Luận án Biến đổi của ca trù trong đời sống đương đại tại Hà Nội

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN.i

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT.iv

MỞ ĐẦU.1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ

KHÁI QUÁT VỀ CA TRÙ .8

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu.8

1.1.1. Nhóm các công trình nghiên cứu về ca trù.8

1.1.2. Nhóm các công trình nghiên cứu về sự biến đổi ca trù .12

1.1.3. Kết luận về tổng quan tình hình nghiên cứu.13

1.2. Cơ sở lý luận.15

1.2.1. Thuật ngữ và khái niệm.15

1.2.2. Lý thuyết áp dụng trong luận án.24

1.3. Khái quát về nguồn gốc và quá trình phát triển của ca trù.26

1.3.1 Giai đoạn ra đời ( thế kỷ X ) và định hình nghệ thuật ca trù (từ thế kỷ XV đến

thế kỷ XVII thời Hậu Lê) .26

1.3.2. Giai đoạn phát triển ( thế kỷ XVII đến thế kỷ XIX thời Lê - Nguyễn).29

1.3.3. Giai đoạn suy thoái và phục hồi ( thế kỷ XX) . 29

Tiểu kết.33

Chương 2: NGHỆ THUẬT CA TRÙ TRUYỀN THỐNG HÀ NỘI.35

2.1. Nhận diện ca trù truyền thống tại Hà Nội .35

2.1.1. Nghệ thuật diễn xướng truyền thống.35

2.1.2. Môi trường diễn xướng truyền thống.46

2.2. Chủ thể thực hành diễn xướng ca trù. .61

2.2.1. Đào nương .62

2.2.2 . Đối với kép đàn.68

2.2.3. Đối với người cầm chầu.70

2.3. Dạy và học ca trù.72

2.3.1. Tổ chức giáo phường .72

2.3.2. Học nghề, truyền nghề .74

2.3.3. Lễ mở xiêm áo.75

Tiểu kết.76

Chương 3: THỰC TRẠNG CA TRÙ TRONG ĐỜI SỐNG ĐƯƠNG ĐẠI TẠI HÀ NỘI

.78

3.1. Về nghệ thuật diễn xướng và môi trường diễn xướng .80iii

3.1.1. Nghệ thuật diễn xướng.81

3.1.2. Môi trường diễn xướng .88

3.2. Chủ thể thực hành ca trù .91

3.2.1. Đào nương .92

3.2.2. Kép đàn .93

3.2.3. Người cầm chầu.93

3.3. Vấn đề dạy và học .94

3.3.1. Nơi truyền dạy: một số câu lạc bộ, giáo phường/nhóm ca trù.94

3.3.2. Thực tế truyền dạy ca trù .99

3.3.3. Hình thức lớp học, phương pháp truyền dạy và thời gian học.100

3.4. Đánh giá trình độ chủ thể thực hành ca trù.106

3.4.1. Thành phần ban giám khảo các cuộc liên hoan thi ca trù.107

3.4.2. Trao giải.108

3.4.3. Phong tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân nhân dân.111

Tiểu kết.111

Chương 4: ĐÁNH GIÁ, BÀN LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI CỦA CA TRÙ HÀ NỘI .113

4.1. Những biến đổi tích cực và hạn chế của ca trù trong đời sống đương đại tại Hà Nội

.113

4.1.1. Những biến đổi tích cực của ca trù trong đời sống đương đại tại Hà Nội.113

4.1.2. Những biến đổi của ca trù dẫn đến sai lệch về truyền thống .120

4.2. Bàn luận về những biến đổi của ca trù trong đời sống đương đại và kiến nghị.131

4.2.1. Các yếu tố tác động tới biến đổi ca trù trong đời sống đương đại.131

4.2.2. Một số khuyến nghị .143

 

pdf258 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 392 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Biến đổi của ca trù trong đời sống đương đại tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cách nghe và học theo băng. 3.3.3.3. Thời gian học, kinh phí và kết quả thu được Thời gian học. Đa số thời gian học của các viên rất ngắn, khoảng 1, 2 tháng hoặc 6 tháng, thậm chí có những đợt học chỉ diễn ra trong vòng 10 ngày, để đáp ứng cho một số cuộc liên hoan hay học theo các dự án như đã kể trên. Số người học trong thời gian lâu dài không nhiều nhưng đa phần họ lựa chọn NN hoặc với các NS có tên tuổi. Chẳng hạn, nhóm ca trù của NN Phó Thị Kim Đức đào tạo gần giống các cụ khi xưa: học 3, 5, 7 thậm chí 10 năm mới được thầy cho đi hát. Khi học, chỉ 104 một thầy một trò, tuần học 2, 3 buổi, mỗi buổi 2 - 3 giờ. a/Nguồn kinh phí Để phục hồi ca trù và xây dựng hồ sơ trình UNESCO công nhận ca trù là di sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp, kinh phí đào tạo ca trù đã đến từ các nguồn tài trợ khác nhau - chính phủ, nước ngoài, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và cá nhân. - Từ các tổ chức nước ngoài: quỹ Ford, quỹ học bổng Việt - Mỹ - Nhà nước: Bộ VH - TT&DL; UBNDTP Hà Nội, UBND một số quận, huyện; Viện Âm nhạc thuộc HVANQGVN; Sở VH,TT&DL; Viện VHNTQGVN v.v... - Các tổ chức xã hội, nghề nghiệp: Hội VNDGVN; một số cá nhân yêu thích ca trù, các doanh nhân, Việt Kiều... b/Kết quả thu được Khảo sát một số CLB có NN tham gia giảng dạy, khi kết thúc, người học nắm được một số kiến thức về ca trù; các đào kép biết hát, gõ phách, chơi trống chầu và đàn thành thạo một số thể cách. Đặc biệt, các đào, kép có thể kết hợp với nhau đàn hát được một số thể cách cơ bản. Chẳng hạn: + Nhóm Ca trù Phó Thị Kim Đức, khi học hát phải tập ngồi xếp bằng tròn, cách cầm phách, thuộc ca đàn mồm có sắc thái và phách 5 khổ. Trước khi cầm phách, phải tập gõ bằng hai tay không xuống hai đùi và miệng ca ghép với phách thuần thục rồi mới học điệu hát. Tiếp đó, ghép phách với hát. Sau đó khớp hát, phách với đàn. Còn khi học đàn cũng phải tập ngồi trước, rồi mới đến cầm đàn, làm quen phím, thuộc ca đàn mồm và thuộc 5 khổ phách. Sau đó tập đánh đàn, thuộc 5 khổ và ghép với phách của người hát v.v... một số học viên đã được học đủ 15 thể cách hát chơi bắt đầu từ bắc phản. Trong thể hát nói, bà Kim Đức không chỉ dạy kỹ phần hát nói đủ khổ, dôi khổ mà còn dạy thiếu khổ, hát nói gối hạc, mưỡu tiền, mưỡu hậu, mưỡu đơn, mưỡu kép. Ngoài ra, các học 105 viên lâu năm còn được học một số thể cách hát cửa đình như: bắc phản đổ hát nói, hát nói đổ gửi thư, gửi thư đổ cung bắc, hát lót, hát giai, thét nhạc, hát múa bỏ bộ, múa hát bài bông và hát truyện Phan Trần. + CLB Ca trù Hà Nội: chỉ có một số ít học viên (đào nương, kép đàn) học thông thạo các thể cách trên. + CLB Ca trù Lỗ Khê: vì NN Phạm Thị Mùi và Nguyễn Văn Hành, Nguyễn Văn Hoan chỉ tham gia dạy trong thời gian ngắn nên học sinh chỉ học được 3 thể cách: bắc phản, hát nói đủ khổ, gửi thư và múa hát bỏ bộ. Sau này, trên cơ sở đó, một số học trò của các cụ đã nghe băng của thầy và băng đĩa của các NN khác và bổ sung thêm vào vốn liếng bài bản của mình một số thể cách hát cửa đình, đặc biệt là thể hát thiên thai chênh của NN Phạm Thị Mùi. Một cách tiếp cận khác là các NN (như NN Đỗ Thị Sông) thường hát ca trù trong 2 kỳ giỗ tổ/năm tại nhà thờ Ca công các thể cách: đọc phú, thét nhạc, hát giai, 36 giọng, cung bắc, tỳ bà nên một số học viên tại đây như Phạm Thị Mận có cơ hội được nghe nhiều lần để rồi tự học và hoàn thành việc nắm bắt các thể cách này một cách tương đối. Ngoài các CLB trên, một số CLB khác bên cạnh chức năng sinh hoạt đàn hát tại chỗ còn tham gia biểu diễn, tham dự các cuộc liên hoan và giảng dạy như: + CLB Ca trù Chanh Thôn tuy có NN tham gia giảng dạy nhưng do tuổi quá cao nên cũng chỉ truyền lại cho học trò rất nhanh một số ít thể cách hát chơi và cửa đình như thét nhạc, tỳ bà, hát ru, mưỡu, bắc phản, hát lót, cung bắc, huê tình và điệu múa chúc tửu trong hội tế. + CLB Ca trù Thăng Long do chủ nhiệm CLB là người được học âm nhạc, nhạc cụ chuyên nghiệp từ bậc tiểu học và là giảng viên của HVANQGVN nên rất thuận lợi trong việc học ca trù nhất là gõ phách, đàn, trống đồng thời lại được 2 NN nổi tiếng đàn hát truyền dạy cơ bản một lúc dù được đào tạo trong thời gian ngắn. Vì thế, nắm được gần hết các thể cách hát chơi và một số thể cách hát cửa đinh nhưng do không có giọng nên khi học và dạy hát sẽ hạn chế 106 rất nhiều trong thể hiện giai điệu hoặc các kỹ thuật (nhả âm, nhả chữ, luyến láy). Dù sao, việc truyền dạy ca trù diễn ra ở đây (đặc biệt là nhạc cụ) khá thuận lợi với các thể cách cơ bản. + Nhóm Ca trù Phú Thị (mới tách từ CLB Ca trù Thăng Long) có vốn bài bản như trên nhất là kép đàn Phạm Đình Hoằng được NN Nguyễn Phú Đẹ coi như trong gia đình nên được đào tạo 3, 4 năm, truyền lại nhiều ngón nghề khó. + CLB Thái Hà (như đã trình bày) gồm các thành viên trong gia đình với đủ đàn, hát và trống chầu tuy nhiên các nhạc công được học từ NN Phó Đình Kỳ nhưng người hát lại học qua băng đĩa. Nhóm này sau trở thành những người tham gia tích cực vào việc dạy ca trù theo các dự án của nhà nước (viện, sở và các tỉnh ngoài TP Hà Nội) với một số thể cách hát chơi, một số thể hát cửa đình như tỳ bà hành theo đơn đặt hàng. Ngoài ra, dạy cho các CLB,GP/nhóm có nhu cầu tham gia các liên hoan ca trù tại địa phương và toàn quốc. Các nhóm ca trù còn lại chỉ biết được một số thể cách để duy trì sinh hoạt tại chỗ, khi các cuộc liên hoan ca trù được tổ chức hay có dự án dạy ca trù thì các CLB này mới cử người đi học và tham gia liên hoan như: CLB Ca trù Thượng Mỗ cử hội viên đi học đàn hát trống chầu cấp tốc 3 tháng được 6 làn điệu; thậm chí một số CLB do không có điều kiện nên chủ yếu tự học qua băng từ hoặc người biết nhiều dạy lại cho người biết ít hoặc chưa biết. 3.4. Đánh giá trình độ chủ thể thực hành ca trù Đánh giá trình độ đào kép ngày nay cũng được thể hiện qua các cuộc thi ca trù (nằm trong tổng thể liên hoan ca trù), từ sự đánh giá này (thông qua các bộ huy chương vàng, bạc ....; các giải nhất, nhì ... cùng hoạt động biểu diễn ...) các đào kép ca trù sẽ được phong danh hiệu: NNDG, NNUT; NNND. Người thẩm định trình độ đào kép là BGK các cuộc liên hoan và thi ca trù; người thẩm định hồ sơ phong danh hiệu NNDG, NNUT, NNND v.v... là ban lãnh đạo, cán bộ các hội, viện, sở, bộ có liên quan. Vì thế, mục này sẽ khảo sát thực tế các vấn đề có liên quan đến thành phần BGK, trao giải và phong tặng danh hiệu. 107 3.4.1. Thành phần ban giám khảo các cuộc liên hoan thi ca trù Khảo sát 5 cuộc liên hoan ca trù diễn ra tại Hà Nội cho thấy, thành phần BGK luôn có số lượng lẻ (5 hoặc 7 người). Thành phần ban giám khảo gồm: đại diện BTC, nhà nghiên cứu, nhà thơ, đại diện của phần đàn và phần hát hoặc có khi chỉ có đàn hoặc hát. Như đã trình bày, Liên hoan Ca trù Hà Nội mở rộng lần thứ nhất năm 2000 là liên hoan ca trù đầu tiên, với mục đích khuyến khích các nghệ nhân tham gia trình diễn ca trù nên không có BGK, không phân chia các giải vàng bạc, chỉ có bằng khen để động viên. Sau Liên hoan Ca trù Hà Nội mở rộng lần thứ nhất năm 2000, các cuộc liên hoan bắt đầu có thành phần BGK gồm 5 hoặc 7 người. Cụ thể: Tại Liên hoan Ca trù toàn quốc 2014 lần này, thành phần BGK gồm 7 người: 2 cán bộ quản lý (1 người ở Viện Âm nhạc, 1 người thuộc Sở VH,TT &DL tỉnh Hà Tĩnh), 2 cán bộ nghiên cứu, 1 người viết nhiều thơ ca trù mới và 2 NN (1 đàn, 1 hát). Liên hoan tài năng trẻ Ca trù Hà Nội năm 2016 với BGK gồm 5 người: 1/ tổng thư ký Hội VNDGVN, 2/ cựu lãnh đạo Viện Âm nhạc, 3/ NSND hát chèo, 4/ quản lý di sản - Sở VH, TT &DL, 5/ NSUT đàn đáy. Liên hoan nghệ thuật Ca trù Hà Nội - 2017, thành phần BGK cũng gồm 7 người, không có giám khảo chơi đàn đáy chỉ có 3 vị GK biết chút ít ca trù nhưng chuyên về hát chèo (NSND, NSUT); còn lại, 4 người trong BGK đều không có chuyên môn sâu như: 1/ một lãnh đạo Hội VNDGVN, 2/ một nhà nghiên cứu, 3/ một cựu lãnh đạo Viện Âm nhạc, 4/ một lãnh đạo Nhà văn hoá sở tại. Liên hoan tài năng trẻ Ca trù Hà Nội lần thứ 2 - 2019 giống như Liên hoan tài năng trẻ Ca trù Hà Nội năm 2016, BGK gồm 5 người: 1/tổng thư ký Hội VNDGVN, 2/cựu lãnh đạo Viện Âm nhạc, 3/NSND hát chèo, 4/NSUT đàn đáy, 5/trưởng phòng Quản lý Di sản - Hà Nội. 108 Điểm qua thành phần BGK các cuộc liên hoan và thi ca trù để thấy, thành phần BGK ngày nay không giống xưa ở chỗ: có đông người tham gia và người tham gia không nhất thiết phải biết hát ca trù hay, biết chơi đàn đáy giỏi, hiểu biết thơ ca. 3.4.2. Trao giải Trước các liên hoan/thi ca trù diễn ra, BTC đã dự định trước các giải thưởng, bằng khen trao cho các đoàn và người tham dự. Tuỳ thuộc vào từng cuộc liên hoan mà trao các danh hiệu: giải nhất, giải nhì... (cá nhân, toàn đoàn), hay huy chương vàng, bạc ... ; giải tham gia lớn tuổi nhất, nhỏ tuổi nhất; giải tài năng v.v.. Việc đánh giá trình độ đào kép thông qua việc đàn hát bắt buộc trong các liên hoan/thi ca trù và các giải thưởng được thể hiện như sau: 3.4.2.1. Liên hoan Ca trù toàn quốc năm 2014 với 132 tiết mục dự thi và 20 thể cách được thể hiện một cách tự nhiên như trích đoạn 36 giọng, non mai, hồng hạnh và 3 điệu múa cổ (múa hát bỏ bộ, múa dâng hương cửa đình, múa hát tùng chi). Nhiều làn điệu (điệu, thể cách) khó được thể hiện như thiên thai, cung bắc, thét nhạc, tỳ bà, ngâm vọng do lớp đào nương trung niên và trẻ thể hiện. Kết quả của liên hoan được trao như cơ cấu giải thưởng đã công bố. Đoàn Hà Nội là địa phương giành được nhiều giải cao nhất trong đợt liên hoan này với: 3 giải vàng, 2 giải bạc, 3 giải đồng, 2 giải khuyến khích (giải trình diễn); 5 giải đào nương xuất sắc, 5 giải kép đàn xuất sắc nhất, 2 giải đào nương và kép đàn triển vọng (giải cá nhân). Số giải còn lại trao cho các đoàn khác. Ngoài ra, BTC đã trao xiêm áo cho 2 đào nương xuất sắc trẻ tuổi nhất là Nguyễn Khánh Linh 18 tuổi của CLB Ca trù Ngãi Cầu và Nguyễn Thu Thảo 20 tuổi của GP Ca trù Thái Hà. Giải cho các tiết mục gây ấn tượng gồm: 3 diễn viên ở tuổi thiếu niên (CLB Ca trù Thái Hà - Hà Nội), tiết mục gửi thư do 3 người (hát, đàn đáy, trống chầu) đều là phụ nữ thể hiện (CLB Ca trù Thăng Long - Hà Nội) hoặc tiết mục 109 có 3 thế hệ trong một gia đình cùng tham gia (CLB Ca trù Đồng Trữ và CLB Ca trù Thái Hà). 3.4.2.2. Liên hoan tài năng trẻ Ca trù Hà Nội năm 2016 có 10 CLB,GP/ nhóm ca trù tham gia với 101 thí sinh (56 thí sinh dự thi múa hát tập thể với 65 tiết mục); 35 thí sinh dự thi đào nương, kép đàn tài năng, 10 thí sinh đăng ký dự thi đào nương, kép đàn xuất sắc nhất (có bốc thăm). Độ tuổi từ 6 đến 30, có 22 thí sinh độ tuổi từ 6 - 15 chiếm gần 63 % và có 13 thí sinh ở độ tuổi từ 16 - 30, chiếm 37%. Các cháu nhỏ tham gia thi tài năng xuất sắc yêu cầu phải biết hát ít nhất 11 hoặc có thể là 15 thể cách. Trong phần thi đào nương, kép đàn xuất sắc có hình thức bốc thăm và mượn các đào, kép, trống chầu của đội bạn (CLB, nhóm khác) hỗ trợ cho cuộc thi có phần lộn xộn. Việc bốc thăm quy định 3 lần nhưng có thí sinh bốc đến 4 lần để chọn thể cách mình thuộc hoặc cho đúng sở trường. Có thành viên BGK đến tiết mục của con cháu thi thì ra ngoài sau đó lại vào chấm tiếp... khiến cuộc thi có phần kém nghiêm túc. Kết quả liên hoan (có thay đổi chút ít so với cơ cấu giải ban đầu) gồm: 4 giải A, 4 giải B, 2 giải ca nương tài năng xuất sắc, 1 giải tài năng trẻ tuổi nhất, 8 giải khuyến khích, 1 giải A tập thể và 1 giải B tập thể cho múa hát bỏ bộ. Theo đánh giá của BGK, nhỏ nhất trong số các thí sinh là đào nương nhí Nguyễn Thục Trinh 7 tuổi đến từ CLB Ca trù Lỗ Khê có chất giọng hay, khỏe; số lượng ca nương dự thi nhiều hơn kép đàn và tuy chỉ có 3 thí sinh dự thi kép đàn tài năng nhưng các em đã đệm được tỳ bà hành - một thể cách rất khó của ca trù. 3.4.2.3. Liên hoan nghệ thuật Ca trù Hà Nội - 2017 Có 120 người đăng ký tham gia, trong đó có 20 ca nương ở các giáo phường thuộc 8 đơn vị quận, huyện thủ đô gồm: Tây Hồ, Phú Xuyên, Hoài Đức, Đông Anh, Đan Phượng, Bắc Từ Liêm, Ba Đình, Chương Mỹ với gần 40 tiết mục. 110 Tổng số giải được trao gồm: + Ca nương: 10 giải A1, 7 giải A2; 3 giải khuyến khích. + Kép đàn: 5 giải. + Trống chầu: 5 giải. + 2 giải đặc biệt cho NNUT cao tuổi nhất Nguyễn Thị Khướu 90 tuổi ở Chanh Thôn (Phú Xuyên) và ca nương nhỏ tuổi nhất Nguyễn Thục Trinh 9 tuổi ở Lỗ Khê (Liên Hà, Đông Anh). 3.4.2.4. Liên hoan tài năng trẻ Ca trù xuất sắc Hà Nội lần thứ 2-2019 Diễn ra trong một ngày có 8 CLB,GP/nhóm ca trù trên địa bàn Hà Nội tham gia, với số lượng 30 thí sinh dự thi múa hát tập thể, 26 thí sinh dự thi đào nương, kép đàn, trống chầu và 3 thí sinh tự do. Thí sinh tham gia thi tài năng, xuất sắc không vượt quá 30 tuổi, nhỏ nhất 7 tuổi. Có 13 thí sinh là đào nương, kép đàn tuổi từ 6 - 15 (chiếm50%), có các nhóm múa từ 6 - 15 tuổi. Các đào kép đã thể hiện nhiều thể cách bắt buộc (8) trong số 12 thể cách gồm: thét nhạc, bắc phản, mưỡu - hát nói, gửi thư, cung bắc, tỳ bà, hát múa bài bông, hát múa bỏ bộ đồng thời có thêm điệu múa sáng tạo tiên cổ của CLB Ca trù Lỗ Khê. Ngoài ra, BGK yêu cầu bốc thăm hát thêm một số thể cách bất kỳ. Do có gần 90% gương mặt trẻ đàn hát và một vài CLB mới xuất hiện lần đầu rất nhiệt tình tham gia nhưng lại không nắm được những kỹ thuật tối thiểu của ca trù nên khi thể hiện đã khiến khán giả và thành viên một số CLB, GP/nhóm bàn tán ầm ĩ “không biết đàn hát này gọi là cái gì?”. Đàn hát không đúng giai điệu thể cách của ca trù, không gõ được phách v.v... đã làm cho chất lượng liên hoan có phần giảm sút, không nghiêm túc. Lễ bế mạc và trao giải rất trang trọng với các giải như sau: - Giải cá nhân được trao tặng nhiều hơn so với cơ cấu giải thưởng ban đầu gồm: 3 giải tài năng xuất sắc, 6 giải A, 4 giải B, 10 giải C. - Giải tập thể gồm: 2 giải A, 2 giải B, 2 giải C. Ngoài ra, 1 giải tiết mục sáng tạo hiệu quả, 1 giải tiết mục vốn cổ xuất 111 sắc, 1 giải cho ca nương trẻ tuổi nhất Phạm Ngọc Bích (7 tuổi). Điểm qua các giải thưởng trong các cuộc liên hoan/thi ca trù để thấy được tiêu chí đánh giá trình độ đào kép ngày nay không giống xưa. Vì thế, danh hiệu hay giải thưởng cũng chỉ có giá trị tương đối và phù hợp với giai đoạn phục hồi ca trù. 3.4.3. Phong tặng danh hiệu nghệ nhân ưu tú, nghệ nhân nhân dân Cùng với việc phục hồi di sản ca trù, việc phong các danh hiệu cho đào nương, kép đàn đã được các cấp, các ngành trong đó có Hội VNDGVN quan tâm và diễn ra thường xuyên. Bắt đầu từ năm 2015 đến nay (năm 2022) đã có 3 đợt phong danh hiệu. Theo tài liệu của phòng Di sản Sở VH & TT Hà Nội: Đợt 1 đầu tiên 2015: Q/Đ phong tặng số 2533/QĐ - CTN ngày 13/11/2015. Quyết định truy tặng số 2534/QQĐ - CTN ngày 13/11/2015. Tổng số có 14 NNUT [Phụ lục IIIa , tr. 231 - 232]. Đợt 2, năm 2019: Quyết định số 355/QĐ - CTN ngày 08/3/2019 phong tặng NNUT. Quyết định số 356/QĐ - CTN ngày 08/3/2019 phong tặng NNND. Quyết định số 358/QĐ - CTN ngày 08/3/2019 truy tặng NNUT.Tổng số: 13 NN (8 NNUT và 5 NNND) [Phụ lục IIIb, tr. 232 - 233]. Đợt 3, năm 2021, chưa công bố. Tiểu kết Sau hơn nửa thế kỷ vắng bóng, ca trù đã dần được phục hồi. Chiều 1/10/2009, ca trù đã được UNESCO công nhận và xếp vào danh sách Di sản văn hóa phi vật thể cần được bảo vệ khẩn cấp đã cho thấy nguy cơ thất truyền thể loại nghệ thuật quí báu mà ông cha ta để lại. Trong quá trình phục hồi và đưa ca trù trở lại với cuộc sống đương đại thật không dễ dàng gì, bởi cuộc sống nay đã khác xưa quá nhiều - ưu điểm, nhược điểm là điều không thể tránh khỏi. Để có cơ sở nhìn nhận, đánh giá sự biến đổi của ca trù trong giai đoạn vừa qua một cách khách quan; từ đó đưa ra một số 112 khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy những giá trị nghệ thuật của ca trù, chương 3 của luận án đã đề cập đến thực trạng của ca trù trong đời sống đương đại tại Hà Nội thông qua các nhóm vấn đề: về nghệ thuật diễn xướng; về chủ thể thực hành; vấn đề truyền dạy; vấn đề đánh giá trình độ chủ thể thực hành. Để làm nổi bật thực trạng trên, NCS đã tiến hành khảo sát các hoạt động diễn ra tại các CLB,GP/nhóm ca trù trong suốt thời gian hơn 30 năm qua (kể từ năm 1990 đến nay), từ khâu tổ chức đến các hoạt động dạy học, truyền bá và biểu diễn; từ đó có cách nhìn tổng quát tại Hà Nội - một trong những cái nôi của nghệ thuật ca trù được nhắc đến qua sử sách. Song song với việc khảo sát các CLB,GP/nhóm ca trù, NCS cũng đã khảo sát một số cuộc liên hoan diễn ra trên địa bàn Hà Nội (1 liên hoan ca trù toàn quốc và 4 liên hoan ca trù của Hà Nội) từ thể lệ, tiêu chí đến diễn biến của liên hoan với tổng số các đoàn, các CLB, GP/nhóm ca trù; số lượng và độ tuổi; các thể cách được trình bày; thành phần BGK v.v... và cuối cùng là kết quả qua lễ trao giải. Kết quả khảo sát, sẽ là cơ sở để NCS bóc tách, bàn luận về những biến đổi so với truyền thống ở chương 4. 113 Chương 4 ĐÁNH GIÁ, BÀN LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI CỦA CA TRÙ HÀ NỘI 4.1. Những biến đổi tích cực và hạn chế của ca trù trong đời sống đương đại tại Hà Nội Ở chương 3, luận án đã mô tả thực trạng của ca trù trong cuộc sống đương đại tại Hà Nội. Đây chính là cơ sở để chương 4 được tiếp tục với sự bàn luận về những biến đổi đó. Những biến đổi nào mang tính tích cực, phù hợp với cuộc sống đương đại mà không phá vỡ đặc trưng của ca trù thì tiếp tục phát huy; những yếu tố biến đổi nào xa rời truyền thống, làm mất đi vẻ đẹp hay làm biến dạng ca trù thì cần rút kinh nghiệm để quá trình phục hồi đạt kết quả tốt, góp phần đưa đến cho người thưởng thức một món ăn tinh thần xưa mang hương vị đương đại nhưng vẫn giữ được cốt cách của nó. 4.1.1. Những biến đổi tích cực của ca trù trong đời sống đương đại tại Hà Nội Sau thời gian dài chìm lắng, ca trù đã phục hưng trong một diện mạo mới khác xưa, cụ thể: 4.1.1.1. Sự ra đời của các câu lạc bộ/nhóm ca trù là một biến đổi mang tính tích cực trong giai đoạn phục hồi Trước sự gặp gỡ, tiếp xúc với văn minh văn hóa Phương Tây vào đầu TK XX, nền tảng văn hoá và xã hội nước ta đã bị một phen lung lay, điên đảo. Quả vậy, bước ngọăt, sự biến thiên xuất hiện lúc đó đã đem lại những biến đổi căn bản với nền văn minh hiện đại lấn lướt, đời sống văn học nghệ thuật nước ta cũng chịu tác động mạnh mẽ và trực tiếp. Ca trù là loại hình biểu diễn rất nhạy cảm với những biến động của xã hội. Thực sự, nó chỉ tồn tại khi có khán giả nên nếu đối tượng thưởng thức thay đổi thì ca trù cũng phải thay đổi theo. Thật quá tiếc, sự thoái hóa của một bộ phận công chúng trong một thời đại đã khiến ca trù - bộ môn nghệ thuật ít ra đã định hình và phát triển rực rỡ của nhiều 114 triều đại từ dân gian trở thành bác học, đỉnh cao của ca nhạc thính phòng trong lịch sử hơn 500 năm, đi vào con đường trụy lạc nhanh chóng ở đầu thế kỷ XX. Phạm Văn Duyệt trong bài “Mấy lời phân giải”, đã viết “ Quan viên phong nhã thời không được như các cụ khi xưa, đào nương thời không tinh nghệ, thành ra cho giáo phường là xóm Bình Khang, là nơi hồng lâu: để cho bất cứ hạng người nào có tiền cũng bước chân vào được” khi các nhà hát cô đầu mọc lên quá nhiều, quá nhanh. Ở thành phố, tinh thần ca trù dần sa sút, khách thưởng văn chương nghệ thuật thì ít, sắc dục lại nhiều. Đào rượu tập trung đông đảo ở một số địa điểm như Ngã Tư Sở, đoạn cuối phố Huế, ấp Thái Hà, Vạn Thái (Bạch Mai), Gia Quất (Gia Lâm)... Ngay phố Khâm Thiên, quận Đống Đa đã có quá nhiều nhà hát với cơ man cô đầu rượu, tối nào cũng đỏ đèn đón khách (cô đầu hát chỉ hát mảnh rồi về nhà). Riêng ở nông thôn các đào kép phần lớn vẫn làm nghề nông giữ ruộng, chỉ xuân thu nhị kỳ mới gác cày bừa.., chỉnh tề khăn áo, sênh phách, đàn đáy kéo nhau đi hát cửa đình hoặc đến tư gia hát chơi lúc có việc mừng vui. “Những chốn thôn quê tĩnh mịch, năm năm cứ đến ngày tế lễ hội hè, ở các đền từ miếu mạo, làng nào cũng còn giữ bền cái tục gọi nhà tơ đến hát, có nơi treo giải hát thi, trước là để hát thờ, kính thần, sau là để mua vui cho các cụ thưởng văn” [72, tr.139]. Từ những năm 1923 - 1984, liên tục trên những mặt báo Nam Phong, Ngày nay, Thanh Nghị và nhiều tạp chí khác của nhiều tác giả, đặc biệt là Nguyễn Xuân Khoát với những bài viết về giá trị nghệ thuật ca trù: giọng hát đào nương, tiếng hát ả đào, trống chầu, hát cửa đình với ngầm ý giới thiệu cái hay, cái đẹp của nghệ thuật ca trù, đừng gán nhiều tiếng xấu để vứt bỏ không thương tiếc! Sau năm 1945, sự đổi mới trong diễn biến xã hội, quyền lực của thiết chế xã hội hiện đại, đã làm cho những giá trị truyền thống, một sản phẩm của cộng đồng, của giới trí thức bậc cao có phần nào mâu thuẫn với chính thể - thể chế 115 chính trị lúc đó. Ca trù chìm lắng, các không gian diễn xướng, giáo phường khi xưa không còn tồn tại vì cũng nằm trong sự “tuyệt giao”, cho là “ tàn dư”, “ đồi truỵ” nên “ lảng tránh”,“ bài trừ ” ..., các NN mai danh ẩn tích thì tất yếu thế hệ trẻ không được truyền dạy. Như đã đề cập, người có công đầu tiên vẫn là nhạc sĩ Nguyễn Xuân Khoát với nhiều bài báo, phân tích, nói chuyện chỉ mong phục hồi ca trù. Trong quá trình phục hồi, với sự thành lập, ra mắt của CLB Ca trù Hà Nội đầu tiên năm 1990 - 1991 và sau đó hàng loạt CLB,GP/nhóm ca trù tự phát thành lập ở Hà Nội; đặc biệt từ khi UNESCO công nhận di sản năm 2009, nhiều CLB ca trù cũng có mặt ở các địa phương. Đây chính là yếu tố biến đổi đầu tiên của ca trù từ giáo phường đến hình thức CLB. CLB ca trù trong thời hiện đại là để “chơi’, nâng cao tinh thần bảo vệ vốn cổ, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, từ giáo phường chuyên nghiệp khi xưa thành CLB nghiệp dư hoạt động “tự sướng” phần nhiều không phải kiếm sống, sống bằng nghề ... Đây thực sự là một biến đổi mang tính tích cực bởi phần nào đó đã đưa ca trù đến với đông đảo quần chúng, mong muốn phục hồi, giữ gìn và phát triển sau một thời gian dài (thiên về sắc dục và bị cấm - đã nói ở trên), góp phần không nhỏ cho nghệ thuật ca trù phục sinh, không chỉ riêng thủ đô Hà Nội mà còn tạo nên phong trào ca trù hoạt động sôi nổi. Sự ra đời, tồn tại của CLB, GP/nhóm ca trù tại Hà Nội thời gian đầu đã gây sự phấn khích cho các nghệ sĩ và những người yêu thích ca trù “ôn cố nhi tri tân” của nhiều địa phương, không chỉ các tỉnh thành phía Bắc mà cả các tỉnh phía Nam. Đặc biệt, TP Hồ Chí Minh đã thành lập các CLB ca trù, thu hút nhiều người tham gia, mặc dù không có nghệ nhân. Thời gian đầu, một số NN còn ẩn mình, sau đó được xã hội tôn vinh, được vận động nên dần dần xuất hiện, đàn hát trở lại; khán giả thời nay mới có cơ hội được thưởng thức những thể cách ca trù cổ. Ngay chính trên đất tổ Lỗ 116 Khê hay Hải Dương, Hải Phòng hoặc xa xôi tận miền Trung như Diễn Châu - Nghệ An, Cổ Đạm - Hà Tĩnh nếu như không thành lập, ra mắt CLB ca trù, phục hưng thì lớp trẻ ở đó cũng không biết đến ca trù. Thật vậy, sự ra mắt đồng loạt các CLB ca trù cho thấy giá trị của nó. Sự hiện diện của các NN, công chúng đương đại mới có cơ hội mắt thấy, tai nghe tài nghệ điêu luyện của giọng hát, ngón đàn mê đắm lòng người. Muộn nhưng còn hơn không! Nếu không có hình thức CLB ca trù xuất hiện thời điểm cách đây 30, 40 năm có lẽ ca trù sẽ chết hẳn khi lớp NN cuối cùng ấy ra đi. Sau này chúng ta sẽ chỉ được biết đến ca trù qua sử sách, phim ảnh hoặc qua nghe băng đĩa cổ! Không chỉ biểu diễn, nhiều NN còn kịp dạy đàn hát trực tiếp cho lớp trẻ kế tục dù chỉ trong thời gian ngắn (vài tháng hay vài năm). Những đóng góp của các NN được ghi nhận trong việc truyền nghề thông qua các CLB ca trù như: Chu Văn Du, Nguyễn Văn Trai, Phó Đình Kỳ và Phó Thị Kim Đức (Khâm Thiên), Đỗ Thị Khuê và Nguyễn Thị Sinh (Phú Đô) và hai anh em Vũ Văn Hồng, Vũ Văn Cốm (Mỹ Đình), Nguyễn Thị Vượn và Nguyễn Thị Khướu (Chanh Thôn); Phạm Thị Mùi, Nguyễn Văn Hành, Nguyễn Văn Hoan, Nguyễn Thế Hối và hai chị em Đỗ Thị Nguyệt, Đỗ Thị Sông (Lỗ Khê); Nguyễn Thị Chúc (Ngãi Cầu), Nguyễn Khánh Hạ (Ngọc Mỹ); Bắc Ninh như: Nguyễn Thị Điền tức Thiệp, Ngô Trọng Đức, Nguyễn Thị Kỳ và Nguyễn Thị Dây (Thanh Tương); Hưng Yên: Nguyễn Văn Si (Duyên Yên), Phạm Văn Sáu (Đa Hòa): Hải Dương: Nguyễn Phú Đẹ, Nguyễn Thị Cung...; Hải Phòng:Trần Trọng Quế, Đào Thị Thẩm, Nguyễn Thị Chín và Tô Thị Chè; Thái Bình: Bùi Thị Nhài cùng hai chị em Lê Thị Toàn, Lê Thị Tước (Bình Định), Phạm Bình Sâm (Quang Hưng); Thanh Hóa: Nguyễn Thị Diện (Vĩnh Lộc), Ngô Trọng Bình (Ngọc Trung) và Nguyễn Thị Kim (Hương La - Phượng Đoài); Nghệ An: Tô Văn Hải (Văn Vật) và Lê Thị Cung (Yên Lý ngoại); Hà Tĩnh: Phan Thị Mơn, Nguyễn Thị Nga và Trần Thị Gia (Cổ Đạm) 117 Cũng từ phong trào thành lập CLB ca trù mà xã hội hiện đại còn được chứng kiến tài nghệ của NN, NS Phó Thị Kim Đức đã đúc kết và phục dựng điệu múa hát bài bông thành công và từng gặp gỡ các cụ ở Lỗ Khê như Đỗ Thị Nguyệt (là người tham gia múa hát bài bông và Nguyễn Thị Diện, Vĩnh Lộc, Hậu Lộc, Thanh Hóa, một trong những đào nương cuối cùng vào lai kinh chúc hỗ, cũng còn nhớ điệu múa hát này). Bên cạnh đó, bà còn dạy đượ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_bien_doi_cua_ca_tru_trong_doi_song_duong_dai_tai_ha.pdf
  • pdfAbstract of the dissertation.pdf
  • pdfCV đăng tin bảo vệ luận án Tiến sĩ cấp Viện cho NCS Lê Thị Bạch Vân.pdf
  • pdfSummary of new conclusions of the dissertation.pdf
  • pdfThông tin tóm tắt kết luận mới tiếng Việt.pdf
  • pdfTóm tắt luận án.pdf
  • pdfTrích yếu luận án tiếng Việt.pdf
Tài liệu liên quan