MỞ ĐẦU . 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU . 7
1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 7
1.2. Nhận xét về tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài. 20
1.3. Những vấn đề đặt ra liên quan đến chủ đề luận án . 23
Chương 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO ĐẢM PHÁP LÝ VỀ
QUYỀN CON NGƯỜI. 27
2.1. Khái niệm, nội dung và các thuộc tính của bảo đảm pháp lý về quyền con người 27
2.2. Đặc điểm bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam. 37
2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong
kiến Việt Nam . 56
Chương 3. THỰC TRẠNG BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG PHÁP
LUẬT PHONG KIẾN VIỆT NAM . 70
3.1. Thực trạng quy định về quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam . 70
3.2. Thực trạng các quy định bảo vệ quyền con người trong pháp luật phong kiến
Việt Nam . 97
3.3. Thực trạng các quy định nhằm hỗ trợ thực hiện quyền con người trong pháp
luật phong kiến Việt Nam . 102
Chương 4. GIÁ TRỊ ĐƯƠNG ĐẠI, BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ PHƯƠNG
HƯỚNG KẾ THỪA, KHẮC PHỤC VẤN ĐỀ BẢO ĐẢM QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG PHÁP LUẬT PHONG KIẾN VIỆT NAM. 122
4.1. Giá trị đương đại và phương hướng kế thừa những ưu điểm của pháp luật bảo
đảm quyền con người trong thời kỳ phong kiến Việt Nam . 122
4.2. Những hạn chế của pháp luật phong kiến Việt Nam trong việc bảo đảm quyền
con người và bài học rút ra với việc hoàn thiện pháp luật bảo đảm quyền con người
ở Việt Nam hiện nay . 134
KẾT LUẬN . 149
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO. 151
165 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 356 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Bảo đảm quyền con người trong pháp luật phong kiến Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đặc điểm sinh học khác với nam giới rất nhiều, nhà lập
pháp triều Lê đã nhận thấy cần phải ưu ái hơn khi áp dụng hình phạt tử đối với
phạm nhân nữ: “Đàn bà phải tội tử hình trở xuống nếu đang có thai, thì phải để
sinh đẻ sau 100 ngày mới đem hành hình. Nếu chưa sinh mà đem hành hình thì
ngục quan bị xử biếm hai tư; ngục quan bị đồ làm bản cục đinh. Dù đã sinh rồi,
nhưng chưa đủ hạn một trăm ngày mà đem hành hình thì ngục quan và ngục lại bị
tội nhẹ hơn tội trên hai bậc" (Điều 680 Quốc triều hình luật).
75
Như vậy, pháp luật phong kiến Việt Nam đã đặt ra một số trường hợp nhằm
hạn chế áp dụng hình phạt tử. Điều này thể hiện tư tưởng truyền thống coi trọng con
người của dân tộc. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng, pháp luật phong kiến Việt
Nam quy định rất nhiều hình phạt mang tính tàn bạo, dã man kể cả các hình thức thi
hành án tử hình. Trong các án phải xử “trảm quyết và “giảo quyết”, người phạm tội
có khi phải phơi thây một cách thê thảm. Chẳng hạn, vào năm Kỷ Sửu (1829) ở
Nam Định có một số kẻ tung tin thất thiệt gây lo sợ trong dân, lợi dụng tình thế,
Trần Văn Vũ giả danh là quan triều đình đi phao tin đồn nhảm để lừa đảo. Trần Văn
Vũ sau đó bị bắt và bị chém, đầu bị cắm lên cây sào cao, đem đi bêu khắp các chợ
lớn trong vùng, mỗi chợ ba ngày “để cho những kẻ phao tin đồn nhảm trông thấy
mà sợ, còn dân ngu không biết cũng bỏ được mê hoặc” [24, tr.168 – 169]. Một ví dụ
điển hình khác ở thời kỳ triều Nguyễn: Hoàng Hữu Nhẫn là Khố lại (nhân viên coi
kho) ở Kinh đô khai báo gian lận mỗi khi xuất nhập các son bạc, bị phát giác vào
năm Tân Mão (1831). Vua Minh Mạng bắt giải đến cửa Ty Vũ khố thắt cổ cho chết,
lại chặt một bàn tay treo ở cửa để “răn những kẻ miệt pháp và khi quân”, lại bắt
quan lại và thi binh lính ở Ty Vũ khố hàng ngày phải đến cửa kho nhìn lên bàn tay
đó “cho khiếp sợ để khỏi phạm pháp nữa” [24, tr.61]. Những ví dụ nêu trên cho
thấy chủ trương dùng hình phạt nặng để “trị tội răn người” khá phổ biến thời kỳ
này, trong đó cũng không loại trừ hình phạt tử với những cách thức thi hành ghê
rợn. Điều này phản ánh đặc trưng pháp luật phong kiến Việt Nam còn mang đậm
tính hà khắc, dã man của nghệ thuật “dĩ hình khử hình” và đây cũng là điểm làm
hạn chế rất nhiều việc bảo đảm quyền sống của con người trong xã hội lúc này.
3.1.2. Quyền tự do và an ninh cá nhân trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Quyền tự do và an ninh cá nhân là một trong những quyền cơ bản của con
người mà pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng phải tôn trọng, bảo vệ.
- Pháp luật phong kiến Việt Nam với việc bảo đảm quyền tự do thân thể của
con người
Mỗi người sinh ra là một cá thể riêng biệt và họ có quyền được tự do về mặt
thân thể. Xã hội càng phát triển, tiến bộ thì quyền cơ bản đó của con người càng
được đề cao, tôn trọng. Mọi hành vi xâm phạm một cách tùy tiện đến thân thể của
người khác đều bị pháp luật nghiêm trị. Đối với nhóm tội về đánh người, pháp luật
thời Lý – Trần quy định tại Chiếu 1142, 1129. Luật nhà Trần quy định “đồng loại
76
đánh nhau bị thương thì bắt tội người đánh trước”[16, tr.122]. Pháp luật thời Lê sơ
thể hiện sự nghiêm khắc đối với mọi hành vi đánh giết người vô cớ, bất kỳ người đó
là ai: đánh người bằng chân tay bị phạt 60 trượng, dùng vật gì đó để đánh bị phạt 80
trượng, nặng hơn có thể bị giáng chức và bồi thường thương tật; người xúi giục
cũng chịu hình phạt như người trực tiếp đánh người (Điều 465 Quốc triều hình
luật). Luật quy định cụ thể các hình phạt do đánh người gây thương tích cho nạn
nhân; đặc biệt xử phạt nặng đối với những hành động nguy hiểm đến tính mạng con
người, như dùng gươm giáo đâm chém người, dù không trúng người cũng phải tội
lưu đầy; đánh đứt lưỡi, hủy hoại âm dương vật đều xử tội thắt cổ; đánh nhau mà làm
chết người thì phải tội thắt cổ, lấy gươm giáo cố ý giết người thì phải tội chém
(Điều 466 và Điều 467 Quốc triều hình luật). Bên cạnh những quy định nhằm bảo
vệ tính mạng sức khỏe của con người, Quốc triều hình luật cũng bảo vệ danh dự
nhân phẩm của con người trong xã hội: Tất cả những hành động xâm phạm đến
nhân phẩm con người, như con cháu chửi mắng, đánh đập ông bà cha mẹ; anh em,
vợ chồng đánh đập, chửi mắng, lăng mạ, làm nhục nhau (các điều từ 473 đến 476
Quốc triều hình luật); các hành vi tố cáo, vu khống không đúng sự thật và trái quy
định (từ điều 501 đến điều 505 Quốc triều hình luật)đều bị pháp luật nghiêm trị.
Đáng lưu ý là, các điều 401, 403, 404, 406 Quốc triều hình luật quy định, những
hành động vi phạm nghiêm trọng nhân phẩm con người, như hiếp dâm, loạn luân
đều bị trừng trị với hình phạt rất nặng: lưu, chém.
Tính bảo hộ đó của pháp luật phong kiến Việt Nam, tiếp tục được khẳng định
trong các quy định về nhóm tội đấu ẩu (đánh nhau) trong Hoàng Việt luật lệ thời kỳ
triều Nguyễn. Nhóm tội được quy định trong quyển 15 gồm 22 điều (từ Điều 271
đến Điều 292). Theo điều 271, đánh nhau với người bằng tay chân, không gây
thương tích xử 20 roi. Nếu gây thương tích thì tùy hậu quả mà hình phạt được quy
định chi tiết trong điều luật này. Nhóm tội đấu ẩu chủ yếu căn cứ vào hành vi và
hậu quả để lượng hình. Tuy nhiên bộ luật cũng căn cứ vào thứ bậc, địa vị trong gia
đình và xã hội để tăng hoặc giảm hình phạt. Ví dụ: dân đánh tri phủ, tri huyện; nô tỳ
đánh chủ bị chém (Điều 283); vợ đánh chồng bị phạt 100 trượng (Điều 284); con
cháu đánh ông bà cha mẹ bị xử chém (Điều 288).
Tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm luôn là điều quan trọng và ý nghĩa
của một con người và ở thời kỳ nào cũng phải được tôn trọng và đề cao. Tuy còn
77
những hạn chế của một nền pháp luật với những hình phạt nghiêm khắc mang tính
trừng trị nhưng pháp luật phong kiến Việt Nam đã có nhiều điểm sáng đáng ghi
nhận qua sự bảo hộ cho tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người.
Dù vẫn còn một xã hội phân tầng đẳng cấp với một bộ phận những người bị lệ
thuộc vào những người quyền thế và chưa hoàn toàn được tự do về mọi mặt nhưng
pháp luật vẫn dành những sự quan tâm ở một mức độ nhất định đối với cả những
người nô tỳ - những người thấp kém nhất trong xã hội. Bởi vậy, là một nhà nước
phong kiến chuyên chế nhưng không quá tàn khốc và khắc nghiệt trong bối cảnh xã
hội đương thời. Ở khía cạnh quyền tự do thân thể, chế độ chiếm hữu nô lệ đã không
tồn tại sâu đậm trong lịch sử dân tộc. Những gia nô, nô tỳ tuy tồn tại đến thời Lý –
Trần nhưng họ vẫn có thân phận con người và có cơ hội để thành đạt (như Dã
Tượng, Yết Kiêu từng là gia nô, trở thành danh tướng và Trần Hưng Đạo đã đề cao
những con người đại diện cho tầng lớp này) [86, tr.108 – 109]. Qua Bộ luật Hồng
Đức chúng ta biết rằng, sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân Minh, tuy
số lượng nô tỳ thời Lê Sơ không nhiều như thời Trần nhưng nhà nước phong kiến
vẫn cho thi hành nhiều biện pháp nhằm làm cho số lượng nô tỳ ngày càng ít đi hơn
nữa. Điều 291 Bộ luật Hồng Đức quy định: “Những nô tỳ được thả về làm lương
dân, đã có giấy cấp cho rồi mà vẫn bắt ở lại làm tôi tớ thì xử phạt 50 roi, biếm một
tư. Người nô tỳ vẫn được trở về theo giấy cấp”. Nhiều quy định của Quốc triều hình
luật quy định các hình phạt cụ thể nhằm chống lại sự nô tỳ hóa đối với dân đinh và
những thường dân nói chung: những quan cai quản nô tự tiện thích chữ vào dân
đinh để vào hạng nô ấy thì xử phạt biếm ba tư (Điều 165); những kẻ bắt người đem
bán làm nô tỳ thì xử lưu châu xa (Điều 453)Như vậy có thể khẳng định rằng ở
Việt Nam, ngay từ thế kỷ XV đã có những quy định bảo vệ quyền lợi của nô tỳ.
Những điều này không dễ tìm thấy ở pháp luật các nước Tây Âu thời kỳ Trung đại.
Sau này, ở Hoa Kỳ, mãi tận ngày 6/12/1865, chế độ nô lệ mới được bãi bỏ bằng Tu
chính 13. Tu chính thứ 13 Khoản 1 Hiến pháp Hoa Kỳ quy định: “Không một chế
độ nô lệ hay tôi tớ ép buộc nào sẽ được tồn tại ở Hoa Kỳ hay bất cứ nơi nào thuộc
thẩm quyền của Hoa Kỳ, ngoại trừ sự trừng phạt một tội phạm mà tội nhân bị buộc
tội thích đáng”. Tiếp đó, Điều 4 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm 1948
cũng khẳng định: “Không ai bị bắt làm nô lệ hoặc bị cưỡng bức làm việc như nô lệ;
mọi hình thức nô lệ và buôn bán nô lệ đều bị cấm” [103, tr.210].
78
- Bảo vệ quyền tự do thân thể của người dân vô tội không bị bắt bớ một cách
tùy tiện
Trong nền quân chủ chuyên chế của nhà nước phong kiến phương Đông nói
chung và nhà nước phong kiến Việt Nam nói riêng có thể thấy một thực tế là với
quyền hành trong tay, người thi hành công vụ rất dễ ỷ thế làm càn. Do đó có thể bắt
bớ người dân một cách vô cớ làm xâm hại đến quyền tự do và an ninh của cá nhân.
Và một thực tế cũng không thể phủ nhận là pháp luật có nhiều quy định để bảo vệ
chế độ đẳng cấp trong xã hội. Tuy nhiên, với chức năng là đại lượng cân bằng điều
phối các quan hệ xã hội trong đời sống cộng thêm sự hình thành trên nền tảng của
một nhà nước “thân dân” nên pháp luật phong kiến Việt Nam cũng có những quy
định để có thể hạn chế đến mức thấp nhất sự lạm dụng quyền lực của những người
có chức quyền trong xã hội và ngăn ngừa hiện tượng bắt người oan sai. Ở góc độ cụ
thể, quyền tự do và an ninh cá nhân được thể hiện trong một số quyền tố tụng:
+ Quyền không bị áp dụng hồi tố:
Một trong những cách thức để bảo đảm quyền tự do và an ninh cá nhân là sự
ghi nhận quyền không bị áp dụng hồi tố. Theo nguyên tắc này đạo luật chỉ có hiệu
lực thi hành đối với tội phạm xảy ra khi đạo luật đó có hiệu lực và trước khi đạo luật
đó mất hiệu lực. Nếu hành vi đã được thực hiện trước khi có luật thì không thể áp
dụng điều luật đó để buộc họ chịu trách nhiệm hình sự. Người áp dụng pháp luật chỉ
có thể dựa vào căn cứ duy nhất, đó là quy định của luật hình để xét xử đúng người,
đúng tội. Điều này sẽ hạn chế được việc bắt bớ người vô tội một cách phi lí và tùy
tiện. Ngay cả chế sắc của nhà vua luận tội cụ thể cũng không được lạm dụng, lấy
làm cơ sở pháp lý để xử tội khác: “Những chế sắc của vua luận tội gì, chỉ là xét xử
nhất thời, chứ không phải là sắc lệnh vĩnh viễn thì không được viện dẫn sắc lệnh ấy
mà xét xử việc sau. Nếu ai viện dẫn ra xét xử, không đúng thì khép vào tội cố ý làm
sai luật” (Điểu 685 Quốc triều hình luật). Điều 42 Hoàng Việt luật lệ cũng khẳng
định: “phàm luật bắt đầu áp dụng là từ ngày ban xuống.”
Tuy nhiên, cũng giống như luật hình sự hiện đại, pháp luật phong kiến Việt
Nam cũng thể hiện ý tưởng cho phép áp dụng hồi tố trong trường hợp việc đó có lợi
cho người phạm tội. Cụ thể, Điều 17 Quốc triều hình luật quy định: “Khi phạm
tội chưa già cả tàn tật, đến khi già cả tàn tật việc mới phát giác thì xử tội theo luật
già cả tàn tật”; Điều 42 Hoàng Việt luật lệ “như việc phạm lúc chưa định lệ thì
79
vẫn y luật và các lệ đã thi hành mà xử”. Điều này cho thấy pháp luật vừa chặt chẽ,
có tính thống nhất cao nhưng cũng thể hiện tính khoan hồng, nhân đạo.
- Bảo đảm quyền được xét xử công bằng và công khai bởi một cơ quan có
thẩm quyền, độc lập và không thiên vị, được lập ra theo pháp luật
Các triều đại trước đây, quyền tư pháp tuyệt đối thuộc về nhà vua tuy nhiên
“việc kiện tụng trong nước phiền nhiễu, quan lại giữ pháp luật câu nệ luật văn, cốt
làm cho khắc nghiệt, thậm chí có người bị oan uổng quá đáng”[17, tr.263]. Từ thời
Lý (1010 – 1225), nhà vua tuy vẫn còn giữ lấy quyền xét xử các vụ kiện tụng trong
nước như các vị vua đời trước, nhưng đã san sẻ bớt quyền này cho các quan địa
phương. Thời kỳ này, nhiều đời vua đã cho người dân được quyền khởi kiện tới
triều đình và nhà vua trực tiếp là người xét xử (Chiếu về việc vua đích thân giải
quyết khiếu kiện của dân năm 1010). Vua Lý Công Uẩn đã từng dụ “ban chiếu rằng
từ nay ai có việc tranh kiện nhau, cho đến triều tâu bày, vua thân giải quyết”[17,
tr.239]. Đến thời nhà Trần sau này đã lập ra những cơ quan tư pháp chuyên trách:
Thẩm hình viện là cơ quan xét xử cùng với tam ty viện trong đó thẩm hình viện có
trách nhiệm xem xét các vụ kiện tụng thành án rồi cùng với tam ty viện định tội [54,
tr.214]. Như vậy, trong các triều đại phong kiến thời kỳ đầu thì nhà vua trực tiếp xét
xử nhưng các triều đại về sau thì tính chất phân cấp thẩm quyền xét xử càng chặt
chẽ và rõ ràng hơn. Cụ thể:
Thời kỳ Lê sơ, theo Điều 672 Quốc triều hình luật, thẩm quyền tố tụng đã
được định ra hệ thống gồm 3 cấp xét xử là huyện, lộ, triều đình và nguyên tắc trong
một vụ kiện có thể được kháng cáo 2 lần (quan huyện xử không hợp lí thì kêu quan
lộ, quan lộ xử không hợp lẽ thì tâu bày lên triều đình).
Đến thế kỷ XVIII, một bộ luật tố tụng riêng biệt đã được ban hành – bộ Quốc
triều khám tụng điều lệ đã tạo ra cơ sở pháp lý thuận tiện cho công việc xét xử,
ngăn chặn việc áp dụng pháp luật một cách tùy tiện, thiếu công bằng “khiến dân có
chỗ nương nhờ”. Bộ luật cũng là sự thể hiện sự phát triển thêm một bước so với bộ
Quốc triều hình luật trong các quy định về tố tụng: Nếu như bộ luật Hồng Đức chỉ
quy định một cách chung chung rằng tri huyện, tri phủ xử những vụ việc nhỏ hoặc
vừa, thì Quốc triều khám tụng điều lệ liệt kê cụ thể, tỉ mỉ các vụ việc; nếu như trong
Bộ luật Hồng Đức chưa nói rõ ở cấp kinh đô cơ quan nào có thẩm quyền tố tụng, thì
bộ Quốc triều khám tụng điều lệ đã quy định rõ ràng, cụ thể tại thông lệ về khám
80
tụng. Tại Điều 1, Thông lệ về khám tụng của Bộ Quốc triều khám tụng điều lệ,
thẩm quyền tố tụng của các cấp cho thấy mỗi vụ án có thể được xét xử trong 5 lần:
huyện – phủ - Thừa ty – Ngự sử đài – Chính đường. Người dân nếu không đồng ý
(chưa phục) có quyền làm đơn lên cấp có thẩm quyền để xét xử lại (phúc thẩm).
Nguyên tắc chung là gửi đơn kiện và xét xử theo đúng việc, đúng thẩm quyền,
không được kiện, nhận khiếu kiện, xét xử vượt cấp, nhằm đảm bảo trật tự tố tụng,
hạn chế sự lạm quyền: “Tất cả các việc kiện tụng tranh chấp của dân đều chiếu lệ
khiếu nại ở quan huyện sở tại, quan phủ, quan ngự sử tam ty, các nha môn chịu
trách nhiệm khám tụng rồi đến quan chánh đường. Các việc kiện tụng chưa kinh
qua lần khám nào mà khiếu nại vượt cấp, khiếu nại lần cuối thì các nha môn đều
không được nhận khám”(lệ khám tụng, Quốc triều khám tụng điều lệ). Quy định
này ngày nay cũng được kế thừa trong pháp luật tố tụng hiện đại. Bởi, nếu cho phép
kiện vượt cấp thì không chỉ làm ảnh hưởng đến sự độc lập của cơ quan làm nhiệm
vụ phân xử, làm đảo lộn rối loạn cả trình tự tố tụng vốn có đã được phân định rõ
ràng mà còn tăng nguy cơ lạm quyền.
Đến thời kỳ quân chủ triều Nguyễn (1802 – 1884), một bộ luật thống nhất từ
Đàng Trong đến Đàng Ngoài được ban hành: Bộ Hoàng Việt luật lệ. Về thẩm quyền
xét xử, Điều 376 luật Gia Long quy định 3 cấp xét xử dựa trên cơ cấu hành chính,
phạm vi thẩm quyền theo vụ việc cũng như mức độ nặng nhẹ của hình phạt. Cụ thể:
Cấp Huyện (Phủ, Châu) xử các tội quân, lưu, đồ; Cấp Tỉnh (Doanh, Trấn) tra xét,
ghi chép tội tử; Kinh Thành (Kinh Đô) có quyền xét lại các án đồ, lưu, tử, đình nghị
và tâu lên vua phê chuẩn. Tại Kinh Thành quan pháp ty có quyền xét án tội tử.
Đó là những quy định chi tiết và cụ thể để hướng dẫn dân chúng trong việc
khởi kiện đến cơ quan nào, cũng như quy định cấp xét xử nào có quyền nhận khám
tụng. Các quy định về thẩm quyền xét xử trên đã giúp cho việc khiếu kiện và xét
kiện vào nề nếp không để kiện cáo tràn lan và ngăn chặn những người xấu lợi dụng
xúi bẩy kiện cáo, gây khó khăn cho hoạt động xét xử của các cơ quan pháp luật và
làm ảnh hưởng đến quyền tự do, an ninh cá nhân của những người vô tội.
- Pháp luật ghi nhận, bảo vệ quyền kháng cáo cho các chủ thể có quyền
kháng cáo
Dưới góc độ quyền con người, quyền kháng cáo thể hiện khả năng của
những nguời tham gia tố tụng được bày tỏ trong đơn kháng cáo sự không đồng ý
81
của mình đối với phán quyết của cơ quan đã xét xử sơ thẩm và đề nghị cấp trên trực
tiếp của cơ quan đã ra phán quyết đó xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. Quy định và
đảm bảo thực hiện có hiệu quả quyền của những người tham gia tố tụng được kháng
cáo yêu cầu xét xử phúc thẩm tại cấp cao hơn là hình thức, phương thức tối ưu để
phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý nghiêm minh, kịp thời mọi hành vi phạm
tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Điều này có ý nghĩa chính
trị, pháp lý và xã hội hết sức to lớn. Chính vì thế mà tất cả các Nhà nước văn minh
đều thừa nhận chế độ hai cấp xét xử: Xét xử sơ thẩm và xét xử phúc thẩm đối với
vụ án mà chưa có bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật.
Tuy vẫn còn ở hình thức sơ khai nhưng vấn đề về kháng cáo đã được đề cập
trong pháp luật phong kiến Việt Nam và đã thể hiện được một số nội dung cơ bản
so với các quy định về kháng cáo trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện
nay. Theo Điều 672 Quốc triều hình luật, trong một vụ kiện có thể được kháng cáo
2 lần (quan huyện xử không hợp lẽ thì kêu lên quan lộ, quan lộ xử không hợp lẽ thì
tâu bày lên triều đình). Theo quy định tại Thông lệ về khám tụng trong Quốc triều
khám tụng điều lệ, các chủ thể có quyền kháng cáo thực hiện quyền kháng cáo của
mình tương ứng với hệ thống các cơ quan tài phán được tổ chức ở ba cấp: cơ quan
tài phán ở các phủ, huyện; các Thừa ty và Hiến ty; các cơ quan tài phán ở kinh đô.
Ví dụ: Các việc về ruộng đất công tư, hôn nhân, tài sản, đánh nhau, chửi nhau, tiền
nợ, tiền tôtất cả những việc không phải là tạp tụng đều phải cáo trình ở quan
huyện, phúc thẩm tại quan phủ, không giải quyết được thì phúc thẩm tại Thừa ty.
Nếu còn chưa phục tình mới phúc thẩm ở Ngự sử đài. Nếu tình lý có điều gì bức
bách, chưa được làm sáng tỏ, mới cho khải trình, kêu trình ở Chính đường.
Đến thời kỳ quân chủ triều Nguyễn, xét xử phúc thẩm được quy định cụ thể:
các án nặng như quân lưu, thập ác đều phải phúc tấu lên vua. Đối với án xử giam
chờ: là bản án đã tuyên giảo hoặc trảm giam chờ đến phiên tòa “thu thẩm”. Bên
cạnh đó chế độ “thu thẩm” còn phúc duyệt lại các án đồ lưu do các địa phương gửi
về. Thời hạn “thu thẩm” từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm. Đến tháng 5 các án chờ
thu thẩm đều được các Nha môn lập tờ trình ghi đầy đủ sự vụ và các đề nghị kèm
theo gửi lên Bộ. Tháng 8, bộ Hình gồm các Doanh, Trấn (Tỉnh) các Bộ tập hợp án
gửi quan văn võ cùng xem xét. Sau phiên phiên tòa mùa thu này, nếu có kết luận
mới về vụ trọng án thì gom lại để chờ phiên tòa mùa thu năm sau xét lại (Điều 376
82
Hoàng Việt luật lệ).
Như vậy, pháp luật phong kiến Việt Nam đã quy định một cách có hệ thống
quyền kháng cáo cho các chủ thể có quyền kháng cáo từ cấp dưới lên cấp trên tương
ứng với hệ thống cơ quan tài phán trong tổ chức bộ máy nhà nước, đặc biệt trong vụ
kiện nói chung có thể được thực hiện trên nguyên tắc kháng cáo hai lần. Đây là một
điểm tiến bộ của quy định kháng cáo trong hệ thống pháp luật phong kiến Việt Nam
thể hiện sự quan tâm đến đời sống của người dân nói chung, cũng như người khởi
kiện, người kháng cáo nói riêng, đảm bảo cho họ có quyền kháng cáo, quyền phúc
cáo để có thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Tuy nhiên, việc thực hiện quyền năng này trong thực tế còn nhiều hạn chế. Là
một nhà nước được xác lập với mô hình quân chủ chuyên chế, vốn dĩ với quan niệm
vua là “thiên tử” thế thiên hành đạo nên mọi lời nói, mệnh lệnh của Vua là ý trời và
tất cả mọi thần dân phải phục tùng một cách vô điều kiện. Điều này tạo nên quyền
lực rất lớn của người đứng đầu và quyền dân chủ của nhân dân bị hạn chế một cách
tối đa. Cùng với đó, khi đã có phán quyết của những người xét xử - những bề tôi tôi
tớ của vua – thì bị cáo cũng như người bị hại phải chấp thuận và không dám tỏ bày
sự phản đối. Nhiều khi sự luận đoán rất mơ hồ đã dẫn đến những vụ oan khiên trong
lịch sử. Điển hình như vụ án của Lê Văn Thịnh. Với sự đa nghi, tin vào những sự
thêu dệt hoang đường, vua Lý Nhân Tông đã khép tội cho Lê Văn Thịnh “hóa hổ”
ám sát vua để cướp ngôi, mưu phản. Nhà vua cả giận, sai lấy dây sắt xích lại, bỏ vào
cũi, rồi đày lên miền Thao Giang (nay thuộc huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ) mặc
dù Lê Văn Thịnh từng là thầy dạy học của vua Lý Nhân Tông, có nhiều công huân
lớn với triều đình, đặc biệt trong vấn đề hoạch định biên cương của Tổ quốc [100].
3.1.3. Quyền sở hữu tài sản trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Khi xem xét, nghiên cứu các luật lệ của thời kỳ phong kiến Việt Nam, điều dễ
nhận thấy là pháp luật thời kỳ này rất chú trọng đến quyền sở hữu, nhất là quyền sở
hữu về ruộng đất và có những cơ chế để đảm bảo cho quyền sở hữu này.
Trong chế độ phong kiến nói đến vấn đề sở hữu thì trước tiên và chủ yếu là
sở hữu về ruộng đất vì đó là tư liệu sản xuất cơ bản. Như chúng ta đã biết, Nhà
nước phong kiến (đại diện là nhà vua), trên danh nghĩa, là chủ sở hữu tối cao ruộng
đất công, có quyền ban cấp một phần ruộng đất công cho quý tộc quan lại để họ
hưởng thuế. Còn tập thể làng xã, là sở hữu chủ thực tế của ruộng công ở làng xã, có
83
quyền phân phối ruộng công cho các gia đình cày cấy và phải nộp thuế cho nhà
nước. Đó là một tập quán chính trị pháp lý cơ bản và bền vững trong chế độ phong
kiến nhưng điểm tạo nên nét đặc sắc, tiến bộ của pháp luật thời kỳ này lại chính là ở
các quy định thừa nhận hình thức sở hữu tư.
Quyền có tài sản riêng là quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm
của mỗi con người. Đây là hình thức sở hữu bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ thời
Lý – Trần. Cụ thể, sở hữu tư nhân về đất đai chính thức được nhà nước thừa nhận
bằng các đạo chiếu năm 1135, 1142, 1145, 1237, 1254, 1292, 1320. Nhà nước Lý –
Trần đã bảo vệ quyền sở hữu tư nhân, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các sở hữu
chủ. Một điểm khá lý thú là từ thời Lý nội dung quyền sở hữu với các quyền năng
chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đã được đề cập tời mặc dù còn chưa đầy đủ và trực
tiếp (Đạo chiếu năm 1142 và đạo chiếu tháng 10/1320) [16, tr.123].
Đến thời Lê, với những chính sách ban cấp ruộng đất cho công thần, quan lại,
quý tộc có quy mô lớn, số lượng ban cấp nhiều, Nhà nước lại cho phép họ có quyền
mua bán, chuyển nhượng, dùng làm tài sản thừa kế trừ khi phạm tội, nên sở hữu tư
nhân trở thành một hình thức sở hữu phổ biến. Sở hữu tư nhân bao gồm sở hữu lớn
của những quan lại, quý tộc được Nhà nước ban cấp ruộng đất, sở hữu nhỏ của
những người nông dân do có sức lao động, có quyền mua ruộng đất và tích tụ đất
đai. Do sự phát triển của sở hữu tư nhân ngày càng mạnh, Nhà nước không chỉ thừa
nhận mà còn có chính sách bảo vệ hình thức sở hữu này. Mọi hành vi xâm chiếm
ruộng tư, vay nợ không chịu trả, trộm cắp tài sản đều bị pháp luật xử phạt nặng.
Chương Điền sản Quốc triều hình luật có đến 39/59 điều (chiếm tỷ lệ 66,1%) quy
định về bảo vệ quyền tư hữu về ruộng đất (các Điều 344, 354 – 362, 370 – 400).
Đặc biệt, các quy định ít thấy trong thời kỳ phong kiến được thể hiện trong Quốc
triều hình luật là những quy định việc xử phạt các nhà quyền thế, quan lại chiếm
đoạt ruộng đất của lương dân (Điều 355, Điều 370; Điều 372). Ở chương Vi chế
còn có điều hạn chế mức sở hữu đất vườn của quan lại (Điều 226). Theo Điều luật
này, viên quan nào lạm chiếm quá phần đất đã định thì bị tội xuy, đánh 50 roi, biếm
một tư; người có vườn ao rồi mà lại chiếm đất nơi khác, thì tội thêm một bậc. Trước
đây, chính sách điền trang của triều Trần là chính sách tước đoạt ruộng đất của nông
dân và đó là nguyên nhân cội rễ dấn đến sự suy vong của một triều đại có nhiều
chiến công hiển hách trong chống giặc cứu nước. Việc quan chức lợi dụng chức
84
quyền để chiếm dụng công điền, công thổ, tư điền, tư thổ là một trong những
nguyên nhân làm cho lòng dân không yên. Từ kinh nghiệm của quá khứ lịch sử,
Quốc triều hình luật đã chú trọng việc bảo vệ tư điển, tư thổ và trừng trị nghiêm các
quan lại mượn thế chiếm đoạt tư điền, tư thổ. Với những người không có ruộng đất
tư, họ vẫn được cấp ruộng đất công ở làng xã theo phép quân điền. Với Quốc triều
hình luật, người nông dân không còn là người nông nô, càng không phải là nô lệ.
Họ là những chủ sở hữu hoặc ít hơn là chủ sử dụng luân phiên theo thời hạn ba năm
hoặc sáu năm những mảnh đất công để canh tác thu hoa lợi. Đó là nguồn nuôi sống
cơ bản của các gia đình nông dân, là lương ăn hàng ngày, để làm nhà, cưới hỏi, nuôi
con ăn học, giỗ tết, ma chay cùng mọi chi phí khác [37, tr.29].
Tới đầu thế kỷ XIX sở hữu tư nhân đối với ruộng đất đã rất phát triển trở
thành loại hình có tính bao trùm và về đại thể thì ruộng đất tư nói chung được nhà
nước phong kiến Việt Nam tôn trọng và bảo vệ. Nhà nước bảo hộ sở hữu tư nhân,
mọi hành vi xâm hại đều bị trừng phạt nghiêm (Điều 237 – 240 Hoàng Việt luật lệ).
Khi xây dựng các công trình thủy lợi, đường sá, thành lũymở vào ruộng đất tư
đều được Nhà nước đền bù bằng tiền với mức nhìn chung cao hơn ruộng đất công.
Ngoài ra việc mua bán ruộng đất tư được tiến hành một cách tự do và được nhà
nước phong kiến bảo hộ về mặt pháp lý. Tuy nhiên, ở một khía cạnh khác cũng phải
thừa nhận một điều là: sự tồn tại của quyền sở hữu tối cao của nhà nước đối với
ruộng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_bao_dam_quyen_con_nguoi_trong_phap_luat_phong_kien_v.pdf