . 29
2.1. Khái niệm, đặc điểm, nguyên tắc áp dụng hình phạt. 29
2.2. Nhiệm vụ, nội dung, ý nghĩa của áp dụng hình phạt . 56
2.3. Các yếu tố tác động đến áp dụng hình phạt . 66
Chương 3: THỰC TRẠNG CƠ SỞ PHÁP LÝ CỦA ÁP DỤNG HÌNH
PHẠT VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT TẠI CÁC TÒA ÁN
QUÂN SỰ. 77
3.1. Thực trạng cơ sở pháp lý của áp dụng hình phạt . 77
3.2. Thực tiễn áp dụng hình phạt tại các Tòa án quân sự. 91
3.3. Những hạn chế, sai sót phổ biến trong áp dụng hình phạt tại các Tòa án
quân sự và nguyên nhân. 102
Chương 4: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT. 114
4.1. Yêu cầu nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt . 114
4.2. Các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng hình phạt . 123
KẾT LUẬN . 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨUCỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG
BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 152
184 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 359 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Áp dụng hình phạt theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử của các tòa án quân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ết định chuyển sang áp dụng một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn hình
phạt quy định trong chế tài đó. BLHS quy định 3 loại chế tài như sau: Một là,
chế tài tuyệt đối. Đây là loại chế tài mà trong chế tài đó BLHS chỉ quy định
một loại hình phạt chính bắt buộc Tòa án phải áp dụng trong giới hạn đã được
quy định mà không có quyền lựa chọn hình phạt khác, không có quyền có hay
không ADHP chính đã được quy định đó. Hai là, chế tài lựa chọn. Đây là loại
chế tài mà trong đó BLHS quy định có nhiều hình phạt chính, Tòa án có thể
căn cứ vào các tình tiết cụ thể của vụ án để lựa chọn một hình phạt chính
được quy định trong chế tài đó để áp dụng đối với người phạm tội. Ba là, chế
tài tùy nghi. Đây là loại chế tài mà trong đó BLHS quy định cho phép Tòa án
có quyền tùy nghi áp dụng hay không áp dụng một loại hình phạt nào đó được
quy định trong chế tài. Chế tài tùy nghi được quy định nhiều ở các điều luật
của BLHS trong điều khoản quy định về hình phạt bổ sung, ở trong các điều
luật về một khoảng tùy nghi nhất định về mức độ hình phạt có thể áp dụng đối
với người phạm tội.
79
Việc quy định chế tài lựa chọn, chế tài tùy nghi bảo đảm quan trọng
cho việc cá thể hóa hình phạt của Tòa án trong ADHP. Khi ADHP, về nguyên
tắc thì Tòa án chỉ được áp dụng các loại hình phạt được quy định trong chế tài
đó, nhưng trừ trường hợp người phạm tội có đủ điều kiện và Tòa án áp dụng
khoản 3 Điều 54 BLHS để quyết định chuyển sang áp dụng một hình phạt
khác thuộc loại nhẹ hơn hình phạt quy định trong chế tài đó.
Hiện nay, trong phần các tội phạm của BLHS đa số chế tài là lựa chọn.
Chẳng hạn như lựa chọn giữa hình phạt tù có thời hạn với hình phạt tù chung
thân và với hình phạt tử hình trong các chế tài đối với các tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng; lựa chọn giữa hình phạt tù có thời hạn với các hình phạt không
phải tù trong các chế tài đối với các tội phạm nghiêm trọng, tội phạm ít
nghiêm trọng và một số ít tội phạm rất nghiêm trọng; lựa chọn giữa hình phạt
cải tạo không giam giữ với hình phạt tiền, hình phạt cảnh cáo trong một số
chế tài đối với tội phạm ít nghiêm trọng
Chế tài tùy nghi trong BLHS đa số được quy định ở các điều luật đối
với hình phạt bổ sung. Đồng thời, chế tài tùy nghi còn được quy định ở trong
các điều luật về mức độ hình phạt có thể áp dụng đối với người phạm tội.
3.1.3. Quy định về các căn cứ quyết định hình phạt
Các căn cứ QĐHP là những đòi hỏi cơ bản có tính nguyên tắc được luật
hình sự quy định cụ thể, rõ ràng hoặc do giải thích pháp luật mà có. Các đòi
hỏi đó có tính bắt buộc thực hiện khi Tòa án ADHP. Những đòi hỏi mang tính
nguyên tắc đó chính là những biểu hiện, đòi hỏi của nguyên tắc ADHP, là
những căn cứ QĐHP mà Tòa án bắt buộc phải tuân theo. Tính nguyên tắc của
các căn cứ khi ADHP của Tòa án thể hiện sự thống nhất và có mối liên hệ hết
sức chặt chẽ giữa các nguyên tắc QĐHP và các căn cứ QĐHP. Có thể xác
định rằng các nguyên tắc QĐHP chính là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng
hoạt động của Tòa án khi áp dụng các chế tài của luật hình sự đối với người
phạm tội thì các căn cứ QĐHP chính là những đòi hỏi mà Tòa án phải lấy đó
là căn cứ để QĐHP. Khi QĐHP, Tòa án không những phải tuân theo các
nguyên tắc nhất định mà còn phải dựa vào những căn cứ đã được luật hình sự
80
quy định thì mới có đầy đủ điều kiện để QĐHP bảo đảm hình phạt được tuyên
thực sự đúng đắn, phù hợp, công bằng và đạt được mục đích của hình phạt.
Ngoài các căn cứ luật định thì yếu tố ý thức pháp luật của Thẩm phán
và Hội thẩm có ý nghĩa rất quan trọng. Để QĐHP đúng, Thẩm phán, Hội thẩm
phải dựa vào ý thức pháp luật của mình, ý thức đó là sự kết tinh từ tư tưởng
pháp luật, nền tảng ý thức được xây dựng từ kinh nghiệm thực tiễn phong
phú, đạo đức, bản lĩnh và trách nhiệm công dân đối với xã hội. Có như vậy
Tòa án mới có thể QĐHP đúng pháp luật, loại và mức hình phạt áp dụng mới
bảo đảm sự hợp lý và công bằng, bản án đã tuyên được đông đảo dư luận
quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ, đạt được hiệu quả giáo dục, cải tạo
người phạm tội. Điều 50 BLHS quy định các căn cứ QĐHP như sau:
Một là, căn cứ vào các quy định của BLHS. Tòa án ban hành bản án
phản ánh những quy định của phần chung của BLHS thể hiện việc đánh giá
cụ thể về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện,
nhân thân của người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự để lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể phù hợp đối
với người bị kết tội. Khi QĐHP, Tòa án cũng đồng thời phải căn cứ vào các
chế tài của điều, khoản ở phần tội phạm của BLHS; căn cứ vào loại và khung
hình phạt được quy định với mỗi tội mà người bị kết án đã thực hiện; căn cứ
vào những chế tài cụ thể được quy định với từng tội cụ thể để chọn một loại
hình phạt và một mức hình phạt sao cho bảo đảm được tính hợp lý, công
bằng, nhân đạo và khả thi nhằm đạt được hiệu quả cao nhất mục đích của hình
phạt đã tuyên. Do vậy, Tòa án phải căn cứ vào tất cả các quy định của BLHS
có liên quan trực tiếp đến tội phạm mà người bị kết án đã thực hiện trong một
chỉnh thể thống nhất, phải luôn xem xét, cân nhắc và chỉ rõ trong bản án kết
tội bị cáo về những quy định của BLHS có liên quan trực tiếp đến việc QĐHP
của mình. Chính các quy định của BLHS là căn cứ cơ bản, quan trọng nhất và
là đòi hỏi tiên quyết của nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa khi QĐHP.
Hai là, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội. Khi QĐHP, Tòa án xem xét, đánh giá về tính chất và mức độ
81
nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Xét về tính chất nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội thì trước hết và quan trọng nhất là khách thể bị
xâm hại, đó là tính quyết định bởi ý nghĩa, tính chất, tầm quan trọng và giá trị
của các quan hệ xã hội mà hành vi phạm tội đã gây hại. Bên cạnh đó, tính chất
nguy hiểm cho xã hội còn phụ thuộc vào các dấu hiệu khác về mặt khách
quan, mặt chủ quan và chủ thể của tội phạm. Xét về mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội là tổng thể các dấu hiệu của cấu thành tội phạm
và thuộc về tính khách quan của tội phạm. Có thể thấy, tính chất của tội phạm
thể hiện ở dạng mức độ về chất, mức độ nguy hiểm của nó thể hiện ở dạng
mức độ về lượng của cùng một chất là tính chất nguy hiểm cho xã hội của tội
phạm. Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm luôn gắn liền
nhau không thể tách rời, cùng tồn tại và bổ sung cho nhau. Khi dựa vào căn
cứ này, Tòa án phải luôn xem xét, đánh giá cả tính chất và mức độ nguy hiểm
cho xã hội của tội phạm một cách đồng thời trong một chỉnh thể với mối liên
hệ qua lại mật thiết không được tách rời nhau. Khi QĐHP, Tòa án phải xác
định rõ trong bản án những tình tiết để chứng minh tính chất và mức độ nguy
hiểm cho xã hội của tội phạm mà Tòa án dựa vào đó và kết hợp với các tình
tiết khác của vụ án như hậu quả do tội phạm gây ra, thời gian, địa điểm, hoàn
cảnh, thủ đoạn, công cụ, phương tiện thực hiện tội phạm, lỗi, động cơ, mục
đích phạm tội để chọn loại hình phạt và mức hình phạt cụ thể đối với người bị
kết án. Như vậy, tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là
một trong những căn cứ quan trọng để Tòa án QĐHP. Do đó, khi QĐHP đối
với người bị kết án, Tòa án phải luôn cân nhắc tổng thể các tình tiết, các dấu
hiệu, để bảo đảm khi bản án được tuyên sẽ có một hình phạt với mức phạt
công bằng, hợp lý và nhân văn.
Ba là, căn cứ vào nhân thân người phạm tội. Ngoài việc căn cứ vào
tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đã thực hiện,
Tòa án phải xem xét, cân nhắc tới nhân thân của người phạm tội. Nhân thân
bao gồm những đặc điểm, đặc tính khác nhau thể hiện bản chất xã hội, thể
82
hiện tính cá biệt, không lặp lại và mang tính chất chính trị - xã hội, tâm sinh
lý, đạo đức riêng của mỗi cá nhân.
Khi xét xử, Tòa án phải cân nhắc tới nhân thân người phạm tội chính là
phải cân nhắc tới những đặc điểm, đặc tính đó để làm cơ sở cho việc xác định,
đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của người phạm tội và đánh giá khả
năng giáo dục, cải tạo họ, đánh giá hiệu quả của chính sách nhân đạo của Nhà
nước ta về quan điểm, đường lối xử lý tội phạm. Trong từng vụ án cụ thể thì
mỗi đặc điểm nhân thân người phạm tội có mức độ ảnh hưởng khác nhau và
cũng có những ý nghĩa khác nhau đối với việc QĐHP của Tòa án. Đặc điểm
nhân thân người phạm tội có ảnh hưởng đến việc QĐHP dưới các góc độ nhất
định khác nhau. Chẳng hạn như ảnh hưởng dưới góc độ là những tình tiết ảnh
hưởng đến tính chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm (Ví dụ: Tái phạm, tái
phạm nguy hiểm, phạm tội nhiều lần); ảnh hưởng dưới góc độ về khả năng
giáo dục, cải tạo người phạm tội để đạt được mục đích của hình phạt (Ví dụ:
Tái phạm, người chưa đủ 18 tuổi, người già, người từ đủ 75 tuổi trở lên);
ảnh hưởng dưới góc độ các đặc điểm đó thể hiện tính nhân đạo của pháp luật
trong chính sách hình sự của Nhà nước ta (Ví dụ: Phụ nữ có thai, người mắc
bệnh hiểm nghèo, dị tật bẩm sinh, có công với nước được khen thưởng, người
có nhân thân tốt chưa vi phạm pháp luật lần nào). Chính sự tác động, ảnh
hưởng của các đặc điểm nhân thân người phạm tội đó mà Tòa án phải luôn
xem xét, cân nhắc để làm tăng nặng hay làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự
đối với người phạm tội khi QĐHP đối với họ.
Khi QĐHP, Tòa án phải cân nhắc tất cả các căn cứ để QĐHP, trong đó
phải coi trọng yếu tố quan trọng, quyết định hàng đầu của căn cứ tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm đã thực hiện, do căn cứ này luôn
là thước đo khách quan duy nhất của trách nhiệm hình sự và của việc QĐHP.
Vì vậy, khi QĐHP, Tòa án cần khắc phục các hiện tượng do nhận thức lệch
lạc như còn quá coi trọng căn cứ nhân thân của người phạm tội mà quyết định
một loại và mức hình phạt thiếu căn cứ, không tương xứng tính chất và mức
83
độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm, mà coi đó là tính nhân đạo trong chính
sách hình sự của Nhà nước đối với người bị kết án.
Khi xem xét, cân nhắc tới nhân thân người phạm tội, Tòa án cần xem
xét một yếu tố không thể thiếu, đó là chủ thể của tội phạm. Cả trong lý luận
và thực tiễn xét xử, nhân thân người phạm tội và chủ thể của tội phạm đều là
đặc trưng của người phạm tội, nhưng cho thấy luôn có sự khác nhau về ý
nghĩa của nó. Bởi vì, nhân thân người phạm tội là thực hiện chức năng của
một trong các căn cứ QĐHP, còn chủ thể của tội phạm là thực hiện chức năng
của một trong các yếu tố của cấu thành tội phạm và là cơ sở của trách nhiệm
hình sự mà biểu hiện rõ nét ở các dấu hiệu như năng lực trách nhiệm hình sự
về độ tuổi, điều kiện về chủ thể như phạm tội nhiều lần, tái phạm hay tái
phạm nguy hiểm, người có chức vụ, quyền hạn, nhất là đối với những chủ
thể đặc biệt thì nó có vai trò là những dấu hiệu bắt buộc.
Như vậy, các đặc điểm, đặc tính của nhân thân người phạm tội có ý
nghĩa rất lớn đối với việc cá thể hóa hình phạt, đây là căn cứ quan trọng
không thể thiếu khi QĐHP. Do đó, khi QĐHP, Tòa án phải có sự xem xét,
đánh giá độc lập không trùng lắp các đặc điểm, đặc tính thuộc về nhân thân
người phạm tội và các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm, nếu các đặc
điểm nhân thân được coi là dấu hiệu bắt buộc của chủ thể tội phạm khi định
tội thì Tòa án không áp dụng đặc điểm đó với tư cách là đặc điểm thuộc nhân
thân người phạm tội để làm căn cứ QĐHP nữa. Có như vậy mới bảo đảm tính
căn cứ đầy đủ, khách quan cho việc QĐHP bảo đảm đúng pháp luật, công
bằng, phù hợp với tội phạm và đạt được mục đích của hình phạt đã tuyên, thể
hiện được tính nhân đạo, công bằng và cá thể hóa hình phạt trong thực tiễn
xét xử. Tòa án thực hiện đúng quy định này trong thực tiễn xét xử sẽ có ý
nghĩa giáo dục cải tạo và phòng ngừa rất cao.
Bốn là, căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm
hình sự. Các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự là một trong
các căn cứ của việc QĐHP được quy định tại Điều 50 của BLHS. Giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự là các tình tiết khác nhau về tội phạm, các tình tiết về
84
nhân thân của người phạm tội đã được quy định tại Điều 51 BLHS hoặc chưa
quy định cụ thể trong BLHS nhưng được Tòa án xem xét áp dụng với ý nghĩa
làm giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án và giải thích rõ lý
do giảm nhẹ trong bản án. Tuy nhiên, có những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự được áp dụng đối với mọi tội phạm như quy định cụ thể tại khoản 1
Điều 51 BLHS; có những tình tiết được Tòa án coi là tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS là những tình tiết
không bắt buộc áp dụng đối với mọi tội phạm mà chỉ được Tòa án xem xét áp
dụng đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể. Tăng nặng trách nhiệm hình sự
là các tình tiết khác nhau về tội phạm, các tình tiết về nhân thân người phạm
tội đã được quy định tại Điều 52 BLHS được Tòa án xem xét áp dụng với ý
nghĩa làm tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án. BLHS quy
định các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mang tính bắt buộc đối với
mọi tội phạm. Tòa án chỉ được áp dụng các tình tiết đã được quy định tại Điều
52 BLHS mà không được phép tự áp dụng các tình tiết khác không được quy
định trong BLHS là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người bị
kết án. Khi các tình tiết trong BLHS quy định là dấu hiệu định tội hoặc định
khung hình phạt thì Tòa án cũng không được phép áp dụng các tình tiết đó là
các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với người bị kết án.
Khi QĐHP, Tòa án phải xem xét, đánh giá toàn diện, đầy đủ trong một
chỉnh thể thống nhất và áp dụng đồng thời cả các tình tiết giảm nhẹ và các
tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nếu có. Tòa án không được phép xem
xét, đánh giá phiến diện, một chiều, coi trọng tình tiết giảm nhẹ, xem thường
tình tiết tăng nặng hoặc ngược lại; hoặc coi trọng tình tiết này mà xem nhẹ
hay bỏ qua tình tiết khác. Đối với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì
chỉ được xem xét áp dụng một lần khi QĐHP, nhưng tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự lại có thể được Tòa án xem xét nhiều lần như các tình tiết được
xem xét áp dụng để QĐHP dưới mức thấp nhất của khung hình phạt, đồng
thời các tình tiết đó vẫn có thể được Tòa án xem xét một lần nữa để cho bị cáo
được hưởng án treo... Khoản 2 Điều 50 BLHS còn quy định khi quyết định
85
ADHP tiền, ngoài các căn cứ đã nêu trên thì Tòa án phải căn cứ vào tình hình
tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội để quyết định mức tiền phạt
phù hợp, đúng quy định của pháp luật.
Ngoài bốn căn cứ được quy định tại Điều 50 BLHS thì yếu tố ý thức
pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm có ý nghĩa rất quan trọng. Để QĐHP
đúng, Thẩm phán, Hội thẩm phải dựa vào ý thức pháp luật của mình, ý thức
đó là sự kết tinh từ tư tưởng pháp luật, nền tảng ý thức được xây dựng từ kinh
nghiệm thực tiễn phong phú, đạo đức, bản lĩnh và trách nhiệm công dân đối
với xã hội. Có như vậy Tòa án mới có thể QĐHP đúng pháp luật, loại và mức
hình phạt áp dụng mới bảo đảm sự hợp lý và công bằng, bản án đã tuyên được
đông đảo dư luận quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ, đạt được hiệu quả
giáo dục, cải tạo người phạm tội. Các căn cứ QĐHP có ý nghĩa rất quan trọng
trong ADHP. Các căn cứ có trong vụ án là cơ sở quan trọng để Toà án quyết
định áp dụng biện pháp trách nhiệm hình sự, hình phạt một cách toàn diện
nhằm đạt được mục đích của hình phạt. Từ góc độ tố tụng hình sự, các căn cứ
luật định cũng là những vấn đề chứng minh trong vụ án hình sự; là đối tượng
chứng minh trong quá trình ADHP. Các căn cứ phải được chứng minh khẳng
định việc tồn tại khách quan trong vụ áncụ thể mới được Toà án cân nhắc để
QĐHP đối với người bị kết tội.
3.1.4. Quy định về quyết định hình phạt trong một số trường hợp đặc biệt
Ngoài hệ thống hình phạt, chế tài các tội phạm và các căn cứ quyết định
hình phạt, pháp luật hình sự cũng quy định về điều kiện và khả năng ADHP
trong những trường hợp đặc biệt như miễn trách nhiệm hình sự, miễn hình
phạt, QĐHP nhẹ hơn quy định của pháp luật, án treo...
ADHP trong những trường hợp đặc biệt là sự cụ thể hóa các căn cứ
ADHP trong những trường hợp cụ thể khác biệt. Trong phạm vi nghiên cứu
của luận án, tác giả đề cập đến ADHP trong một số trường hợp đặc biệt sau:
Thứ nhất: Miễn trách nhiệm hình sự. Miễn trách nhiệm hình sự được
hiểu là việc không buộc người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
phải chịu trách nhiệm hình sự mà BLHS quy định là tội phạm, do các cơ quan
86
tiến hành tố tụng có thẩm quyền áp dụng khi có đủ căn cứ pháp lý. Chế định
miễn trách nhiệm hình sự không phải là hình phạt, là quy định hết sức quan
trọng mang tính nhân đạo và là chính sách hình sự khoan hồng của Nhà nước
đối với người đã thực hiện hành vi gây nguy hiểm cho xã hội. Hiện nay theo
quy định của BLHS Việt Nam, có hai loại căn cứ miễn trách nhiệm hình sự, là
chế định mà các cơ quan tố tụng như cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án
đều có thể áp dụng. Khi có đủ căn cứ miễn trách nhiệm hình sự cho người
phạm tội theo quy định của BLHS ở tại giai đoạn tố tụng nào thì cơ quan tiến
hành tố tụng giai đoạn đó có thể xem xét và quyết định miễn trách nhiệm hình
sự. Căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 29 BLHS.
Đối với Tòa án, các căn cứ, các trường hợp mà Tòa án bắt buộc phải
miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội, cụ thể như sau: Miễn trách
nhiệm hình sự cho người phạm tội về tội định phạm trong trường hợp họ tự ý
nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, được quy định ở Điều 16 BLHS; miễn
trách nhiệm hình sự cho người phạm tội do có sự thay đổi chính sách, pháp
luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa và khi có
quyết định đại xá, được quy định ở khoản 1 Điều 29 BLHS; miễn trách nhiệm
hình sự cho người đã nhận làm gián điệp, nhưng không thực hiện nhiệm vụ
được giao và người đó tự thú, thành khẩn khai báo với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, được quy định ở khoản 4 Điều 110 BLHS.
BLHS quy định các căn cứ, các trường hợp mà Tòa án có thể miễn
trách nhiệm hình sự cho người phạm tội gồm: Có thể miễn trách nhiệm hình
sự cho người phạm tội khi có một trong các căn cứ được quy định ở khoản 2
và khoản 3 Điều 29 BLHS, như: Do chuyển biến của tình hình mà người
phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; người phạm tội mắc bệnh
hiểm nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;
trước khi bị phát giác, người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có
hiệu quả vào việc phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức
thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có công hiến đặc biệt,
được Nhà nước và xã hội thừa nhận; người thực hiện tội phạm nghiêm trọng
87
do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi
thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc đại diện
hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm
hình sự. Có thể miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội dưới 18 tuổi khi
thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 91 BLHS. Có thể
miễn trách nhiệm hình sự đối với người đưa hối lộ tuy không bị ép buộc
nhưng đã chủ động khai báo trước khi bị phát giác được quy định ở khoản 7
Điều 364 BLHS. Có thể miễn trách nhiệm hình sự đối với người không tố
giác tội phạm nếu đã có hành động can ngăn người phạm tội hoặc hạn chế tác
hại của tội phạm được quy định ở khoản 2 Điều 390 BLHS. Có thể miễn trách
nhiệm hình sự đối với người trồng cây thuốc phiện, cây cô ca, cây cần sa hoặc
các loại cây khác có chứa chất ma túy do Chính phủ quy định đã được giáo
dục 2 lần và đã tạo điều kiện ổn định cuộc sống, hoặc đã bị xử phạt vi phạm
hành chính về hành vi này, đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà
còn vi phạm, hoặc trồng với số lượng từ 500 cây đến dưới 3000 cây, nhưng đã
tự nguyện phá bỏ, giao nộp cho cơ quan chức năng có thẩm quyền trước khi
thu hoạch quy định tại khoản 4 Điều 247 BLHS. Các trường hợp này, Tòa án
có thể miễn hoàn toàn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội hoặc miễn và
áp dụng biện pháp xử lý chuyển hướng đối với người dưới 18 tuổi phạm tội.
Thứ hai: Miễn hình phạt. Miễn hình phạt đối với cá nhân phạm tội
được quy định tại Điều 59 BLHS, miễn hình phạt đối với pháp nhân thương
mại phạm tội được quy định tại Điều 88 BLHS. Theo khoa học luật hình sự
thì có thể hiểu miễn hình phạt là không buộc người thực hiện hành vi phạm
tội phải chịu hình phạt về tội mà người đó đã thực hiện. Theo quy định tại
khoản 1, khoản 2 Điều 54 và Điều 59 BLHS thì người phạm tội có thể được
miễn hình phạt nếu thuộc trường hợp có đủ 3 điều kiện sau đây: Một là, có ít
nhất 2 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51
BLHS. Hai là, phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm
nhưng có vai trò không đáng kể. Ba là, đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng
88
chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự. Theo quy định tại Điều 88
BLHS thì điều kiện để pháp nhân thương mại phạm tội có thể được miễn hình
phạt khi đã khắc phục toàn bộ hậu quả và đã bồi thường toàn bộ thiệt hại do
hành vi phạm tội của mình gây ra. Miễn hình phạt được quy định không nhiều
trong các điều luật cụ thể của BLHS. Ngoài việc quy định chung đối với các
tội phạm về các điều kiện để người phạm tội có thể được miễn hình phạt,
BLHS có quy định cụ thể trường hợp Tòa án có thể quyết định miễn hình phạt
đối với người không tố giác tội phạm nếu đã có hành động can ngăn người
phạm tội hoặc hạn chế tác hại của tội phạm đáng được khoan hồng đặc biệt
nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự thì có thể được miễn
hình phạt, quy định ở khoản 2 Điều 390 BLHS.
Thứ ba: QĐHP nhẹ hơn quy định của pháp luật. QĐHP nhẹ hơn quy
định của pháp luật nghĩa là Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, mức hình phạt đó thấp hơn mức
tối thiểu của khung hình phạt được áp dụng hoặc Tòa án chuyển sang áp dụng
một loại hình phạt khác nhẹ hơn loại hình phạt được quy định ở chế tài của
điều luật hoặc của khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật đối với tội đang xét
xử. Theo quy định tại khoản 1 Điều 54 BLHS thì Tòa án có thể quyết định
một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng
phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội
có ít nhất là hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định ở khoản
1 Điều 51 BLHS. Tại khoản 2 Điều 54 BLHS quy định Tòa án cũng có thể
quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp
dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của
điều luật đối với người phạm tội lần đầu và là người giúp sức trong vụ án
đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể mà cũng không quy định bắt buộc
phải có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như quy định ở khoản 1
Điều 54 BLHS. Tại khoản 3 Điều 54 BLHS quy định trường hợp khi có đủ
các điều kiện theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS nhưng điều
luật lại chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt về tội đang xét xử là
89
khung hình phạt nhẹ nhất của điều luật thì Tòa án có thể QĐHP dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt hoặc có thể chuyển sang một hình phạt thuộc
loại nhẹ hơn và lý do của việc giảm nhẹ Tòa án phải ghi rõ trong bản án.
BLHS không quy định việc đối trừ giữa các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
trách nhiệm hình sự. Trường hợp Tòa án cùng áp dụng nhiều tình tiết giảm
nhẹ và nhiều tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với một người phạm
tội, thì không phải là lấy số lượng tình tiết giảm nhẹ trừ đi số lượng tình tiết
tăng nặng nếu còn dư hai tình tiết giảm nhẹ trở lên thì mới QĐHP dưới mức
thấp nhất của khung hình phạt theo quy định ở khoản 1 Điều 54 BLHS; trong
trường hợp này, Tòa án phải xem xét, đánh giá một cách toàn diện có tính hệ
thống các yếu tố, các tình tiết của vụ án trong một chỉnh thể thống nhất để
quyết định có áp dụng hay không áp dụng quy định của BLHS để QĐHP dưới
mức thấp nhất của khung hình phạt đối với người bị kết án đó.
Thứ tư: Án treo. Án treo là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tù kèm
theo điều kiện thử thách được áp dụng đối với người bị xử phạt tù không quá
ba năm, có nhân thân tốt và nhiều tình tiết giảm nhẹ, nếu xét thấy không cần
bắt người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù thì Tòa án cho hưởng án treo
theo quy định tại Điều 64 BLHS. Điều kiện về thời gian thử thách được Tòa
án ấn định từ một năm đến năm năm và giao cho cơ quan, tổ chức nơi người
bị kết án làm việc hoặc chính quyền địa phương nơi người đó cư trú để giám
sát, giáo dục. Án treo là một chế định thể hiện chính sách hình sự kết hợp
giữa sự cưỡng chế của Nhà nước với sự tham gia của xã hội vào quá trình cải
tạo người p
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_ap_dung_hinh_phat_theo_phap_luat_hinh_su_viet_nam_tu.pdf