MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ
LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 10
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 10
1.2. Cơ sở lý luận của luận án 24
1.3. Khái quát địa bàn nghiên cứu 40
Chương 2: BIẾN ĐỔI VĂN HÓA VẬT CHẤT CỦA NGƯỜI
TÀY Ở HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN 52
2.1. Cấu trúc làng bản, nhà ở 52
2.2. Trang phục 64
2.3. Ẩm thực 74
Chương 3: BIẾN ĐỔI VĂN HÓA TINH THẦN CỦA NGƯỜI
TÀY Ở HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN 85
3.1. Ngôn ngữ 85
3.2. Lễ hội 93
3.3. Hôn nhân 107
3.4. Tang ma 113
Chương 4: NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ BIẾN ĐỔI
VĂN HÓA VÀ GIẢI PHÁP BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HÓA CỦA NGƯỜI TÀY Ở HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH
THÁI NGUYÊN TRONG THỜI GIAN TỚI 122
4.1. Những yếu tố tác động đến sự biến đổi văn hóa người Tày ở
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên 122
4.2. Giải pháp bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa người Tày ở huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên trong thời gian tới 138
KẾT LUẬN 156
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ 158
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 159
PHỤ LỤC 171
220 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 533 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Biến đổi văn hóa của người Tày ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều thách thức khi đặt trong tương quan với ngôn
ngữ phổ thông và ngôn ngữ chủ thể của khu vực. Khi nghiên cứu thực trạng
biến đổi ngôn ngữ của một số tộc người sinh sống ở vùng Đông Bắc Việt
Nam, trong đó có người Tày ở tỉnh Thái Nguyên, Lạng Sơn, tác giả Vương
Xuân Tình, Trần Hồng Hạnh đã cho rằng xu thế hội nhập và giao thoa văn
86
hóa tác động khá sâu sắc đến ngôn ngữ tộc người, đó là: Dưới tác động của
toàn cầu hóa, quan hệ dân tộc, việc giao lưu, tiếp xúc ngôn ngữ và sử dụng
những ngôn ngữ có ưu thế trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ngày càng
trở nên phổ biến. Trong bối cảnh đó, ngôn ngữ tộc người nhất là ngôn ngữ tộc
người có dân số ít dễ bị rơi vào tình trạng yếu thế và có nguy cơ bị tiêu
vong[133, tr.167]. Trong thực tế của Việt Nam cho thấy, từ sau Cách mạng
Tháng Tám đến nay, ngôn ngữ của các dân tộc phát triển và biến đổi theo
nhiều chiều hướng khác nhau. Mặc dù Đảng và Nhà nước luôn có những
chính sách khuyến khích phát triển và bảo tồn ngôn ngữ dân tộc nhưng do
nhiều nguyên nhân khác nhau, một số ngôn ngữ của các dân tộc có dân số ít
ngày càng bị mai một, bị thay thế bằng tiếng khu vực và phổ thông. Hiện
tượng sử dụng song ngữ, đa ngữ ở từng khu vực, làng bản và gia đình ngày
càng trở nên phổ biến [128, tr.511]. Hiện tượng sử dụng ngôn ngữ tộc người
trong đời sống hàng ngày càng có sự phân hóa sâu sắc giữa các dân tộc thiểu
số, giữa các tầng lớp và lứa tuổi. Trong những năm gần đây, dưới tác động
của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập, việc giao lưu, tiếp
xúc ngôn ngữ và sử dụng những ngôn ngữ phổ thông có ưu thế trong đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội ngày càng trở nên phổ biến. Ngôn ngữ tộc người
được sử dụng trong môi trường gia đình, nhà trường, cộng đồng và xã hội.
Hiện tượng song ngữ Tày - Việt được xem là có từ lâu trong lịch sử
của người Tày nhưng nó trở nên rộng rãi và phổ biến trong quá trình người
Tày tham gia cách mạng (từ năm 1945 đến nay). Trong những ngày đầu
kháng chiến chống thực dân Pháp, việc tiếp xúc giữa cán bộ, bộ đội ở vùng
căn cứ Việt - Bắc và người dân địa phương còn nhiều khó khăn do bất đồng
ngôn ngữ, nhưng chưa đầy một thập kỉ sau, đông đảo người Tày, kể cả một số
phụ nữ lớn tuổi đã có thể nói tiếng Việt như tiếng mẹ đẻ của mình. Hiện nay,
việc dùng song ngữ Tày - Việt đã tăng tới mức phổ biến tuyệt đối. Cùng một
lúc người ta sử dụng cả hai ngôn ngữ này theo lối đan xen nhau. Đối với
nhiều người Tày, tiếng Việt trở thành công cụ giao tiếp do sống chung, là
87
công cụ nắm bắt kĩ thuật để phát triển sản xuất và ổn định cuộc sống, cho họ
kiến thức và ngành nghề [102, tr.101- 102]. Người Tày sinh sống ở huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên vào những năm kháng chiến chống Pháp, huyện
Định Hóa được chọn là điểm an toàn khu, căn cứ địa cách mạng, vì thế mà
người dân sử dụng song ngữ Tày - Việt là phổ biến. Tuy nhiên, trong thực tế
cũng có sự khác biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ ở những môi trường khác
nhau, với những đối tượng khác nhau.
Khi phỏng vấn sâu những người già sinh sống tại huyện Định Hóa,
NCS đã được biết, mức độ sử dụng ngôn ngữ của người Tày đã có sự khác
biệt so với trước đây và theo nhóm độ tuổi và các loại hình hôn nhân gia đình.
Nếu như trước kia, đặc biệt là giai đoạn những năm 1975 trở về trước, hầu
như người Tày ở huyện Định Hóa sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình trong
các hoạt động giao tiếp từ trong môi trường gia đình đến ngoài xã hội, khi
giao tiếp với cán bộ, bộ đội hoặc trao đổi các công việc thường sử dụng tiếng
Việt, thậm chí sử dụng cả hai ngôn ngữ Tày - Việt bởi thời kì này nhiều cán
bộ, bộ đội ở Định Hóa đã học tiếng Tày để giao tiếp. Với những người già,
những người thực hành nghề thầy cúng còn nói và đọc được sách viết bằng
chữ Hán, do đó việc lưu giữ, truyền tải các giá trị văn hóa từ thời ông cha
được dễ dàng hơn.
Từ khi đổi mới đất nước đến nay, đặc biệt 10 năm trở lại đây phần lớn
người Tày ở huyện Định Hóa sử dụng tiếng phổ thông trong các hoạt động
giao tiếp hàng ngày, nhất là trong các gia đình có con đang ở độ tuổi đi học,
một số ít các gia đình có người già, hoặc trẻ nhỏ chưa đến trường còn sử dụng
tiếng Tày. Cũng có sự khác biệt giữa các điểm nghiên cứu trên địa bàn của
huyện. Chẳng hạn như các xã ở vùng trong thuộc khu vực ATK Định Hóa thì
tỉ lệ người sử dụng tiếng Tày hàng ngày nhiều hơn so với người Tày sinh
sống ở khu vực gần trung tâm thành phố, thị trấn. Hay như có một điểm nhận
thấy khá rõ ràng ở việc sử dụng ngôn ngữ tộc người giữa thế hệ già và thế hệ
trẻ là có sự khác nhau. Người già không thành thạo tiếng phổ thông trong trao
88
đổi mọi vấn đề nên họ thường sử dụng tiếng nói của tộc người mình nhiều
hơn, trong khi đó người trẻ tuổi, đặc biệt là các em có độ tuổi từ học sinh phổ
thông trung học trở xuống lại thường sử dụng tiếng phổ thông (tiếng Kinh)
trong giao tiếp hàng ngày, nhiều em không nói được tiếng của dân tộc mình.
Mức độ sử dụng tiếng phổ thông ngày càng nhiều nhất là gia đình làm cán bộ,
công chức nhà nước, kinh doanh buôn bán và con trong độ tuổi đi học.
Kết quả khảo sát qua 100 phiếu điều tra bảng hỏi hộ gia đình người
Tày tại huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên cho thấy:
Bảng 3.1: Sử dụng ngôn ngữ hiện nay của người Tày
TT Ngôn ngữ giao tiếp hiện nay Tỉ lệ (%)
1 Biết nói tiếng phổ thông? 92,5
2 Biết viết chữ phổ thông? 86,4
Sử dụng và giao tiếp bằng ngôn ngữ Tày
1 Số người biết tiếng Tày hiện nay? 52,3
2 Tiếng Tày được sử dụng thường xuyên trong giao tiếp 26,1
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án.
Bảng 3.2: Sử dụng ngôn ngữ hiện nay của người Tày trong phạm vi
gia đình
TT Ngôn ngữ sử dụng Tỉ lệ (%)
1 Tiếng Tày 38,3
2 Tiếng phổ thông (tiếng Việt) 61,7
3 Tiếng dân tộc khác 0,0
Nguồn: Kết quả khảo sát của luận án.
Thông qua 2 bảng số liệu nêu trên cho thấy người Tày ở huyện Định
Hóa, tỉnh Thái Nguyên hiện nay cơ bản sử dụng tiếng phổ thông trong các
hoạt động thường ngày, chỉ có một số ít là người già hoặc ở thế hệ trung niên
sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Phần lớn trong môi trường gia đình, ở trong
cộng đồng, nơi công sở, trường học người Tày đã sử dụng tiếng phổ thông.
89
Điều này minh chứng cho việc hội nhập, đổi mới, quá trình giao lưu, tiếp biến
văn hóa đã tác động một cách sâu sắc và mạnh mẽ đến nhận thức của người
dân khiến họ thực hành ngôn ngữ phổ thông ngày một phổ biến. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy người Tày ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên hiện nay lại
sử dụng ở mức cao và tuyệt đối ngôn ngữ của dân tộc mình trong hoạt động
tín ngưỡng tôn giáo, thờ cúng tổ tiên, trong tang ma bởi họ cho rằng con
người có tổ có tông, việc sử dụng ngôn ngữ tộc người mình là nhằm thể
hiện niềm tôn kính đối với tổ tiên và tổ tiên sẽ không chấp nhận lễ cúng với
lời cúng thuộc ngôn ngữ khác. Và ngoài ra, hiện nay, nhiều người Tày ở
huyện Định Hóa, nhất là các bạn trẻ đi học tập ở các Trường Đại học, học
cấp 3 hoặc đi làm trong các công ti có môi trường sử dụng ngôn ngữ nước
ngoài thì nhiều người đã sử dụng khá thành thạo tiếng Anh, Pháp, Hàn,
Nhật được coi là ngôn ngữ để có thể hội nhập, phát triển. Một số gia
đình có con cái lấy vợ, lấy chồng là người dân tộc khác như người Thái,
người Dao, người Cao Lan thì trong môi trường gia đình có thể cùng lúc
sử dụng cả 3 - 4 ngôn ngữ.
Khi nói về sử dụng ngôn ngữ của người Tày, trong bài viết Một số vấn
đề nguyện vọng và nhu cầu về đời sống tinh thần của đồng bào Tày, Nùng ở
vùng Cao Bằng và Lạng Sơn, các tác giả La Công Ý, Nguyễn Văn Huy, Đỗ
Thúy Bình (1980) đã nhận xét: hiện tượng song ngữ Tày- Việt đã xuất hiện từ
lâu song trước đây không phổ biến. Quá trình tham gia cách mạng, chiến đấu,
sản xuất xây dựng và bảo vệ tổ quốc cùng với bộ đội và đồng vào Kinh đã tạo
môi trường để người Tày tiếp nhận và sử dụng tiếng Việt song hành với ngôn
ngữ của dân tộc mình (tr.33). Điều này cũng giúp phần lí giải hiện tượng sử
dụng đồng hành tiếng Tày và tiếng Việt trong cộng đồng người Tày ở huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Cho đến nay, với sự phát triển của kinh tế và
quá trình mở rộng giao lưu văn hóa, người Tày và người Kinh càng có điều
kiện tiếp xúc với nhau, hơn nữa học sinh được đến trường học tập bằng tiếng
phổ thông, do đó việc sử dụng thành thạo tiếng Việt là điều tất yếu. Việc sử
90
dụng tiếng Tày ở mức độ đến đâu, trong cuộc sống còn phụ thuộc vào bối
cảnh, mục đích và đối tượng giao tiếp.
Ông H.V.T, 62 tuổi, xóm Khau Điều, xã Định Biên, huyện Định Hóa
cho biết: Trong các gia đình người Tày, vợ chồng con cái thường hay nói
chuyện với nhau bằng tiếng phổ thông vì nó có lợi cho việc học tập của con
cái ở trường. Đối với những gia đình làm công chức nhà nước họ chủ yếu sử
dụng tiếng Kinh. Ở xóm Khau Điều người già thỉnh thoảng nói tiếng dân tộc,
nghe và giao tiếp tiếng phổ thông chừng mực thôi. Bọn trẻ nhỏ thì hầu như
không biết hết tiếng Tày. Tuy nhiên trong gia đình có nhiều thế hệ sinh sống,
nhất là có ông bà thì phần lớn vẫn sử dụng tiếng dân tộc hàng ngày. Nghiên
cứu của nhóm tác giả Vương Xuân Tình, Trần Hồng Hạnh năm 2014 đối với
người Tày ở thôn Còn Háng, xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn ở
người Tày cho thấy, 47,5% biết tiếng phổ thông tốt, 50% giao tiếp thông
thường, 2,5% nói được câu đơn giản và 97% người Tày ở thôn này cho rằng
hằng ngày họ vẫn sử dụng tiếng mẹ đẻ là chủ yếu, mặc dù trẻ em nói tiếng
phổ thông rất tốt song không quên tiếng mẹ đẻ.
Như vậy khi so sánh với người Tày ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái
Nguyên thì mức độ sử dụng tiếng mẹ đẻ trong cuộc sống hàng ngày có sự
khác nhau. Người Tày ở huyện Định Hóa sử dụng tiếng phổ thông là cơ bản.
Có thể một trong những nguyên nhân tạo nên sự khác biệt đó chính là địa vực
cư trú người Tày ở huyện Định Hóa thuộc vùng thấp, Thái Nguyên lại là tỉnh
gần với trung tâm Hà Nội, nơi có nhiều tộc người cùng sinh sống, có nhiều cơ
hội để học tập, làm việc và trao đổi thông tin điều đó khiến người Tày phải
thực hành ngôn ngữ phổ thông nhiều hơn. Khi tiến hành phỏng vấn sâu, thảo
luận nhóm với các thế hệ người Tày đang sinh sống và làm việc ở huyện Định
Hóa, chúng tôi nhận thấy, phần lớn ngôn ngữ phổ thông được sử dụng cho các
hoạt động làng xã, phổ biến kiến thức pháp luật, họp, buôn bán, viết thư hay
nhắn tin điện thoại, ngôn ngữ mẹ đẻ phần lớn sử dụng trong các hoạt động lễ
nghi của cộng đồng. Nhưng cũng phải nhấn mạnh rằng, dù có sử dụng ngôn
91
ngữ Tày trong thực hành nghi lễ của gia đình, cộng đồng, song đã có sự vay
mượn nhiều từ, ngữ của người Kinh sử dụng, nhất là các từ mang tính chất
hiện đại, chẳng hạn như nông thôn mới, khoa học công nghệ Việc thế hệ trẻ
người Tày không còn nói được nhiều tiếng Tày và đọc chữ Tày cũng là một
sự đáng tiếc, đó là một trong những nguy cơ làm mất đi nhiều giá trị di sản
văn hóa quý báu mà ông cha người Tày đã ghi chép từ ngàn đời để truyền lại
cho thế hệ con cháu.
Bảng 3.3: Sử dụng ngôn ngữ Tày trong các trường hợp
TT Sử dụng tiếng Tày Tỉ lệ (%)
1 Gia đình 42,4
2 Cúng bái 84,2
3 Giao tiếp 18,3
4 Các bài hát 6,9
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả luận án
Bảng 3.4: Sử dụng ngôn ngữ khi tham gia các lễ hội cộng đồng
TT Ngôn ngữ sử dụng Tỉ lệ (%)
1 Tiếng Tày 51,7
2 Tiếng phổ thông (tiếng Việt) 72,4
3 Tiếng dân tộc khác 10,6
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả luận án
Khi nghiên cứu về sử dụng ngôn ngữ giao tiếp hàng ngày của người
Tày tại tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, tác giả Nguyễn Thị Song Hà trong bài viết
Biến đổi văn hóa của các tộc người thiểu số ở hai tỉnh Hà Giang và Cao
Bằng từ đổi mới đến nay, đăng trong Kỷ yếu Hội nghị Dân tộc học Quốc gia
năm 2018, cũng cho thấy việc sử dụng song ngữ bao gồm tiếng mẹ đẻ và
tiếng phổ thông ở người Tày là một xu thế tất yếu hiện nay bởi nó vừa có giá
trị lưu giữ và bảo tồn văn hóa lại vừa là điều kiện và cơ hội để cộng đồng tộc
người hội nhập với xã hội, nắm bắt chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước. So sánh với người Tày ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, NCS
92
cũng thấy rằng người Tày dù ở Hà Giang, Cao Bằng, Thái Nguyên hay Lạng
Sơn thì trong những trường hợp và hoàn cảnh cụ thể, người ta vẫn sử dụng
song song cả ngôn ngữ mẹ đẻ và tiếng phổ thông; Tuy nhiên, mức độ sử dụng
có khác nhau ở từng khu vực, từng tỉnh, thậm chí trong huyện Định Hóa, mức
độ sử dụng hai thứ ngôn ngữ này cũng có sự khác nhau nhất định giữa các xã,
giữa các gia đình.
Có thể nói, nếu trong sinh hoạt hàng ngày, con người thường không để
ý nhiều đến việc nói tiếng gì, ngôn ngữ nào bởi giao tiếp bằng lời là một trong
những phản xạ tự nhiên của con người trong các mối quan hệ xã hội [91] thì
việc sử dụng ngôn ngữ dân tộc lại được cộng đồng người Tày chú ý và có ý
thức hơn bởi theo đồng bào Tày ngôn ngữ không chỉ là phương tiện để giao
tiếp giữa con người với con người mà còn là phương tiện để người sống giao
tiếp với thế giới thần linh, tổ tiên.
Bảng 3.5: Sử dụng ngôn ngữ trong thực hành nghi lễ thờ cúng
TT Ngôn ngữ sử dụng Tỉ lệ (%)
1 Tiếng Tày 67,0
2 Tiếng phổ thông (tiếng Việt) 23,0
3 Pha trộn giữa tiếng Tày và tiếng Việt 10,0
4 Tiếng dân tộc khác 0
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả luận án
Thông qua Bảng 3.5 cho thấy, mặc dù ngôn ngữ của người Tày có nhiều
biến đổi, song trong giao tiếp với thế giới thần linh, tổ tiên người Tày ở huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên vẫn cơ bản sử dụng tiếng Tày bởi những người
tham gia nghi lễ cúng thường là người già, người lớn tuổi trong gia đình. Trong
khi đó có 23% chỉ sử dụng tiếng Việt trong các nghi lễ thờ cúng và thường là
trong các gia đình trẻ, đối với các gia đình kết hôn giữa người Tày - người Kinh
đôi khi học sử dụng kết hợp cả tiếng Tày và tiếng Việt để cúng lễ (10%).
Như vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
đang diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, dễ dàng nhận thấy xu hướng quan trọng
93
trong sử dụng ngôn ngữ của người Tày ở huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên
nói riêng và người Tày nói chung ở môi trường gia đình và cộng đồng các tộc
người là song ngữ (tiếng phổ thông và tiếng Tày). Trong thực tế, khi sử dụng
ngôn ngữ lại có 2 mức độ. Mức độ thứ nhất là ngôn ngữ dân tộc mình, có vay
mượn từ của ngôn ngữ phổ thông để diễn giải những gì mà bản ngữ không
thực hiện được, mức độ thứ hai là sử dụng hẳn tiếng phổ thông để trao đổi.
Trong nhiều năm trở lại đây, Đảng và Nhà nước cũng đã có những chủ
trương, chính sách cụ thể nhằm bảo tồn và phát huy ngôn ngữ của tộc người
thiểu số, nhận thức được vị trí của ngôn ngữ mẹ đẻ trong đời sống cũng như
trong viêc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, dưới sự quan tâm,
chỉ đạo, định hướng của các cấp, các ngành địa phương, nhiều gia đình người
Tày ở huyện Định Hóa đã có ý thức hơn trong việc sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ
trong môi trường gia đình và cộng đồng, một số câu lạc bộ được thành lập để
duy trì và truyền dạy các làn điệu dân ca, dân vũ truyền thống đã phát huy vai
trò trong việc động viên, khuyến khích thế hệ trẻ học nói, học viết và hát
những bài hát bằng tiếng dân tộc. Với vai trò là một người công tác trong
ngành văn hóa, NCS cho rằng, trong bối cảnh hiện nay, việc động viên, khích
lệ và truyền dạy tiếng nói, chữ viết của người Tày cho các thế hệ trẻ, giáo dục
cho các em về ý thức cội nguồn, tự hào về văn hóa của dân tộc mình để các
em có ý thức lưu giữ, thực hành và phát huy ngôn ngữ, tiếng nói, chữ viết
trong môi trường cộng đồng người Tày là rất cần thiết bởi qua đó các giá trị
văn hóa của cộng được mới được gìn giữ và phát huy.
3.2. LỄ HỘI
Đối với đồng bào các dân tộc thiểu số, lễ hội hàng năm diễn ra khá đa
dạng, mỗi dân tộc lại có những lễ hội riêng, trong các lễ hội thường chứa
đựng trong đó cả phần nghi lễ và cả phần hội. Các lễ hội - nghi lễ cộng đồng
tiêu biểu của các dân tộc tuy đều có yếu tố tín ngưỡng - tôn giáo truyền thống
với mức độ đậm nhạt khác nhau, song nếu dựa vào tính chất của chúng thì có
thể phân chia các loại hình như: lễ hội - nghi lễ liên quan đến nghề nghiệp; lễ
94
hội - nghi lễ thờ cúng tổ tiên và người có công; lễ hội - nghi lễ cầu an, cầu phúc,
cầu tự Lễ hội - nghi lễ gắn với các hình thức thờ cúng tín ngưỡng dân gian.
Người Tày ở Việt Nam nói chung, người Tày ở huyện Định Hóa tỉnh
Thái Nguyên nói riêng có nhiều lễ hội diễn ra hàng năm khá phong phú với
nhiều giá trị văn hóa và tuân thủ theo phong tục, tập quán của dân tộc, trong
lễ hội nhiều loại hình văn hóa, nghệ thuât dân gian, dân ca, dân vũ, ca dao, trò
chơi được đồng bào Tày thực hành.
Theo lời kể của người già trong thôn bản, trong một năm người Tày ở
huyện Định Hóa tổ chức cả chục cái tết theo thứ tự thời gian diễn ra trong
năm như: Tết Cổ truyền, Tết Nguyên tiêu (Rằm tháng giêng), Tết Đắp Nọi (ăn
Tết lại), Tết Hàn thực (Tết Thanh minh), Tết So ngọ (Tết Đoan ngọ), tết gọi
hồn thu vía cho trâu bò, tết ngày rằm tháng 7, tết cơm mới, tết trùng cửu, tết
đông chí Người Tày có nhiều lễ hội dân gian, tiêu biểu là lễ hội Lồng tồng -
đây là một lễ hội lớn và phổ biến, mang tính chất cầu mùa và diễn ra hàng
năm trong đời sống của người Tày với quy mô tổ chức theo bản hoặc theo
vùng. Nhìn chung, Lễ Tết và Lễ hội của người Tày nơi đây gắn liền với tín
ngưỡng của cư dân nông nghiệp lúa nước, gắn chặt với mùa vụ và mang đậm
sắc thái tín ngưỡng dân gian.
Tuy nhiên kể từ khi Đổi mới đất nước đến nay, dưới sự tác động của
nhiều yếu tố chủ quan và khách quan đã có nhiều lễ hội, đặc biệt là các nghi
lễ được thực hiện trong lễ hội cả người Tày đã có thay đổi, thậm chí có những
lễ hội không chỉ còn ở phạm vi của dân tộc trong cộng đồng thôn bản mà nó
đã có sự lan tỏa đến các dân tộc khác trong cùng địa phương tham dự bởi lễ
hội là một nhu cầu sinh hoạt không thể thiếu của bất cứ cộng đồng dân tộc
nào ở nước ta, trong đó có người Tày.
Tết Nguyên đán (kin chiêng hay nèn chiêng) là cái tết lớn nhất mở đầu
cho một năm mới của người Tày. Tết Nguyên đán của người Tày cũng trùng
với tết Nguyên Đán của người Kinh, họ bắt đầu ăn tết từ ngày 28 tháng chạp
âm lịch với ý nghĩa kết thúc một chu kỳ sản xuất và mở đầu cho một chu kỳ
95
mới, đồng thời đây cũng là dịp sum họp, đoàn tụ gia đình, để cho mọi người
cùng nhau hướng về cội nguồn, tưởng nhớ đến tổ tiên, ông bà và những người
thân đã khuất. Bước sang ngày 29 người Tày bắt đầu làm thịt lợn và chế biến
ra những món ăn như: giò, chả, thịt luộc, thịt nướng và lạp sườn Nếu ngày
này ai đó có dịp đến với vùng cao sẽ thấy nhà nào cũng treo những dây lạp
sườn trong bếp trông thật hấp dẫn. Đến ngày 30 tết thì người Tày cất tất cả
những đồ dùng trong nhà như: Dao, dựa, cày, bừa vào một nơi rồi làm lễ cúng
để cho chúng nghi ngơi ăn Tết, vì theo đồng bào nơi đây những vật dụng đó
đã gắn bó và theo người dân suốt một năm lao động vất vả nên chúng cũng
phải được nghỉ ngơi đón tết. Trong các nghi thức ngày Tết, cúng gia tiên
chiều tối 30 và sáng mùng 1 là nghi thức quan trọng nhất của người Tày. Với
người Tày, Tết là những ngày bận rộn nhất và có ý nghĩa thiêng liêng. Với
quan niệm ngày Tết là để sum vầy, là để con cháu nhớ ơn ông bà tổ tiên, là để
cầu mong năm mới đầy đủ, sung túc, mọi thành viên trong gia đình khỏe
mạnh, may mắn, trong mỗi gia đình người Tày thường chuẩn bị những sản vật
đặc trưng của dân tộc để dâng lên bàn thờ, Trong mâm cơm ngày tết để
cúng lễ gia tiên của người Tày ở Định Hóa không thể thiếu xôi nếp nương,
bánh chưng dài, con gà, rượu men lá, bánh khảo, bánh gio.
Theo phong tục, tập quán của người Tày thì thời khắc giao thừa đến,
khi con gà trống cất tiếng gáy đầu tiên, mỗi gia đình cử một thành viên mang
dụng cụ là ống tre đến mỏ nước hoặc giếng nước để lấy nước mang về nhà đặt
lên bàn thờ. Người đến mỏ nước sớm nhất sẽ được ban phát nhiều tài lộc, gặp
nhiều may mắn trong năm. Ống nước được đặt lên bàn thờ để báo cáo tổ tiên
phù hộ cho mưa thuận gió hòa, làm ăn thuận lợi. Năm mới đến, các gia đình
tổ chức thành từng nhóm đến xông nhà nhau. Khi đến nhà của hàng xóm, mọi
người chúc gia chủ những điều tốt đẹp nhất về sức khỏe và gia đình gặp nhiều
may mắn. Khi đoàn chúc tết đến gia đình nào cũng được chủ nhà mời vào
mâm cơm hay uống một chút rượu. Tuy nhiên, do quan niệm, người đến nhà
đầu tiên trong năm mới là đàn ông thì gia đình họ sẽ gặp nhiều may mắn và
96
nhiều tài lộc nên đoàn chúc tết thường để đàn ông xông nhà. Đồng thời, ngày
mùng Một, đa phần phụ nữ ở nhà lo cơm nước và tiếp khách. Mùng Hai, mọi
thành viên trong gia đình đều háo hức đi chúc Tết bên ngoại, có nghĩa đến
cảm ơn đối với người đã sinh thành, dạy dỗ vợ của mình được như ngày hôm
nay. Sang thăm ngoại, từ sáng sớm mọi người chuẩn bị gà, bánh chưng, bánh
khảo, bỏng (khẩu sli)... để thắp hương lên bàn thờ tổ tiên. Nhà ngoại đón tiếp
con rể chu đáo và làm cơm mời anh em trong dòng họ đến cùng tham dự, tạo
không khí ấm cúng trong gia đình. Khi con cháu về, bên ngoại sẽ mừng tuổi
cho các cháu bằng những đồng tiền được gói trong tờ giấy đỏ, mang ý nghĩa
ban phát tài lộc cho con cháu. Đây là những nét văn hóa mang đậm tính nhân
văn sâu sắc của những cư dân nông nghiệp, trong đó có nhiều giá trị văn hóa
đặc trưng riêng của người Tày, có ý nghĩa giáo dục các thế hệ con cháu người
Tày luôn sống có nghĩa tình, luôn biết ơn thế hệ đi trước, gìn giữ tính cố kết
trong gia đình và cộng đồng.
Tết đến, xuân về cũng là dịp để trai, gái trong bản người Tày rủ nhau
xuống chợ mua sắm cho mình những bộ quần áo mới nhất để đi chơi xuân,
tình tứ hẹn hò. Ngày tết cũng là cơ hội để cho cả người già, trẻ em, thanh niên
nam nữ trong bản, trong vùng kéo nhau đi xem các lễ hội vui xuân như: Tung
còn, múa xòe và trao cho nhau những điệu hát Sli, hát lượn thật hay thật tình
tứ. Tuy nhiên hiện nay, ngày Tết Nguyên đán của người Tày đã có nhiều ảnh
hưởng của văn hóa người Kinh và cũng chịu sự chi phối của điều kiện kinh tế
thị trường. Ngày nay, mặc dù người Tày ở huyện Định Hóa vẫn thực hiện
việc đón Tết theo phong tục, tập quán của dân tộc, nhưng cũng đã có một số
thay đổi như việc quan niệm các gia đình đúng gà gáy sáng đi lấy nước đã
không còn là nghi thức bắt buộc thực hiện. Việc mỗi buổi sáng, các con, các
cháu trong gia đình dậy sớm, mặc trang phục truyền thống, chuẩn bị những
món quà nhỏ như bánh khảo để chúc sức khỏe ông bà, bố mẹ, những người
già trong dòng họ không phải gia đình người Tày nào ở huyện Định Hóa thực
hành, nhất là ở khu vực sát thị tứ, thị trấn. Hoặc nếu có thực hiện thì không
97
còn tuân thủ theo các quy định, nguyên tắc của người Tày xưa. Ở những gia
đình có người già thì vẫn còn thực hành, song ở những gia đình trẻ đã nghi
thức này đã bị bỏ qua. Trên bàn thờ tổ tiên ngày Tết, không chỉ có các lễ vật
truyền thống mà còn có các các loại bánh gói đóng hộp, rượu đóng chai, hoa
quả nhập khẩu
Việc mừng tuổi cho người già, trẻ nhỏ vẫn được thực hiện nhưng người
ta không còn sử dụng các giấy màu truyền thống mà thay vào đó là những
phong bao lì xì được bày bán trên thị trường. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân có ảnh hưởng đến sự cố kết, kết nối thành viên trong gia đình trở
nên thiếu bền chặt, cũng là nguyên nhân khiến thế hệ trẻ trong mỗi gia đình
người Tày không biết hoặc không mặn mà đến nhiều giá trị văn hóa của cộng
đồng tộc người đã được biết bao nhiêu thế hệ người Tày xây dựng, vun đắp,
trao truyền qua nhiều thế hệ. Hiện tượng này không chỉ xảy ra ở dân tộc Tày
huyện Định Hóa mà diễn ra ở nhiều cộng đồng tộc người khác ở Việt Nam
hiện nay, nhất là trong bối cảnh hội nhập, giao thoa văn hóa và kinh tế thị
trường đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội.
Bảng 3.6: Mức độ thực hành tín ngưỡng truyền thống của dân tộc Tày
TT Tín ngưỡng truyền thống Tỉ lệ (%)
1 Thường xuyên 72,3
2 Không thường xuyên 27,7
Nguồn: Kết quả khảo sát của tác giả luận án
Lễ hội Lồng Tồng là một ngày hội lớn của dân tộc Tày, Nùng trong cả
nước, đây là ngày hội xuống đồng, mang tính chất cầu mùa của người Tày,
Nùng. Mục đích chính của lễ hội là dâng lễ vật lên thần bản và thần nông để
cầu an cho dân làng, cầu mong mùa màng bội thu, người an, vật thịnh. Trong
truyền thống, theo quy định của đồng bào Tày, lễ hội Lồng tồng được tổ chức
vào một ngày trong năm, khoảng thời gian từ tháng giêng đến đầu tháng tư
âm lịch, tùy theo từng vùng người Tày sinh sống và cư trú. Ngoài ý nghĩa cầu
an, cầu mùa thì lễ hội Lồng Tồng còn có ý nghĩa khơi dậy nét truyền thống
98
văn hóa tốt đẹp của người Tày, như tinh thần đoàn kết trong đấu tranh bảo vệ
Tổ quốc, đoàn kết trong xây dựng quê hương, đất nước và hiện nay là phong
trào giúp đỡ nhau xóa đói giảm nghèo, xây dựng làng, bản, xóm, phố văn hóa
của đồng bào các dân tộc Cũng giống như các lễ hội dân gian khác, lễ hội
Lồng Tồng của người Tày gồm 2 phần là phần lễ và phần hội. Ở phần lễ,
ngoài mâm lễ chung của cả cộng đồng còn có mâm lễ riêng của từng gia đình
trong bản, chủ trì nghi lễ là thầy mo h