MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN. 3
MỤC LỤC. 5
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT. 8
DANH MỤC CÁC BẢNG. 9
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ. 11
MỞ ĐẦU. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài.1
2. Mục đích nghiên cứu .2
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu.2
4. Giả thuyết khoa học.3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu .3
6. Phạm vi nghiên cứu .3
7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .4
8. Những luận điểm bảo vệ.6
9. Những đóng góp mới của luận án .7
10. Cấu trúc của luận án .7
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG ỨNG DỤNG CÔNG
NGHỆ THÔNG TIN TRONG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC CHO GIÁO
VIÊN MẦM NON.9
1.1. Tổng quan nghiên cứu vấn đề .9
1.2. Một số khái niệm công cụ .15
1.3. Ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức hoạt động giáo dục cho trẻ mẫu giáo
.20
1.4. Kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức hoạt động giáo dục trẻ mẫu
giáo .33
1.5. Bồi dưỡng giáo viên mầm non về kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ
chức hoạt động giáo dục trẻ mẫu giáo.40
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1. 57
Chương 2. THỰC TRẠNG BỒI DƯỠNG KỸ NĂNG ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
THÔNG TIN TRONG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC CHO GIÁO VIÊN
MẦM NON.582.1. Tổ chức khảo sát.58
2.2. Kết quả khảo sát .60
2.2.1. Thực trạng kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức hoạt động giáo
dục của giáo viên mầm non .60
2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng.82
2.2.3. Thực trạng bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức hoạt
động giáo dục cho giáo viên mầm non.87
2.2.4. Nhu cầu của giáo viên mầm non về bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ
thông tin trong tổ chức hoạt động giáo dục cho trẻ mẫu giáo .99
204 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 555 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin trong tổ chức hoạt động giáo dục cho giáo viên mầm non, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỗi kết nối), cuối cùng là 529
GVMN (72.80%) cho biết có thể tự chuẩn bị và điều khiển thiết bị, xử lý các sự cố đơn
giản như lỏng cáp, lệch màn hình, lỗi kết nối nhưng chưa chuẩn bị sẵn phương án dự
phòng. Nếu trong quá trình dạy có những sự cố như cúp điện, GV hơi lúng túng vì không
chuẩn bị sẵn phương án dự phòng hoặc có chuẩn bị nhưng còn bối rối, phân vân không biết
có nên chuyển hướng hoạt động hay chờ đợi khắc phục sự cố.
Ngoài các vấn đề về kỹ thuật, GVMN còn đưa ra các phương án triển khai hoạt động
có ứng dụng CNTT chưa hiệu quả. Điều này thể hiện rõ ở câu hỏi 3.20: “Với trò chơi “Tìm
bóng của con vật”, cách tiến hành nào sau đây hiệu quả nhất?”, đa số GV chọn đáp “GV
chỉ vào bóng con vật và hỏi “Đây là bóng của con vật nào?”, trẻ đứng tại chỗ trả lời tên
con vật, nếu trẻ đáp đúng thì GV bấm vào hình con vật, con vật sẽ di chuyển về cái bóng.”,
cách tiến hành này không sai phương pháp sư phạm nhưng không sinh động, trẻ không
79
được vận động hay tương tác với nhau. Với phương án “GV chỉ vào bóng con vật và hỏi
“Đây là bóng của con vật nào?”, mỗi nhóm có một rổ thẻ hình con vật, nhóm bàn bạc tìm
câu trả lời. Sau đó một trẻ đại diện cầm con vật được nhóm chọn lên” sẽ có vài trẻ không
được tham gia, GV phải chuẩn bị thêm học cụ. Tương tự, với cách “GV chỉ vào bóng con
vật và hỏi “Đây là bóng của con vật nào?”, mỗi nhóm được phát tờ giấy in hình như trên
màn hình. Trẻ sẽ bàn bạc và dùng bút nối bóng với con vật” GV cũng phải in thêm học cụ,
tốn kém không cần thiết. Còn hai cách sau sẽ đảm bảo cơ hội tương tác của trẻ, trẻ nào
cũng được tham gia. GV cũng không cần chuẩn bị thêm phương tiện khác (hạn chế chi phí
và không bị phân tâm do phải bố trí nhiều học liệu, học cụ...): “GV chỉ vào bóng con vật
và hỏi “Đây là bóng của con vật nào?”, trẻ bàn bạc và hát bài hát hoặc đọc câu thơ có tên
con vật” Hoặc “GV chỉ vào bóng con vật và hỏi “Đây là bóng của con vật nào?”, mỗi nhóm
bàn bạc với nhau, hết giờ suy nghĩ, trẻ trả lời bằng cách mô phỏng hình dáng con vật.”
Kết quả này tương đồng với kết quả quan sát hoạt động của GVMN khi tổ chức giờ
học có ứng dụng CNTT. Hầu hết cách thức triển khai của GV là cho trẻ ngồi xem phim
ảnh và đàm thoại. Các trò chơi chủ yếu tương tác cá nhân (vài trẻ giơ tay lên trả lời hoặc
chạy lên bấm chọn câu trả lời), các trò chơi chỉ có một lượt chơi và chưa tạo được bầu
không khí sôi động, phấn khích cho trẻ, trẻ ít được vận động thể chất. Một số ít GV có cho
trẻ kết hợp bài tập với thẻ hình hoặc học cụ, sau đó so sánh kết quả trên màn hình. Tuy
nhiên cách thiết kế các hoạt động này lại chưa làm nổi bật được vai trò của phương tiện
CNTT. Nói cách khác, các nội dung được lựa chọn nếu không tiến hành với CNTT vẫn đạt
hiệu quả cao lại không phải chuẩn bị máy móc.
Việc lựa chọn cách thức chưa tối ưu có thể xuất phát từ những lí do sau: thiếu ý
tưởng, chưa nắm rõ yêu cầu của một giờ học có ứng dụng CNTT, chỉ hiểu biết sơ về thiết
kế hoạt động có ứng dụng CNTT nên quá trình thiết kế không hình dung khi tiến hành sẽ
như thế nào. Do đó, không kết nối để điều chỉnh hoạt động phù hợp với ý tưởng triển khai
trên lớp. Bên cạnh đó, khi thực hiện giờ hoạt động cũng không dự trù trước hướng tổ chức
hoạt động của trẻ nên thường theo thói quen, lối mòn như vừa nêu. Để cải thiện kỹ năng
này, mở rộng ý tưởng và giúp GVMN kết nối giữa ý tưởng với thiết kế cũng như triển khai
HĐGD có ứng dụng CNTT là cần thiết.
80
Mức điểm trung bình của kỹ năng triển khai HĐGD có ứng dụng CNTT là 2.45 điểm
(Độ lệch chuẩn: 1.5636; Sai số chuẩn: 0.05799; Thấp nhất: 1.03; Cao nhất: 4.04), đạt mức
độ 3 (Làm chính xác). Như vậy, kỹ năng ứng dụng CNTT của GVMN đạt ở mức độ cơ
bản, tức có thể độc lập thực hiện được những kỹ năng thành phần như khai thác thông tin
số, thiết kế và tổ chức HĐGD, ngoại trừ kỹ năng soạn giáo án và lập kế hoạch thì đạt mức
độ cao hơn, thành thục hơn. Tuy vậy, ngay cả với việc soạn thảo văn bản quen thuộc nhiều
GV vẫn chưa nắm được nhiều kỹ thuật cũng như quy ước về đánh máy, dàn trang Các
thao tác thiết kế bằng phần mềm đơn giản cũng như hiểu biết của đa số khách thể khảo sát
về ứng dụng CNTT trong tổ chức HĐGD vẫn cần được bồi dưỡng thêm về cả nhận thức
lẫn kỹ năng thực hành. Không có sự khác biệt ý nghĩa giữa các quận, huyện, một vài quận,
huyện xa trung tâm lại có xu hướng ứng dụng CNTT tốt hơn do trường quan tâm bồi dưỡng
nhiều hơn các khu vực khác (Nhà Bè, quận 8, quận 11). Một số quận trung tâm lại không
có sự vượt trội so với các quận còn lại. So sánh với kết quả khảo sát một số tỉnh thành khác
cũng cho thấy có sự tương đồng là kỹ năng soạn giáo án và lập kế hoạch đạt mức độ cao
hơn các kỹ năng còn lại ở mức độ 3 (Làm chính xác), các kỹ năng còn lại ở mức độ 2 (Làm
được) và mức độ 1 (Bắt chước).
Bảng 2.4. Điểm trung bình của nhóm GVMN tại Tp. Hồ Chí Minh và GVMN tại các
tỉnh thành khác.
T
T
Nội dung
Tp. Hồ Chí Minh Các tỉnh thành khác
Khai
thác
thông
tin số
Lập kế
hoạch,
soạn
giáo án
Thiết
kế
HĐGD
Triển
khai
HĐGD
Khai
thác
thông
tin số
Lập kế
hoạch,
soạn
giáo án
Thiết
kế
HĐGD
Triển
khai
HĐGD
1
Điểm trung
bình
2.55 3.38 2.10 2.45 1.07 2.77 1.82 1.75
2
Độ lệch
chuẩn
1.80 2.03 1.18 1.56 0.04 0.07 0.03 0.03
3 Sai số chuẩn 0.07 0.075 0.04 0.05 0.50 1.10 0.36 0.39
4 Thấp nhất 1.00 1.00 1.00 1.03 1.00 1.00 1.00 1.00
5 Cao nhất 4.50 5.00 4.50 4.04 2.50 5.00 2.50 2.50
Bảng 2.4 cho thấy mức điểm trung bình của GVMN ở các tỉnh thành khác thấp hơn
so với điểm trung bình của GVMN ở Tp. Hồ Chí Minh (trong khoảng 0.7 - 1.5). Điều này
hoàn toàn hợp lý, vì trừ Hà Nội, ở các tỉnh thành còn lại CNTT chưa phát triển bằng. Đồng
81
thời điều kiện cơ sở vật chất cũng còn nhiều thiếu thốn nên GVMN ít cơ hội tiếp cận dẫn
đến có sự chênh lệch là tất yếu. Minh chứng cho điều này thể hiện qua mức điểm cao nhất
của kỹ năng soạn giáo án, lập kế hoạch của GVMN ở các tỉnh bằng với Tp. Hồ Chí Minh
vì đây là hoạt động GV thực hành thường xuyên trong quá trình làm việc.
Biểu đồ 2.3. Điểm trung bình của nhóm GVMN tại Tp. Hồ Chí Minh và GVMN tại các
tỉnh thành khác
Biểu đồ 2.3. cho thấy chỉ có điểm kỹ năng khai thác thông tin số chênh lệch nhiều,
còn các cặp điểm còn lại chỉ chênh nhau 0.7 - 0.3 điểm, một khoảng không quá lớn. Điều
này cho thấy nhu cầu trao đổi và thói quen tìm kiếm thông tin trên mạng Internet của
GVMN ở các tỉnh khác có thể chưa cao nên không có điều kiện rèn luyện nhưng cũng
không loại trừ khả năng GV vẫn sử dụng nhiều nhưng do không được hướng dẫn nên cách
thức thực hiện chưa đúng. Ở kỹ năng thiết kế HĐGD, khoảng cách là 0.3 điểm, cho thấy
GV ở các tỉnh vẫn có thể thực hiện được nội dung này gần như GV tại Tp. Hồ Chí Minh,
chỉ có việc tổ chức trên lớp có thể chưa tiến hành nhiều do không đủ trang thiết bị dẫn tới
ý tưởng cũng như kỹ thuật tổ chức chưa tốt. Tuy nhiên, nếu có điều kiện tương tự Tp. Hồ
Chí Minh, sự cách biệt trên hoàn toàn có thể được rút ngắn lại vì mỗi GV đều có kỹ năng
sử dụng phần mềm máy tính ở mức cơ bản, đúng theo Chuẩn nghề nghiệp quy định. Hơn
nữa, do tỉ lệ không nhiều nên số liệu này cũng chỉ mang tính tham khảo tương đối. Muốn
có sự so sánh chính xác hơn, cần tiến hành đánh giá trên diện rộng hơn.
2.55
3.38
2.1
2.45
1.04
2.77
1.82 1.75
Khai thác thông tin số Soạn giáo án, lập kế
hoạch
Thiết kế HĐGD Triển khai hoạt động
Tp.HCM Các tỉnh thành khác
82
2.2.2. Nguyên nhân của thực trạng
Có nhiều nguyên nhân tác động tới thực trạng vừa phân tích. Ở góc độ tự đánh giá
của GVMN, những nguyên nhân khiến kỹ năng ứng dụng CNTT trong tổ chức HĐGD của
GV còn nhiều hạn chế được xác định bao gồm:
Bảng 2.5. Nguyên nhân của thực trạng
TT Nguyên nhân Số lượng Tỉ lệ %
1 Bản thân thấy không cần thiết 56 7.70
2 Thiếu thiết bị 262 36.00
3 Thiếu cơ sở dữ liệu điện tử 441 60.70
4 Kỹ năng sử dụng phần mềm hạn chế 462 63.50
5 Thiếu thông tin, kiến thức liên quan 526 72.40
6 Áp lực công việc 625 86.00
7 Gặp khó khăn trong việc liên kết ý tưởng và kỹ thuật thiết kế 647 89.00
8 Thiếu ý tưởng 671 92.30
Bảng 2.5 cho thấy “thiếu ý tưởng” là nguyên nhân được lựa chọn nhiều nhất với tỉ
lệ là 92.30%, tiếp theo đó là các nguyên nhân “gặp khó khăn trong việc liên kết ý tưởng
với kỹ thuật thiết kế” chiếm 89.00%, “áp lực công việc” chiếm 86.00%, “thiếu thông tin,
kiến thức liên quan” chiếm 72.40%, “kỹ năng sử dụng phần mềm hạn chế” chiếm 63.60%,
“thiếu cơ sở dữ liệu điện tử” chiếm 60.70%, “thiếu thiết bị” chiếm 36.00% và do GV “thấy
không cần thiết” chiếm 7.70%. Như vậy, nguyên nhân lớn nhất liên quan tới vấn đề ý
tưởng, bao gồm “thiếu ý tưởng thiết kế” và “gặp khó khăn trong việc liên tưởng ý tưởng
với kỹ thuật thiết kế”.
GV thiếu ý tưởng thiết kế do chưa được tiếp cận nhiều với các giờ hoạt động có
ứng dụng CNTT cũng như bài trình chiếu đa phương tiện. Khi tham dự chuyên đề hay
chương trình tập huấn, người hướng dẫn chủ yếu trình bày kỹ thuật thực hiện và sản phẩm
của kỹ thuật đó, ít khi giới thiệu các hình thức vận dụng khác. Hơn nữa, nếu người hướng
dẫn có cung cấp ví dụ thì đa số các ví dụ phù hợp với đối tượng người học đã biết đọc chữ
và biết tính toán, không phù hợp với đặc điểm tư duy của trẻ mẫu giáo. GV thiếu ý tưởng
sẽ cản trở động cơ cũng như hiệu quả ứng dụng CNTT trong tổ chức HĐGD.
83
Tuy nhiên, vẫn có nhiều GVMN có nhiều ý tưởng nhưng không biết cách chuyển
tải những ý tưởng này lên các bài trình chiếu như thế nào, nghĩa là “gặp khó khăn trong
việc liên kết ý tưởng với kỹ thuật thiết kế”. Việc thể hiện ý tưởng bằng các phần mềm máy
tính thực sự không dễ dàng và đơn giản nếu GV chưa hiểu rõ các kỹ thuật lẫn thủ thuật của
một ứng dụng hay phần mềm nào đó. Đồng thời chương trình tin học tại các trung tâm lẫn
trong chương trình đào tạo cũng không thực hiện nội dung này. Ngoài ra, rất ít GVMN có
thể tự nghiên cứu để học được mọi chức năng của ứng dụng. Đây thật sự là một nguyên
nhân tác động đến kỹ năng ứng dụng CNTT trong tổ chức HĐGD của GVMN.
Nguyên nhân “áp lực công việc” cũng được nhiều GVMN lựa chọn vì lượng công
việc GV phải thực hiện rất nhiều khiến GV không còn nhiều thời gian để đầu tư cho những
hoạt động khác, kể cả việc thư giãn, giải trí. Vì vậy, GVMN dễ rơi vào tình trạng căng
thẳng, mất hứng thú hoặc giảm khả năng tiếp thu do quá mệt mỏi trong việc tìm tòi, học
hỏi về chuyên môn. Song song đó, đa số GV lại có tâm lý e ngại với CNTT, đặc biệt là GV
lớn tuổi như các nghiên cứu cũng như kết quả thực trạng đã nêu nên tình trạng căng thẳng
có thể tăng lên khiến họ cảm thấy áp lực hơn, né tránh tiếp cận nhiều hơn. Cô N.T.T.V -
Hiệu phó trường mầm non tại quận 10 cũng cho biết lí do tương tự khi đánh giá về mức độ
kỹ năng của đội ngũ GV tại trường: “Một vài GV có kỹ năng ứng dụng CNTT, có thể thiết
kế và tổ chức hoạt động ứng dụng CNTT; tuy nhiên, đa số GVMN sử dụng hoặc cải biên
các bài tập, trò chơi trên mạng Internet có sẵn, do phần lớn thời gian của GVMN dành
cho việc tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ, tham gia các hoạt động bồi dưỡng
và tổ chức các chuyên đề chuyên môn hằng năm của Sở - Quận - Trường, các hội thi, hoạt
động kiểm tra - đánh giá và rất nhiều công việc ngoài chuyên môn của GV nên ít có thời
gian cho việc suy nghĩ, sáng tạo hoạt động có ứng dụng CNTT trong các hoạt động tổ chức
cho trẻ. Một vài GV lớn tuổi còn gặp khó khăn khi thiết kế các bài tập, trò chơi bằng
Powerpoint”.
“Thiếu thông tin, kiến thức liên quan” cũng là nguyên nhân có tỉ lệ lựa chọn trên
50.00%. Kết quả phỏng vấn cho biết tuy việc ứng dụng CNTT trong GDMN đã được triển
khai từ năm 2009 nhưng thông tin, kiến thức GVMN được cung cấp về ứng dụng CNTT
còn mang tính rời rạc, chủ yếu hướng dẫn sử dụng thiết bị - phần mềm hoặc cách thức thiết
kế bài trình chiếu đa phương tiện, thiếu các nội dung về nguyên tắc, hình thức, biện pháp,
84
tiêu chí đánh giá của việc ứng dụng CNTT trong GDMN nói chung, tổ chức HĐGD cho
trẻ nói riêng. Điều này dẫn đến một số hạn chế được phản ánh trong thực trạng: lựa chọn
dữ liệu điện tử chưa phù hợp, cấu trúc bài dạy chưa khoa học, lựa chọn mục đích, nội dung,
hình thức thể hiện bài dạy chưa phù hợp nên giảm hiệu quả Do đó, chỉ có những GV
hứng thú, tích cực tự tìm hiểu trên cơ sở được đào tạo về CNTT mới thường xuyên ứng
dụng CNTT trong công tác chuyên môn và khá hiệu quả. Cô N.T.T.T - Hiệu phó trường
mầm non tại Hóc Môn cũng cho biết lí do tương tự khi đánh giá về mức độ kỹ năng đội
ngũ GV tại trường: “Việc ứng dụng CNTT trong dạy học mầm non tại đơn vị còn ít, chỉ
một vài GV thực hiện được. Đa số GV thường sử dụng phương pháp dạy học truyền thống.
Lý do các GV không nắm vững kiến thức và kỹ năng chuẩn bị bài trình chiếu đa phương
tiện, ngại tìm hiểu và không chú trọng thời gian để chuẩn bị giáo án và trò chơi có ứng
dụng CNTT”. Một nhận định khác cũng có lí do tương tự: “Kiến thức về CNTT của nhiều
GVMN còn hạn chế, đặc biệt là những GV đã có tuổi đời hoạt động cao, ngại thay đổi và
gặp khó khăn trong việc học cái mới” (cô D.T.D.C - Hiệu phó trường mầm non tại quận
6).
Tuy phải trải qua hai khóa học về tin học (cơ bản và ứng dụng trong dạy học) nhưng
vì nhiều yếu tố khách quan lẫn chủ quan khiến cho kỹ năng sử dụng phần mềm của GVMN
chưa được thuần thục hoặc quên cách thực hiện. Điều này khiến GV e ngại khi ứng dụng
CNTT trong công tác chuyên môn. Việc thiết kế sản phẩm mất nhiều thời gian, sản phẩm
thiết kế kém chất lượng Những hạn chế này lại tiếp tục tác động khiến GV trở nên e ngại
ứng dụng CNTT hơn nên kỹ năng sử dụng phần mềm tiếp tục không được trau dồi, rèn
luyện. Do đó, “kỹ năng sử dụng phần mềm còn hạn chế” là nguyên nhân quan trọng tác
động đến kỹ năng ứng dụng CNTT trong tổ chức HĐGD của GVMN.
Ngoài ra, “thiếu cơ sở dữ liệu điện tử” cũng gây cản trở cho GVMN vì thiếu các
hình ảnh, phim hay âm thanh phù hợp với ý tưởng thiết kế, không đòi hỏi chỉnh sửa nhiều
sẽ khiến GV mất nhiều thời gian tìm kiếm hoặc tạo ra, sản phẩm tạo ra đôi khi không đạt
yêu cầu dẫn đến sản phẩm thiết kế cho trẻ không đạt hiệu quả. Điều này sẽ tác động đến
tâm lý của GVMN, khiến GV ngần ngại hơn trong việc ứng dụng CNTT nên kỹ năng này
không được trau dồi.
85
“Thiếu thiết bị” lại không phải nguyên nhân chính với tỉ lệ lựa chọn 36.00%. Vì như
đã nêu, tuy tình trạng thiếu máy móc tại các trường mầm non vẫn còn nhưng bản thân GV
đều có thể tự trang bị máy tính và thực hành. Do đó, thiếu thiết bị không hoàn toàn là
nguyên nhân khiến kỹ năng ứng dụng CNTT trong tổ chức HĐGD của GVMN bị hạn chế.
Cuối cùng, tuy chiếm tỷ lệ không nhiều nhưng 7.70% GV không nhận thấy hoạt
động này hữu ích nên không ứng dụng CNTT, không rèn luyện kỹ năng ứng dụng CNTT
khiến kỹ năng này không có hoặc chưa tốt cũng cần được quan tâm tác động. Mặc dù chỉ
có rất ít GV lựa chọn nguyên nhân này nhưng qua phân tích thực trạng có thể thấy. Tỷ lệ
này thực tế cao hơn. Quan điểm trên có thể do hiểu biết chưa đầy đủ và đúng về ứng dụng
CNTT, chưa thực sự cảm nhận được giá trị của ứng dụng CNTT trong tổ chức HĐGD cho
trẻ nên không tích cực, chủ động tham gia. Việc bồi dưỡng về kiến thức liên quan cũng
như tăng cơ hội tiếp cận các HĐGD có ứng dụng CNTT cho GV rất cần thiết.
Chương trình đào tạo, bồi dưỡng tuy có nội dung về tin học nhưng cung cấp chưa
đầy đủ hoặc chưa gắn kết với việc sử dụng phần mềm trong thực tế và trong chuyên môn
của GVMN, chưa chú trọng hướng dẫn các vấn đề như quy chuẩn trình bày một tập tin văn
bản, bài trình chiếu; cách thức gửi thư điện tử đúng, kỹ thuật tìm kiếm và lưu trữ thông tin.
Ngoài ra, chương trình học tin học lấy chứng chỉ tin học cơ bản tập trung chủ yếu vào kỹ
năng sử dụng phần mềm Excel, nội dung về phần mềm Word và Powerpoint chưa được
triển khai sâu, trái ngược với nhu cầu sử dụng của GVMN trong thực tế. Mặt khác, tuy GV
được bồi dưỡng kỹ năng sử dụng phần mềm Powerpoint khi học chứng chỉ “Tin học ứng
dụng trong dạy học” nhưng các kỹ thuật được hướng dẫn phù hợp để thiết kế bài dạy cho
học sinh các cấp, ít gắn kết với đặc thù ngành GDMN.
Có thể nói có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan tác động đến kỹ năng ứng
dụng CNTT của GVMN. Nguyên nhân lớn nhất liên quan đến ý tưởng thiết kế như: thiếu
ý tưởng và khó khăn trong việc liên kết ý tưởng với kỹ thuật thiết kế. Các nguyên nhân
khác bao gồm: áp lực công việc, thiếu thông tin, kiến thức về ứng dụng CNTT trong GDMN
và kỹ năng sử dụng phần mềm hạn chế, thiếu cơ sở dữ liệu điện tử. Việc tác động đến
những nguyên nhân này sẽ góp phần khắc phục thái độ phủ nhận việc ứng dụng CNTT
86
trong GDMN của 7.70% GVMN, đồng thời nâng cao kỹ năng này cho GV nói chung. Kết
quả này so với kết quả khảo sát GVMN ở một số tỉnh thành khác cũng có sự tương ứng.
Biểu đồ 2.4. Nguyên nhân ảnh hưởng đến kỹ năng ứng dụng CNTT của GVMN
tại Tp. Hồ Chí Minh so với GVMN ở các tỉnh thành khác
Biểu đồ trên cho thấy “Thiếu ý tưởng” cũng là nguyên nhân lớn nhất tác động đến
kỹ năng ứng dụng CNTT của GVMN ở các tỉnh thành khác với 90.2% (ít hơn Tp. Hồ Chí
Minh 2.3%). Các nguyên nhân khác như “Gặp khó khăn trong liên kết ý tưởng với kỹ thuật
thiết kế” , “Thiếu thông tin kiến thức liên quan” , “Thiếu cơ sở dũ liệu điện tử”, “Thiếu
thiết bị” có tỉ lệ tương đương với Tp. Hồ Chí Minh. Chỉ có nguyên nhân “Kỹ năng sử dụng
phần mềm hạn chế” thì ở các tỉnh thành khác cao hơn đến 19.5%, hoàn toàn hợp lý do điều
kiện cơ sở vật chất cũng như tốc độ phát triển CNTT tại các địa phương (trừ Hà Nội) còn
chậm hơn so với Tp. Hồ Chí Minh dẫn đến việc nhu cầu cũng như cơ hội ứng dụng CNTT
của GVMN tại các tỉnh lân cận còn ít, cơ hội rèn luyện chưa nhiều. Bên cạnh đó, so với
GV tại Tp. Hồ Chí Minh, áp lực công việc cũng có tác động nhiều nhưng tỉ lệ lựa chọn
thấp hơn Tp. Hồ Chí Minh 23%. Điều này có thể do ở một số tỉnh, GVMN chỉ làm việc
một buổi hoặc ít trẻ hay ít hoạt động thi đua hơn so với Tp. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, nhìn
tổng thể thì thời gian và công sức GVMN cống hiến cho nghề chiếm phần lớn trong ngày,
ít nhiều đều sẽ ảnh hưởng đến hứng thú, sự quan tâm và đầu tư rèn luyện kỹ năng ứng dụng
CNTT.
36
60.7
63.5
72.4
86
89
92.3
28.3
71.0
83.0
75.1
63.0
84.4
90.2
0 10 20 30 40 50 60 70 80 90 100
Thiếu thiết bị
Thiếu cơ sở dữ liệu điện tử
Kĩ năng sử dụng phần mềm hạn chế
Thiếu thông tin, kiến thức liên quan
Áp lực công việc
Gặp khó khăn trong việc liên kết ý tưởng và
Thiếu ý tưởng
Các tỉnh thành khác Tp.HCM
87
2.2.3. Thực trạng bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng công nghệ thông tin
trong tổ chức hoạt động giáo dục cho giáo viên mầm non
Việc khảo sát được thực hiện trên phiếu thăm dò (phụ lục 2) với 531 GVMN (số
GVMN còn lại chưa từng tham gia hoạt động bồi dưỡng về ứng dụng CNTT). Ngoài ra,
để có thêm thông tin định tính, luận án còn thực hiện phỏng vấn với 65 GVMN và 25 cán
bộ quản lý trường mầm non. Kết quả cho thấy, từ những năm 2009 đến nay, GVMN đã
tham gia các hoạt động bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT trong GDMN sau:
Bảng 2.6. Hoạt động bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT GVMN đã tham gia
TT Nội dung bồi dưỡng Mục tiêu bồi dưỡng
Hình thức
bồi dưỡng
1
Module 32 - Thiết kế và sử dụng
giáo án điện tử theo Thông tư
36/2011/TT-BGDĐT(theo
chương trình của Bộ GD&ĐT)
Trang bị kiến thức về khái niệm giáo án
điện tử, vai trò của giáo án điện tử trong
đổi mới GDMN; Kỹ năng thiết kế và sử
dụng giáo án điện tử.
GVMN tự
học, Ban
Giám hiệu
kiểm tra.
2
Tập huấn sử dụng phần mềm lập
kế hoạch giáo dục Mindjet
Manager, Edubot (theo chương
trình của phòng GD&ĐT)
Hướng dẫn GVMN sử dụng phần mềm
để lập kế hoạch giáo dục.
Tập trung tại
chỗ
3
Phần mềm lập khẩu phần dinh
dưỡng (theo chương trình của
phòng GD&ĐT)
Hướng dẫn cán bộ quản lý cách thức
lập khẩu phần dinh dưỡng bằng phần
mềm.
Tập trung tại
chỗ
4
Phần mềm tuyển sinh đầu cấp,
phần mềm thu học phí (theo
chương trình của phòng
GD&ĐT)
Hướng dẫn GVMN sử dụng phần mềm
trong công tác quản lý nhóm, lớp.
Tập trung tại
chỗ
5
Phần mềm Powerpoint - Activ
Inspire (theo nhu cầu của
trường, Ban Giám hiệu hoặc
mời chuyên gia về hướng dẫn)
Hướng dẫn GVMN thiết kế bài trình
chiếu đa phương tiện.
Tập trung tại
chỗ
88
6
Phầm mềm cắt - ghép phim ảnh
(theo nhu cầu của trường, Ban
Giám hiệu hoặc mời chuyên gia
về hướng dẫn)
Hướng dẫn GVMN sử dụng phần mềm
tạo phim, ảnh theo yêu cầu của công tác
chuyên môn.
Tập trung tại
chỗ
7
Phần mềm trò chơi Kidsmart,
Quả táo mầu nhiệm... (theo nhu
cầu của trường, Ban Giám hiệu
hoặc mời chuyên gia về hướng
dẫn)
Hướng dẫn GVMN sử dụng phần mềm
trong giờ hoạt động góc hoặc giờ học
trên lớp.
Tập trung tại
chỗ
8
Khai thác các ứng dụng phục vụ
hoạt động trực tuyến (theo nhu
cầu của trường, Ban Giám hiệu
hoặc mời chuyên gia về hướng
dẫn)
Hướng dẫn GVMN khai thác các nguồn
học liệu trực tuyến, sử dụng mạng xã hội
trong các hoạt động nghiệp vụ giáo dục,
khai thác và ứng dụng các nguồn bài
giảng trực tuyến.
Tập trung tại
chỗ, trực
tuyến
9
Tin học cơ bản (theo nhu cầu cá
nhân)
Trang bị cho GVMN khả năng sử dụng
các phần mềm văn phòng.
Tập trung tại
chỗ (Trung
tâm tin học),
học riêng với
giảng viên
10
Ứng dụng CNTT trong dạy học
(theo nhu cầu cá nhân)
Trang bị cho GVMN khả năng thiết kế
các bài trình chiếu đa phương tiện.
Bảng 2.6 cho thấy các chương trình bồi dưỡng liên quan đến kỹ năng ứng dụng
CNTT trong GDMN hiện nay bao gồm tập huấn chuyên môn, tự bồi dưỡng tại cơ sở, tham
gia các lớp tin học ở trung tâm CNTT. Tuy nhiên, các buổi tập huấn hay lớp học ở trung
tâm tin học thường chủ yếu hướng dẫn sử dụng một phần mềm cụ thể nào đó, không đi sâu
vào hướng dẫn cách thiết kế HĐGD cho trẻ với phần mềm đó nên hiệu quả không cao. Do
đó, về tổng thể, dù là tự bồi dưỡng hay được bồi dưỡng về kỹ năng CNTT thì GVMN vẫn
cho rằng các hoạt động này chưa đáp ứng được nhu cầu thực tiễn. Đánh giá cụ thể như sau
(mức điểm tối đa cho mỗi nội dung đánh giá là 4.00 điểm, tối thiểu là 0.00 điểm):
89
Bảng 2.7. Đánh giá về tập huấn theo nhu cầu, theo chương trình của phòng GD&ĐT về
phần mềm lập kế hoạch, khẩu phần (Tập huấn 1) (N = 531)
TT
Tập huấn theo nhu cầu, theo chương trình Mức độ của hiệu quả (người) Điểm
trung
bình
�̅�
Nội dung đánh giá 1 2 3 4 5
1
Thời gian học phù hợp (vừa đủ để thẩm thấu và rèn
luyện)
16 106 186 147 76 2.30
2
Thời điểm học hợp lý (không vào thời điểm mệt mỏi
do công việc)
5 75 197 161 93 2.50
3
Nội dung học gợi mở nhiều ý tưởng, hướng vận
dụng bám sát thực tế
2 54 202 166 105 2.60
4
Tài liệu học tập rõ ràng, dễ hiểu, cung cấp đầy đủ về
thông tin
12 86 194 156 83 2.40
5
Có thời gian tự học với tài liệu (đọc trước, tự nghiên
cứu)
169 187 99 47 29 1.20
6 Được thực hành cá nhân trên máy nhiều 169 187 99 47 29 1.50
7 Được hợp tác nhóm để làm sản phẩm 11 109 186 149 76 2.32
8 Được giải đáp thắc mắc ngay và dễ hiểu 0 45 185 187 114 2.70
9
Người hướng dẫn vừa hiểu về GDMN vừa thành
thạo về CNTT
110 130 156 79 56 1.70
10 Được tham khảo nhiều sản phẩm minh họa 509 22 0 0 0 0.00
Bảng 2.7 cho thấy chương trình tập huấn có mức điểm dao động từ 0.00 - 2.70.
Trong đó, “Được giải đáp thắc mắc ngay và dễ hiểu” có mức điểm cao nhất (2.70), tiếp
đến là nội dung bồi dưỡng (2.60) và thời điểm học (2.50). Với các chương trình này, việc
tham khảo nhiều sản phẩm có điểm trung bình bằng 0.00 vì thực tế, người tập huấn chỉ đưa
ra một bảng kế hoạch hoặc thực đơn sau đó tiến hành hướng dẫn. Hơn nữa, những chương
trình tập huấn thường không tổ chức ở phòng máy nên cơ hội thao tác trên máy tính tùy
thuộc vào điều kiện tại từng cơ sở, do đó điểm đánh giá cho nội dung này cũng khá thấp
(1.50). Điểm trung bình của các chương trình tập huấn theo nhu cầu, theo chương trình của
phòng Giáo dục và Đào tạo về phần mềm lập kế hoạch, khẩu phần là 1.90/4.00.
90
Bảng 2.8. Đánh giá về tập huấn theo nhu cầu về các phần mềm thiết kế HĐGD (Tập huấn
2) (N = 123)
TT
Tập huấn nhu cầu về các phần mềm thiết kế HĐGD
Mức độ của hiệu quả
(người)
Điểm
trung
bình
�̅�
Nội dung đánh giá 1 2 3 4 5
1
Thời gian học phù hợp (vừa đủ để thẩm thấu và rèn
luyện)
2 17 68 32 9 2.30
2
Thời điểm học hợp lý (không vào thời điểm mệt mỏi do
công việc)
0 12 58 36 17 2.47
3
Nội dung học gợi mở nhiều ý tưởng, hướng vận dụng
bám sát thực tế
13 22 48 31 9 2.00
4
Tài liệu học tập rõ ràng, dễ hiểu, cung cấp đầy đủ về
thông tin
11 22 45 34 11 2.10
5
Có thời gian tự học với tài liệu (đọc trước, tự nghiên
cứu)
21 19 51 27 5 1.80
6 Được thực hành cá nhân trên máy nhiều 6 29 40 35 13 2.16
7 Được hợp tác nhóm để làm sản phẩm 0 15 64 34 10 2.32
8 Được giải đáp thắc mắc ngay và dễ hiểu 11 24 45 34 9 2.05
9
Người hướng dẫn vừa hiểu về GDMN vừa thành thạo
về CNTT
9 49 44 15 6 1.67
10 Đượ