MỤC LỤC
MỞ ĐẦU . 1
CHưƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ
LUẬN VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU. 9
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu . 9
1.1.1. Các nghiên cứu về bản địa hóa các tôn giáo tại Việt Nam . 9
1.1.2. Nghiên cứu về bản địa hóa Công giáo. 14
1.1.3. Nghiên cứu về Đức Mẹ Maria và bản địa hóa Đức Mẹ Maria. 24
1.1.4. Nhận xét. 33
1.2. Cơ sở lý luận . 35
1.2.1. Một số khái niệm cơ bản . 35
1.2.2. Cơ sở lý luận về chủ trương hội nhập Công giáo và quan điểm về hội
nhập Công giáo ở Việt Nam của các nhà nghiên cứu . 39
1.3. Khái quát về địa bàn nghiên cứu. 45
1.3.1. Giáo xứ Quy Chính (xã Vân Diên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An) . 45
1.3.2. Giáo xứ Đức Mẹ Hằng cứu giúp (phường 9, quận 3 – Tp. Hồ Chí Minh)46
1.3.3. Giáo xứ Vỉ Nhuế (thôn Nấp, xã Yên Đồng, huyện Ý Yên, tỉnh Nam
Định). 47
1.3.4. Giáo xứ La Vang . 48
1.3.5. Giáo xứ Khmer Trung Bình – Sóc Trăng. 48
Tiểu kết chương 1. 49
CHưƠNG 2. ĐẠO CÔNG GIÁO, ĐỨC MẸ MARIA VÀ QUÁ TRÌNH
DU NHẬP VÀO VIỆT NAM . 50
2.1. Khái quát đạo Công giáo và sự du nhập vào Việt Nam . 50
2.1.1 Khái quát về đạo Công giáo . 50
2.1.2. Quá trình truyền nhập Công giáo tại Việt Nam. 522.1.3. Thuận lợi, khó khăn khi hội nhập đạo Công giáo vào Việt Nam. 57
2.2. Đức Maria trong đạo Công giáo và sự du nhập, thờ Kính Đức Maria
trong Hội thánh Việt Nam. 66
2.2.1. Đức Maria trong đạo Công giáo . 66
2.2.2. Sự du nhập và thờ kính Đức Maria trong Hội thánh Việt Nam. 70
Tiểu kết chương 2. 80
CHưƠNG 3. NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA SỰ BẢN ĐỊA HÓA ĐỨC MẸ
MARIA TRONG CỘNG ĐỒNG NGưỜI CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM. 81
3.1. Bản địa hóa hình tượng Đức Mẹ Maria qua tên gọi. 81
3.2. Bản Địa hóa hình tượng Đức Mẹ Maria trong văn học Công giáo Việt
Nam. 84
3.3. Bản địa hóa hình tượng Đức Mẹ Maria trong nghệ thuật tạo hình. 88
3.3.1. Bản địa hóa hình tượng hình tượng Đức Maria qua tranh, tượng. 88
3.3.2. Bản địa hóa Đức Mẹ Maria qua kiến trúc tượng đài, đền thờ . 94
3.4. Bản địa hóa quyền năng qua biểu tượng Đức Mẹ Maria. 103
3.4.1. Bản địa hóa biểu tượng Đức Mẹ Maria qua truyền tụng sự hiển linh . 103
3.4.2. Bản địa hóa biểu tượng Đức Mẹ Maria qua quyền năng của Đức Mẹ . 106
3.5. Bản địa hóa thực hành thờ kính Đức Mẹ Maria . 116
3.5.1. Bản địa hóa nghi thức dâng hoa, thắp hương . 116
3.5.2. Bản địa hóa nghệ thuật trình diễn nghi thức thờ kính Đức Mẹ. 119
Tiểu kết chương 3 . 127
229 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 509 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Bản địa hóa Đức mẹ Maria tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ôn hiện diện bên ông, gặp chuyện gì là ông lấy chuối hạt ra lần hạt và
cầu nguyện liền nhờ đó mà ông rất an tâm” (Pv ngày 21/8/2019). Không chỉ
những ngƣời lớn tuổi, tại Giáo xứ Quy Chính những em nhỏ thiếu nhi chỉ mới 2-3
tuổi đã bắt đầu đeo chuỗi hạt Đức Mẹ, lớn hơn vài tuổi thì đã thành thói quen, vì
vậy thay vì đeo các loại trang sức mà nhiều bạn lƣơng dân khác hay đeo thì các em
nhỏ nơi đây lại có thói quen và thích đeo chuỗi Mân Côi, thƣờng đƣợc làm bằng các
hạt nhựa nhiều màu sắc hoặc nhiều loại hạt gỗ, đá có in hình Đức Mẹ, hình Chúa và
trang trí hoa văn rất bắt mắt Em N.M.N 9 tuổi cho hay: “ Trong lần sinh nhật mới
đây của em, mẹ tặng em một chuỗi Mân Côi đeo tay bằng đá đẹp lắm, mẹ còn tặng
em một tấm hình Đức Mẹ mỗi lần đi học em đều bỏ vào cặp sách em thích chuỗi
hạt đeo tay này vì đi đâu cũng không sợ ma (ma ở đây có thể hiểu là ma quỷ, những
thần xấu và những điều xấu)Em thích đeo cái này có ích hơn mấy cái vòng chuỗi
mà các bạn lương dân trên lớp em hay đeo” (Pv ngày 22/8/2020).
Nhƣ vậy việc thờ kính Đức Mẹ không chỉ qua những nghi thức nghi lễ, lần
chuỗi Mân Côi hay xây dựng các khu điện thờ Đức Mẹ mà còn biểu hiện qua việc
mang theo các hình tƣợng hoặc các biểu tƣợng Đức Mẹ bên mình, các biểu tƣợng
này đƣợc Giáo dân tôn kính nhƣ những vật linh thiêng, xem nhƣ là sự hiện thân của
Đức Mẹ, vƣợt trên ý niệm về trang sức hay đồ trang trí mà là vật bảo trợ, vật hộ
mệnh Ở hầu hết các Giáo xứ Việt Nam đều có thói quen này, chúng ta dễ dàng
nhìn thấy trên tay trên cổ của Giáo dân đều đeo chuỗi nhƣ tại Giáo xứ Vỉ Nhuế -
Nam Định, Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp - TP. Hồ Chí Minh, Giáo xứ La Vang
- Quảng Trị
80
Tín đồ Công giáo tại một số nƣớc vẫn có thói quen đeo những vật thiêng này,
nhƣng ở Việt Nam thì phổ biến hơn nhiều tạo thành thói quen, phong trào đƣợc ủng
hộ rộng rãi.
Tiểu kết chƣơng 2
Đạo Công giáo đƣợc truyền vào Việt Nam từ năm 1553, trải qua một quá
trình truyền nhập, từ những buổi đầu với nhiều khó khăn thử thách cho đến ngày
nay, Công giáo Việt Nam đã phát triển và trở thành tôn giáo lớn. Quá trình truyền
đạo là cả một hành trình giao lƣu tiếp biến và hội nhập với văn hóa truyền thống
Việt Nam đầy thăng trầm, có những thuận lợi nhƣng cũng nhiều khó khăn và có cả
những xung đột văn hóa. Từ một tôn giáo với giáo lý giáo luật có phần khắt khe và
ít nhiều đối kháng với văn hóa Việt lúc đầu, Công giáo từng bƣớc hòa mình vào văn
hóa Việt cũng nhƣ sự tác động ngƣợc lại của văn hóa Việt, góp phần tạo nên một
diện mạo mới cho Công giáo Việt Nam. Sự truyền nhập của Công giáo vào văn hóa
Việt Nam tạo nên nhiều giá trị văn hóa độc đáo, một trong các giá trị tiêu biểu đó
chính là sự bản địa hóa Đức Mẹ Maria.
Cùng với quá trình truyền nhập của đạo Công giáo vào Việt Nam thì Đức
Maria một nhân vật có vai trò quan trọng trong đạo Công giáo cũng đƣợc truyền
nhập sâu rộng trong văn hóa Việt, từ sự phổ biến về mức độ thờ kính của các tín đồ
Việt Nam dành cho Mẹ, sự bùng nổ của các cơ sở thờ tự, sự xuất hiện dày đặc của
các nhà thờ mang tƣớc hiệu Đức Mẹ, các trung tâm hành hƣơng, linh địa Đức Mẹ
trải dài từ Bắc vào Nam, trở thành những trung tâm hành hƣơng Đức Mẹ, thu hút
hang triệu tín đồ đổ về hang năm, sự thờ kính Đức Mẹ của tín đồ Việt Nam không
chỉ thực hành dựa trên nền tảng giáo lý giáo luật Công giáo và còn mang các yếu tố
văn hóa truyền thống độc đáo của dân tộc Việt Nam đan xen trong đó, tạo nên
những nét riêng trong các thực hành nghi thức, nghi lễ thừ kính Đức Mẹ tại Việt
Nam và trên hết là vai trò của Đức Mẹ Maria trong niềm tin của tín đồ Việt Nam
rất vững chắc, trở thành một phần quan trọng trong cuộc đời của tín đồ Việt Nam.
81
CHƢƠNG 3
NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA SỰ BẢN ĐỊA HÓA ĐỨC MẸ MARIA TRONG
CỘNG ĐỒNG NGƢỜI CÔNG GIÁO Ở VIỆT NAM
Từ quan điểm của các nhà nghiên cứu về sự hội nhập phi quan phƣơng của
đạo Công giáo ở Việt Nam, trong chƣơng này trên cơ sở kết quả khảo sát tại các
điểm nghiên cứu, luận án sẽ tiến hành xem xét những biểu hiện đa dạng của sự bản
địa hóa hình tƣợng Đức Mẹ Maria trong cộng đồng ngƣời Công giáo ở Việt Nam sự
đối chiếu, so sánh với các yếu tố văn hóa địa phƣơng và tộc ngƣời.
3.1. Bản địa hóa hình tƣợng Đức Mẹ Maria qua tên gọi
Trong đạo Công giáo Đức Mẹ Maria đƣợc biết đến bởi nhiều tên gọi (Đức Bà,
Đức Mẹ, Trinh Nữ Rất Thánh), các thuật ngữ (Sao Biển, Nữ Vƣơng Thiên Đàng),
cầu khẩn (Theotokos, Panagia) và các tên khác (Đức Mẹ Guadalupe, Đức Mẹ Lộ
Đức) Tất cả những tƣớc hiệu này cùng chỉ một cá nhân là Maria, mẹ của Chúa
Giêsu Kitô (trong Tân Ƣớc), và đƣợc sử dụng một cách đa dạng bởi ngƣời Công
giáo Rôma, Chính Thống giáo Đông phƣơng, Chính Thống giáo Cổ Đông phƣơng
và một số tín đồ Anh giáo. Nhiều danh hiệu dành cho Đức Maria mang tính tín lý
hoặc giáo lý, một số danh hiệu khác chỉ mang tính thơ ca hoặc ngụ ngôn, nhƣng tất
cả tạo thành một phần của lòng sùng kính bình dân, đƣợc các giáo sĩ chấp nhận ở
các mức độ khác nhau, thêm vào đó là các danh hiệu để thể hiện Maria theo dòng
lịch sử nghệ thuật nhƣ mẹ Nhân Ái, mẹ Triều Thiên, mẹ Tình Yêu [12, tr 525]
Khi Đức Maria vào Việt Nam, do là ngƣời sinh ra Chúa Giêsu nên Bà đƣợc
tôn xƣng là Đức Mẹ (ngƣời Việt kiêng gọi tên tục), đồng thời còn tôn xƣng với các
tên gọi khác nhƣ Đức Bà và đặc biệt cũng đƣợc gọi là Thánh Mẫu. Ở một số nhà
thờ xứ họ đạo Công giáo vùng đồng bằng Bắc bộ nhƣ Đồng Trì (Hà Nội), Kẻ Sở
(Hà Nam) có khắc biển “phƣơng danh Thánh Mẫu” (Danh thơm Thánh Mẫu)
bằng chữ Hán, mỗi chữ một biển. Biển đƣợc sơn son thiếp vàng, vào ngày xứ, họ
đạo đi kiệu, biển đƣợc cầm đi trƣớc [24, tr.16-18].
Tại Giáo xứ Khmer Trung Bình ở mỗi khu vực điện thờ tƣơng ứng với mỗi
bức tƣợng Đức Mẹ là kèm theo những tên gọi rất giản dị. Theo linh mục H.V.N 69
tuổi, Linh mục quản xứ Khmer Trung Bình thì Giáo dân Khmer tại đây vẫn gọi tên
82
Đức Mẹ bằng tiếng Khmer phiên âm theo tiếng Việt là Pre Mia Đa (nghĩa là Đức
Bà). Ngoài ra, Giáo dân tại đây còn gọi tên Đức Mẹ Maria theo từng bức tƣợng thờ
kính ở bên trong và bên ngoài nhà thờ tƣơng ứng với tích truyện của mỗi bức tƣợng.
Cụ thể: Bức tƣợng ở phía trƣớc cổng chính nhà thờ, sát con đƣờng chính vào Ấp
Chợ mọi ngƣời vẫn gọi vui là “Mẹ đứng đƣờng”, hiểu theo nghĩa tích cực là mẹ chở
che và ban ơn cho mọi ngƣời đi đƣờng đƣợc thƣợng lộ bình an. Bên phía tay trái
nhà thờ có một bức tƣợng do một bệnh nhân tâm thần xây đắp và mọi ngƣời gọi là
“Mẹ tâm thần”. Ngoài nguồn gốc đặc biệt của bức tƣợng thì theo nhiều Giáo dân tại
đây cho biết, rất nhiều bệnh nhân có các bệnh về thần kinh khi đến đây cầu nguyện
đã đƣợc ơn chữa lành. Bên tay phải nhà thờ là đền thờ chính Đức Mẹ với tƣợng Đức
Mẹ và Chúa Giê Su trong trang phục ngƣời Khmer, vì vậy Giáo dân vẫn hay gọi là
Đức Mẹ Khmer. 4 Cách gọi tên Đức Mẹ theo tộc ngƣời tại Việt Nam cũng thể hiện
tại nhiều nơi khác nhƣ đồng bào dân tộc Jarai ở Buôn B2 - thị trấn Ea súp - huyện
Ea Súp - Tỉnh Đăk lăk ngƣời ta gọi Đức Mẹ là A Mĩ (nghĩa là Đức Mẹ).
Tại Giáo xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp - Thành phố Hồ Chí Minh Giáo dân vẫn
gọi Đức Mẹ Maria là “Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp” theo niềm tin của Giáo dân vào
quyền năng Đức Mẹ Maria. Theo Linh Mục N.M.H 56 tuổi hiện đang phụ giúp tại
Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp cho biết: “Cha thấy Giáo dân ở đây gọi Đức Mẹ
bằng nhiều tên gọi khác nhau như: Mẹ, Đức Mẹ, Đức Bà nhưng gọi nhiều nhất
vẫn là Đức Mẹ Cứu Giúp đặc biệt lúc Giáo dân cầu nguyện họ hay gọi tước hiệu
này, chắc do Giáo xứ và đền Đức Mẹ lấy tước hiệu này nên quen thuộc hàng ngày
và dần trở thành thói quen.” (Pv ngày 19/7/2020)
Tại Giáo xứ Vỉ Nhuế - Nam Định, Giáo dân gọi tên Đức Mẹ Maria là: Nữ
Vƣơng, Thánh Mẫu, Mẹ ChúaCách gọi này có nhiều điểm tƣơng đồng mà tín đồ
gọi Mẫu Liễu Hạnh tại đây.
Đặc biệt, Giáo dân Quy Chính (Nghệ An) lại gọi Đức Mẹ là Mẹ Việt
Nam/Đức Mẹ Việt Nam, Đức Bà, Sở dĩ ngƣời ta gọi là “Đức Mẹ Việt Nam” vì
tƣợng Đức Mẹ Maria tại đây đƣợc tạc theo mẫu tƣợng lấy cảm hứng từ hình tƣợng
4
Điền dã ngày 19/7/2020.
83
Đức Mẹ La Vang, Mẹ đƣợc khoác lên trang phục áo dài khăn đóng truyền thống của
ngƣời phụ nữ Việt Nam, sau khi đền thờ Đức Mẹ đƣợc khánh thành và trở thành
một điểm cầu nguyện Đức mẹ quan trọng của Giáo dân, với hình tƣợng trong trang
phục áo dài khăn đóng, từ đó Giáo dân gọi thêm một tƣớc hiệu mới là: Mẹ Việt
Nam, dần dần thành thói quen và trở thành một danh xƣng trong đời sống tín
ngƣỡng của Giáo dân tại đây. Đặc biệt, Giáo dân tại làng đạo Quy Chính thƣờng gọi
Bà là Mẹ, một danh xƣng phổ biến nhất nhƣng cũng rất gần gũi và thân thƣơng.
Tín đồ Việt Nam còn gọi tên Đức Mẹ theo địa danh ví dụ nhƣ: Đức Mẹ La
Vang - Quảng Trị, Đức Mẹ Tà Pao - Bình Thuận, Đức Mẹ Fattima Bình Triệu - Sài
Gòn, Đức Mẹ Măng Đen - Kontum, Đức Mẹ Thái Hà - Hà Nội Cách đặt tên gắn
với các địa dạnh tại Việt Nam càng làm cho Đức Mẹ trở nên gần gũi với văn hóa
của mỗi địa phƣơng, gần gũi với quê hƣơng của các tín đồ. Điều này có ý nghĩa rất
lớn đối với tín đồ Việt Nam vì với ngƣời Việt quê hƣơng là một điều thiêng liêng
gắn liền với những gì thân thƣơng, gần gũi nhất.
Trong các lời kinh nguyện và các bài thánh ca danh xƣng Mẹ hoặc Đức Bà cũng
đƣợc sử dụng phổ biến. Chẳng hạn, trong bản kinh cầu Đức Bà của sách Kinh địa
phận Vinh (2005) danh hiệu đƣợc xƣng tụng là: Đức Mẹ, Đức Bà, Đức Nữ, Nữ
Vƣơng. Ví dụ:
Ðức Mẹ thông ơn Thiên Chúa.
Ðức Mẹ cực thanh cực tịnh
Ðức Nữ có tài có phép.
Ðức Nữ có lòng khoan nhân
Nữ Vương các thánh Nam cùng các thánh nữ.
Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông.
Nữ Vương linh hồn và xác lên trờivv
Ngoài ra Giáo dân còn xem Bà là Mẹ các Giáo phận và gắn tên Mẹ theo Giáo
phận, ví dụ nhƣ: Mẹ Giáo phận Vinh, Mẹ Giáo phận Huế, vv Đặc biệt tên gọi Nữ
Vƣơng xuất hiện rất nhiều trong các lời kinh, bài hát thánh ca và trong đời sống Giáo
dân. Tuy nhiên, một trong những tên gọi gần gũi nhất mà Giáo dân hay gọi là Mẹ.
84
Giáo dân nhiều nơi cũng kiêng gọi tên Đức Maria bằng “tên húy” nhƣ cách gọi
tên thần thánh trong dân gian. Với việc Việt hóa tên gọi đã khiến Bà trở nên gần
gũi, thân thƣơng và dù gọi bằng danh xƣng nào thì mọi ngƣời đều hiểu là đang gọi
Đức Maria.
Cách gọi tên, danh xƣng nhƣ vậy có sự tƣơng đồng với cách gọi các bậc thánh
mẫu trong dân gian của ngƣời Việt nhƣ: Mẫu, Thánh Mẫu, Vƣơng Mẫu, Quốc Mẫu,
Nữ Vƣơng, Bà Chúa vv
Nhƣ vậy, sau khi vào Việt Nam, ngoài tên gọi tôn xƣng phổ biến trên thế giới
thì Đức Maria cũng đƣợc tôn vinh với các tên gọi giống nhƣ cách ngƣời dân tôn
vinh các vị Thánh trong văn hóa dân gian Việt Nam. Tín đồ gọi tên Đức Mẹ gắn với
địa danh, địa phƣơng, gắn với tộc ngƣời, gắn với những hình ảnh Đức Mẹ phù hợp
với từng không gian sống tại từng địa phƣơng Việt Nam, làm cho Đức Mẹ trở thành
một phần trong cuộc sống của tín đồ. Bên cạnh đó, tùy vào đặc trƣng văn hóa vùng
miền và tộc ngƣời mà tín đồ Công giáo lại gọi Bà theo những tên gọi rất dung dị,
gần gũi với bối cảnh, không gian sống của họ.
3.2. Bản Địa hóa hình tƣợng Đức Mẹ Maria trong văn học Công giáo Việt Nam
Kinh Thánh đƣợc xem là cuốn sách cơ sở để Giáo hội Công giáo ban hành
các tín điều, giáo lý, giáo luật về Đức Mẹ, tín đồ phƣơng Tây cũng xem đây là kim
chỉ nam để tìm hiểu về Đức Mẹ. Có thể coi Kinh Thánh là cuốn sách tiêu biểu phác
họa đầy đủ nhất hình tƣợng Đức Mẹ Maria, qua những câu chuyện, những huyền
thoại về Đức Mẹ Maria. Tại Việt Nam, ngoài Kinh Thánh và những cuốn sách về
giáo lý giáo luật, tín đồ Việt hòa chung với dòng chảy của nền văn học Việt Nam,
đặc biệt là văn học dân gian Việt Nam đã sáng tạo và thể hiện hình tƣợng Đức Mẹ
Maria qua những loại hình văn học mang đặc điểm văn hóa Việt.
Trong bài Viết “Có một nền văn học Công giáo ở Việt Nam” khi nhận định
về dòng văn học Công giáo ở Việt Nam, tác giả Đỗ Quang Hƣng cho rằng: “ Khi
tạo dựng một nền văn học mới, ngƣời Công giáo Việt Nam không thể không coi
việc trình bày lời Chúa với những phạm trù thần học phổ biến trong thân phận con
ngƣời nhƣ tội lỗi, ân sủng, nhập thểNhƣng đồng thời họ phải giữ lại tính tự tôn
dân tộc, dung hợp đƣợc với tính dân tộc và tính Công giáo trong trang viết, dòng
85
nhạc, bức họa, kiến trúc” [38, tr 11]. Điều này có nghĩa, văn học Công giáo Việt
Nam không nằm ngoài dòng chảy phát triển của văn học dân tộc, văn học Công giáo
Việt Nam có tính dân tộc và mang nhiều giá trị văn hóa dân tộc, góp phần vào sự
phát triển chung của nền văn học Việt Nam.
Trƣớc hết, hình tƣợng Đức Mẹ Mariađƣợc thể hiện qua nhiều thể loại văn học
dân gian của ngƣời Việt ở các địa phƣơng khác nhau. Chẳng hạn, Giáo xứ Quy
Chính nằm trong không gian văn hóa xứ Nghệ nên có khá nhiều bài ca, hò vè về
Đức Mẹ Maria mang âm hƣởng văn hóa dân gian xứ Nghệ, ví dụ nhƣ: “Hò ơi hò
ơiHoa nào đẹp hoa nào xinh/Đi mô ta hái về dâng Mẹ Lành” (Hò vè dân ca xứ
nghệ - sƣu tầm tại Giáo xứ Quy Chính- Nghệ An). Hoặc các câu thơ dƣới dạng câu
đối vẫn đƣợc Giáo dân nơi đây đọc trong một số dịp lễ Đức Mẹ nhƣ: “Mẹ đến
thƣơng ban ngàn ơn phúc/Con về no thỏa vạn niềm vui” (Sƣu tầm ngày 3/5/2021)
Một số đoạn ca, vè, vãn khác nói về Đức Mẹ nhƣ:
“Đội ơn Chúa rất khoan nhân
Đã cho con mọn kính dâng hoa này
Đội ơn Đức Mẹ nhân từ
Đã cho con mọn ngây thơ ngợi mừng”. [22, tr 614 - 615].
Hình tƣợng Đức Mẹ qua những câu vè vãn trên cho thấy sự yêu kính của tín
đồ dành cho ngài, qua cách gọi tên nhƣ: Đức Mẹ, Đức Bà, Thánh Mẫu thể hiện
quyền năng của Đức Mẹ và vị trí quan trọng của Đức Mẹ trong niềm tin của tín đồ.
Đặc biệt, những câu vè vãn này lƣu giữ rất nhiều ngôn ngữ cổ của ngƣời Việt, đồng
thời cho thấy sự phong phú, đa dạng trong việc diễn đạt hình tƣợng Đức Mẹ Maria
qua những thể loại văn học dân gian truyền thống của ngƣời Việt.
Đại tự, câu đối là một trong những thể loại văn học Hán nôm đƣợc sử dụng
khá nhiều trong các cơ sở thờ tự nhƣ đền, đình, chùa, miếu cũng trở thành một phần
của văn hóa Công giáo Trong bài viết “Hình tƣợng Thiên Chúa và Thánh Nữ
Maria (Qua đại tự, câu đối Hán nôm nhà thờ Công giáo Việt Nam”, tác giả Nguyễn
Hồng Dƣơng cho rằng: “Hán nôm Công giáo nói chung, trong đó có đại tự, câu đối
về Thiên Chúa và Thánh nữ Maria nói riêng là di sản văn hóa không chỉ của Công
giáo mà còn là di sản văn hóa của dân tộc Việt Nam...” [25, tr 14-15], tác giả dẫn
86
một số đại tự tiêu biểu (phiên âm) về Thánh nữ Maria xung quanh tƣờng bên ngoài nhà
thờ Phú Nhai (Xuân Phƣơng, Xuân Thủy, Nam Định) nhƣ: “Nữ vƣơng Vô nhiễm
nguyên tội”; “Mẫu chí khiết “; “Nữ Vƣơng chí khiết Mân Côi”; “Huyền nghĩa Mân
Côi”; “Giảng hòa bình”; “Mẫu sƣu cứu thế na viết”; “Nữ vƣơng phổ giáng hòa bình”;
“Duyên thần lạc”; “Chƣơng trinh chí nữ”; “Mẫu vô triêm”. [25, tr 19]
Mỗi đại tự đều có hàm ý thần học sâu xa nhƣng ngƣời đọc vẫn có thể hiểu về
đại thể là ca ngợi nhân đức, quyền năng của Thánh nữ Maria
Hoặc nhƣ các câu đối ở nhà thờ Giáo xứ Hà Hồi – Hà Nội nhƣ: “Nhƣ bang
thanh, nhƣ ngọc thiết, nguyên nhiễm bất ô, tự sinh dân dĩ lai, vị chi hữu dã/ Kỳ đạo
tôn, kỳ đức thịnh, phƣơng danh viễn bá, tập quần thánh chi đại, miệt dĩ gia yên”.
(Dịch nghĩa: Nhƣ bang thánh, nhƣ ngọc khiết, vô nhiễm nguyên tội, từ khi có loài
ngƣời đến nay chƣa từng có nhƣ vậy/ Đạo của Ngƣời cao, đức của Ngƣời thịnh,
danh thơm vang xa, hội tụ cái lớn lao của các thánh, không có gì hơn thế) [25, tr
19]. Hoặc câu đối tại nhà thờ Giáo xứ An Vân – Thừa Thiên Huế: “Thế gian vô nhị
nữ/ Cức lý hữu đơn hoa” (Dịch nghĩa: Thế gian không có ngƣời phụ nữ thứ 2/Trong
bụi gai chỉ có một bông hoa) [25, tr 20].
Theo tác giả Nguyễn Hồng Dƣơng thì đại tự, câu đối quanh nhà thờ Công
giáo thƣờng có hai nội dung là thần học và ngợi ca nhân đức, quyền uy của Thiên
Chúa và Thánh nữ Maria. Qua đó gần nhƣ lột tả hết tƣ tƣởng thần học cũng nhƣ
quan niệm dân gian về Thiên Chúa và Thánh nữ Maria. [25, tr 19 -20- 21].
Bên cạnh đó còn phải kể đến mảng văn học sáng tác ca ngợi Đức Maria. Một
trong những nhà thơ tiêu biểu viết về Đức Mẹ Maria là Hàn Mạc Tử, trong đó tác
phẩm tạo tiếng vang lớn trong cộng đồng những ngƣời yêu thơ tại Việt Nam là bài
thơ “Ave Maria”. Trong bài thơ có đoạn:
“Maria! linh hồn tôi ớn lạnh
Run nhƣ run thần tử thấy long nhan
Run nhƣ run hơi thở chạm tơ vàng
Nhƣng lòng vẫn thắm nhuần ơn trìu mến
Lạy bà là đấng tinh tuyền thánh vẹn
Giàu nhân đức, giàu muôn hộc từ bi
87
Cho tôi dâng lời cảm tạ từ bi
Cơn lâm lụy vừa trải qua dƣới thế
Tôi no rồi ơn hóa lộ hòa chan
Tâu lạy Bà, Bà rất nhiều phép lạ” (Hàn Mặc Tử)
Bài thơ là lời tự sự cũng là lời nguyện cầu của tác giả với Đức Mẹ trong tình
trạng bệnh tật hiểm nghèo. Điều này cũng cho thấy niềm tin của vào quyền năng
của Đức Mẹ, cụ thể ở đây là niềm tin của tác giả vào quyền năng “rất nhiều phép lạ”
chữa bệnh của Đức Mẹ Maria.
Ngoài ra, tác giả Lê quý Long lại có bài thơ “Mẹ La Vang” ca ngợi Đức Mẹ
Maria đã hiện lên cứu giúp dân lành với những câu thơ mộc mạc, xúc động nhƣ:
“Gió đƣa xào xạc lá vằng
Nghe trong thoảng thoảng vết hằn đau thƣơng
Niềm tin từ buổi mở đƣờng
Phải cơn bách hại, tìm phƣơng ẩn mình
Trời cao, xúc động trời cao
Một vị trinh nữ vẫy chào cứu con
Cậy trông, có chỗ cậy trông
Thuốc thang cậy Mẹ, áo cơm trông ngƣời [52, tr 9]
Hay nhƣ Linh mục Tạ Huy Hoàng có bài thơ “Cùng với Mẹ Maria” đã thể
hiện đức tin trọn vẹn vào Đức Mẹ:
“Cùng với Mẹ Maria
Tin vào Thiên Chúa là Cha nhân lành
Vội vàng ra đi thật nhanh
Tiến lên miền núi thực hành đức tin
Mƣời phân vẹn mƣời trọn tấm lòng ngƣời mẹ
Thƣa vâng mau lẹ cả lúc tử lúc sanh
Trọn vẹn gọn nhanh sự vâng lời tất cả
Này là con Bà, và này là Mẹ con” [35, tr 502]
Sơ lƣợc cho thấy, văn học Công giáo Việt Nam cũng là một biểu hiện của sự hội
nhập phi quan phƣơng của Công giáo trong văn hóa Việt Nam. Qua đây cho thấy đó
88
cùng là một phƣơng diện đáng chú ý của bản địa hóa văn học Công giáo nói chung
cũng nhƣ bản địa hóa văn học Công giáo về Đức Mẹ Maria nói riêng tại Việt Nam.
3.3. Bản địa hóa hình tƣợng Đức Mẹ Maria trong nghệ thuật tạo hình
3.3.1. Bản địa hóa hình tượng hình tượng Đức Maria qua tranh, tượng
Ảnh và tƣợng về Đức Maria trong các nhà thờ Công giáo trên thế giới thƣờng
có một khuôn mẫu chung đó là hình tƣợng của ngƣời phụ nữ phƣơng Tây từ trang
phục, thần thái, điệu bộ cử chỉ Trang phục phổ biến nhất là của phụ nữ phƣơng
Tây thƣờng mặc vào thế kỷ 19. Có nhiều ý kiến trong Giáo hội Công giáo đồng
thuận cho rằng hình tƣợng và phục trang của Đức Mẹ tại phƣơng Tây ảnh hƣởng
lớn từ bức tranh “Innocence” vẽ năm 1893 của tác giả ngƣời ngƣời Pháp William
Bouguereau. Đây là một bức tranh rất nổi tiếng, tác giả vẽ Đức Mẹ trong trang phục
màu trắng, bên trong mặc chiếc váy suông màu trắng để hở cổ, trên đầu quàng một
chiếc khăn mỏng màu xanh dƣơng với khuôn mặt to tròn, mũi cao, với làn da trắng,
tay phải bế Chúa hài đồng đang ngủ, tay trái bế con cừu nonNhìn chung phổ biến
về trang phục là các loại váy của phụ nữ phƣơng Tây thế kỷ 19 trong đó phổ biến là
màu trắng và màu xanh với trang phục hở cổ khá phóng khoáng.
Nhìn chung các hình tƣợng Đức Mẹ trên thế giới không có hình mẫu nào cả,
những hình tƣợng đƣợc thờ kính sớm nhất, lâu đời nhất và phổ biến nhất hiện nay
thƣờng do các họa sĩ nổi tiếng vẽ và những hình tƣợng này thƣờng đƣợc vẽ lại theo
mô tả của các thánh đƣợc nhìn thấy Đức Mẹ trong các lần hiển linh hoặc các tín đồ
mô tả lại sau khi nhìn thấy Đức Mẹ cũng trong các lần hiển linh.
Theo Linh mục T.M.L 57 tuổi một giảng viên thần học tại học viện Đa Minh
- TP. Hồ Chí Minh: “Theo cha quan điểm về hình tƣợng Đức Mẹ đƣợc vẽ hoặc tạc
ra theo mô tả của các vị thánh sau mỗi lần Đức Mẹ hiện ra là quan điểm đƣợc nhiều
ngƣời ủng hộ, cha cũng ủng hộ quan điểm này hoặc một số hình tƣợng nổi tiếng
trên thế giới cũng do các họa sĩ tƣởng tƣợng và nghe ngƣời ta mô tả và vẽ lên Có
thể thấy hình tƣợng Đức Mẹ tại La Vang - Quảng Trị cũng đƣợc vẽ, tạc ra sau biến
cố Đức Mẹ hiện ra tại đây theo lời kể của một số Giáo dân ” (Pv ngày
25/9/2020). Ngoài ra hình tƣợng Đức Mẹ còn biểu hiện văn hóa đặc trƣng tại những
quốc gia và tộc ngƣời khác nhau trên thế giới, ví dụ nhƣ Đức Mẹ trong hình tƣợng
89
và trang phục truyền thống Hàn Quốc, Philipin, Mông Cổ, Trung Quốc, Mêxicô,
Sudan, Nga, Anh
Riêng tại Việt Nam hình tƣợng Đức Maria đƣợc biểu hiện dƣới nhiều dáng vẻ
khác nhau có phần tƣơi vui cùng với trang phục nhiều màu sắc, đặc biệt là trang
phục thƣờng kín đáo từ đầu đến chân, nổi bật nhất là hình tƣợng Đức Mẹ trong các
tà áo dài truyền thống với vẻ đẹp thắt đáy lƣng ong kiểu Á Đông
Về khuôn mẫu: Hình tƣợng Đức Mẹ Maria phổ biến với các hình tƣợng giống
với hình tƣợng của ngƣời phụ nữ Việt, dù trong trang phục vùng miền hay tộc
ngƣời nào tại Việt Nam đặc biệt là trong trang phục áo dài, thì hình ảnh thần thái
của ngƣời phụ nữ Việt vẫn toát lên nổi bật.
Trong hội họa, hình tƣợng Mẹ Maria đƣợc thể hiện gần gũi với hình dáng bà
mẹ Việt Nam qua các tác phẩm của các họa sĩ Lê Phổ với bức tranh “Bƣớc theo
Mẹ”, họa sĩ Nam Phong với bức tranh “Đức Mẹ Việt Nam”, là bức họa nổi tiếng
với hình tƣợng Đức Mẹ mặc áo gấm thêu rồng, chân đeo hài mũ phƣợng. Hầu hết
các bức tranh này đều thể hiện hình tƣợng mẹ bồng con, đây là hình tƣợng rất phổ
biến và quen thuộc trong văn hóa Việt. Đức Mẹ Maria trong trang phục truyền
thống của phụ nữ Việt Nam, có khi là hình tƣợng nữ vƣơng đầu đội vƣơng miện,
chân đi hài, mặc áo dài thêu gấm hoa với họa tiết rồng phƣợng, hay hình tƣợng một
bà mẹ quê nhƣ trong bức tranh của họa sĩ Lê Phổ với áo tứ thân, khăn mỏ quạ, cùng
với mái tóc đen dài và điệu bộ khiêm nhu hiền hậu làm chúng ta dễ dàng liên tƣởng
đến các bà mẹ quê Việt Nam
Tại Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Tp. Hồ Chí Minh hình tƣợng đƣợc thờ
kính nhiều nhất là Đức Mẹ Maria trong trang phục và hình ảnh ngƣời phụ nữ
phƣơng Tây khoảng thế kỷ 15 đang bồng bế Chúa Giê Su hài đồng bên trên có hai
thiên thần chầu ngự. Hình tƣợng này có nguồn gốc từ bức ảnh Đức Mẹ đƣợc tìm
thấy tại Roma – Ý năm 1499. Bức hình này rất nổi tiếng với nhiều huyền thoại về
quyền năng của Đức Mẹ ban cho tín đồ khi tôn thờ. Hiện nay các bức ảnh và hình
tƣợng đƣợc thờ kính tại nhà Giáo Xứ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp Tp. Hồ Chí Minh về
cơ bản vẫn giống hình tƣợng gốc của bức ảnh trên. Tuy nhiên, điểm nhìn thấy rõ là
hình tƣợng Đức Mẹ Maria đƣợc phác họa để thờ kính tại đây có phần gần với ngƣời
90
phụ nữ Việt Nam bởi thần thái và đƣờng nét nhƣ: ánh mắt to tròn và hiền dịu hơn,
khuôn mặt khá tròn đầy phúc hậu, màu sắc đƣợc tô điểm đậm đà hơn
Giáo dân Giáo xứ Vỉ Nhuế - Nam Định tôn thờ hình tƣợng Đức Mẹ Maria phổ
biến với tên gọi Đức Mẹ Mân Côi (một tƣớc hiệu của Đức Mẹ Maria). Nhà thờ
Giáo xứ Vỉ Nhuế vốn mang tƣớc hiệu này nên hình tƣợng Đức Mẹ Mân Côi đƣợc
kính thờ tại nhiều vị trí trong khuôn viên nhà thờ và trong nhà Giáo dân. Mặc dù
hình tƣợng Đức Mẹ Mân Côi là hình tƣợng từ Phƣơng Tây, trong trang phục của
ngƣời phƣơng Tây, nhƣng khi nhìn hình ảnh này sẽ thấy rõ những đƣờng nét gần
gũi của ngƣời phụ nữ Việt Nam, đặc biệt rõ ở khuôn mặt. Trong khi phiên bản Đức
Mẹ Mân Côi phổ biến tại các nƣớc phƣơng Tây với khuôn mặt to, góc cạnh cùng
với ánh nhìn sắc sảo, thì khuôn mặt Đức Mẹ tại Vỉ Nhuế đƣợc tạo hình trái xoan,
khuôn miệng nhỏ, thần thái toát lên sự dung dị của phụ nữ Việt Nam
Giáo dân Giáo xứ La Vang - Quảng Trị thờ kính Đức Mẹ với hình tƣợng Đức
Mẹ trong trang phục áo dài khăn đóng, đặc biệt là trang phục áo dài cách điệu kiểu
cung đình Huế, đầu đội vƣơng miện (biến thể từ chiếc mấn đội đầu truyền thống),
chân đi hài mũi cong. Điều đặc biệt là màu sắc trang phục, Đức Mẹ Maria trong
chiếc áo dài màu tím Huế, thể hiện đặc trƣng văn hóa vùng miền nơi đây, trên áo có
thêu nhiều hoa văn lấp lánh, tay bế chúa hài đồng. Đức Mẹ với khuôn mặt tròn đầy
hiền từ và ánh mắt dịu dàng đang nhìn về phía trƣớc, điều này khác hẳn với gƣơng
mặt góc cạnh trong các hình tƣợng Đức Mẹ tại nhiều nƣớc phƣơng Tây. Nhƣ vậy rõ
ràng hình tƣợng Đức Mẹ tại La Vang - Quảng Trị là hình tƣợng của ngƣời phụ nữ
Việt Nam, từ phục trang, điệu bộ thần thái toát lên hình ảnh của ngƣời phụ nữ Việt.
Tại Giáo xứ Khmer Trung Bình - Sóc Trăng hình tƣợng Đức Mẹ nổi bật nhất là
hình tƣợng của ngƣời phụ nữ Khmer, Đức Mẹ trong trang phục truyền thống của
ngƣời phụ nữ Khmer còn gọi là Săm pết chorphun, Đức Mẹ với khuôn mặt và thần
thái quen thuộc của phụ nữ Khmer, với khuôn mặt thon dài, trang điểm đậm, phục
trang lấp lánh, đi chân đất.
91
Hình tượng Đức Mẹ Maria trong trang phục truyền thống của người phụ nữ Khmer
– tại Giáo xứ Khmer Trung Bình – Sóc Trăng.
Nhƣ vậy hình tƣợng Đức Mẹ rất phong phú và đa dạng, tùy mỗi địa phƣơng hay
tộc ngƣời, tùy không gian văn hóa để có sự hòa nhập phù hợp với văn hóa bản địa.
Về trang phục: Trang phục của Đức Mẹ là một vấn đề phức tạp, bởi không
có tƣ liệu hay hình ảnh nào mang tính chính thống về kiểu trang phục, màu sắc
mà Đức Mẹ đã từng mặc. Ngƣời ta chỉ truyền nhau trong những lầ