Mức độ ô nhiễm các kim loại nặng trong trầm tích tầng mặt khu vực
trong đê được xác định bởi: Thứ nhất là so sánh giá trị trung bình của các
kim loại nặng trong các tướng trầm tích với Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia
về đánh giá chất lượng trầm tích nước ngọt (QCVN 43: 2012/BTNMT), cho
thấy hàm lượng trung bình của hầu hết các kim loại như As, Cd, Cu, Pb, Zn,
Cr đều nằm dưới giới hạn cho phép, nhưng hàm lượng trung bình của Hg ở
tướng bùn châu thổ - biển ven bờ bị phong hóa loang lổ, tướng bùn đầm lầy
ven biển chứa than bùn, tướng sét xám xanh vũng vịnh và tướng bùn đầm lầy
trên bãi bồi đã vượt giới hạn cho phép từ 2,2 đến 3,3 lần ; Thứ hai là sử dụng
biểu đồ MINPET để so sánh kết quả phân tích kim loại nặng với các chỉ tiêu
của QCVN 43: 2012/BTNMT cho thấy trầm tích tầng mặt khu vực trong đê
chưa bị ô nhiễm bởi các kim loại nặng như: Cu, Pb, Zn, Cr, Cd. Tuy nhiên
trầm tích đã bị ô nhiễm cục bộ bởi Hg và ít hơn nữa là As
27 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 601 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Các thành tạo trầm tích tầng mặt và mối liên quan với địa hóa môi trường trên địa bàn tỉnh Ninh Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gian và theo
thời gian được gọi là cộng sinh tướng.
2.1.2. Tiếp cận nhân quả
Quá trình dao động mực nước biển, trầm tích, chuyển động kiến
tạocó mối quan hệ nhân quả, trong đó trầm tích là kết quả còn các yếu
tố còn lại đượ c xem là nguyên nhân. Trong vùng nghiên cứu nguyên
nhân chủ yếu quyết định nên sự hình thành các tướng trầm tích khác
nhau là do sự thay đổi của mực nước biển. Khi mực nước biển thay đổi,
kéo theo môi trường trầm tích sẽ thay đổi, khi đó chế độ thủy thạch động
lực đều bị thay đổi dẫn đến thành phần vật chất của trầm tích cũng thay
đổi theo. Do đó, mỗi nhóm tướng trầm tích đều phản ánh nên hoàn cảnh
lắng đọng trầm tích cho một gian đoạn nào đó, mà cụ thể thì đã được thể
hiện ở trong mỗi tướng trầm tích. Như vậy, mỗi tướng trầm tích sẽ có
các đặc điểm đặc trưng cho môi trường lắng đọng. Các tướng trầm tích
do có sự khác nhau về môi trường thành tạo nên thành phần độ hạt, thành
phần khoáng vật, thành phần hóa học cũng sẽ khác nhau, dẫn đến đặc
điểm địa hóa các kim loại nặng trong mỗi tướng trầm tích sẽ khác nhau.
2.2. Khái quát lịch sử hình thành trầm tích Đệ tứ tại vùng nghiên
cứu và cơ sở xây dựng hệ phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Khái quát lịch sử hình thành trầm tích Đệ tứ tại vùng nghiên cứu
Trầm tích Pleistocen muộn - Holocen trong vùng nghiên cứu được
hình thành trong bối cảnh liên quan đến sự dao động của mực nước biển
trên thế giới.
Vào nửa cuối Pleistocen muộn (Q13) trên thế giới xảy ra đợt băng hà
cuối cùng (chu kỳ băng hà Wurm), vào thời kỳ này ở Việt Nam mực
nước biển lùi xa đến độ sâu thấp hơn mực nước biển hiện đại -100 m đến
-120 m. Quá trình hạ mực nước biển làm cho mực xâm thực cơ sở cũng
hạ theo, kết quả làm cho quá trình bóc mòn xảy ra mạnh mẽ trên toàn
đồng bằng, làm xuất hiện màu loang lổ do quá trình phong hoá trên bề
mặt trầm tích Pleistocen muộn (Q13) trên toàn lãnh thổ và lãnh hải nước
ta, mà trầm tích của hệ tầng Vĩnh Phúc ở trong vùng nghiên cứu là một
ví dụ điển hình cho quá trình này.
Trong Holocen có giai đoạn biển tiến Flandrian (khoảng 10.000
năm), đã làm mực nước biển thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng
9được dâng lên. Vào giai đoạn đầu Holocen (thời điểm trước biển tiến cực
đại Flandrian), trầm tích biển - đầm lầy của hệ tầng Hải Hưng được
thành tạo. Trong Holocen giữa tại thời điểm khoảng 6.000 năm (biển tiến
Flandrian), thành tạo lớp sét màu xám xanh của hệ tầng Hải Hưng.
Sau pha biển tiến cực đại Flandrian trong Holocen giữa thì vào đầu
Holocen muộn xảy ra pha biển lùi làm mực nước biển hạ thấp theo
nguyên lý con lắc đơn tắ t dần, lúc này tốc độ bồi tụ vùng cửa sông lớn
hơn tốc độ lún chìm, châu thổ bắt đầu được hình thành và phát triển
Trong gian đoạn này, ở đồng bằng sông Hồng nói chung và vùng nghiên
cứu nói riêng đã hình thành các thành tạo trầm tích hệ tầng Thái Bình.
Như vậy các trầm tích Pleistocen muộn - Holocen đã được sinh ra
trong bối cảnh địa chất khác nhau. Do vậy, trầm tích tầng mặt của các
thành tạo này là đối tượng khá đa dạng, phức tạp. Bởi lẽ, chúng vừa
mang các tính chất của điều kiện môi trường thành tạo, lại vừa chịu tác
động của các yếu tố tự nhiên, nhân sinh, nên rất cần thiết phải có hệ
phương pháp nghiên cứu, áp dụng một cách hợp lý mới bảo đảm được
tính chính xác cho các kết quả phân tích.
2.2.2. Một số khái niệm, thuật ngữ liên quan
* Trầm tích tầng mặt
Cho đến nay khái niệm về trầm tích tầng mặt còn được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau và chưa thống nhất. Trong luận án này, trầm tích
tầng mặt được quan niệm rằng: trầm tích tầng mặt là tầng trầm tích bở rời
hoặc gắn kết yếu, có bề dầy phụ thuộc vào địa hình. Đặc biệt là chúng
phân bố ngay trên bề mặt của vỏ Trái Đất và có sự tương tác trực tiếp với
môi trường bên ngoài (như nước, không khí, sinh vật và kể cả con người).
Khái niệm trầm tích tầng mặt như trên cho thấy chúng là một tổ phần
cực kỳ quan trọng trong hệ thống địa chất môi trường; việc nghiên cứu trầm
tích tầng mặt nhất là các trầm tích hạt mịn đóng vai trò quan trọng trong việc
nghiên cứu đặc điểm địa hóa môi trường. Tùy theo đặc điểm phân bố của
các thành phần bở rời tại từng khu vực cụ thể, chiều dầy trầm tích tầng mặt
có thể dao động từ vài cm đến vài mét. Tuy nhiên xét dưới tiêu chí tác động
qua lại trực tiếp đến các hoạt động và các nhân tố trên mặt (nước, không
khí, sinh vật...) thì đa số các quá trình sinh hóa và trao đổi chất của sin h
vật xảy ra trong độ sâu từ 0,5m trở lên bề mặt. Ngoài ra, với mục đích
nghiên cứu trầm tích phục vụ cho lĩnh vực địa hóa môi trường, NCS đã
10
vận dụng khái niệm về trầm tích trong QCVN 43-2012/BTNMT: “Trầm
tích là các hạt vật chất, nằm ở độ sâu không quá 15 cm tính từ bề mặt đáy
của vực nước, các hạt có kích thước nhỏ hơn 2 mm hoặc lọt qua rây có
đường kính lỗ 2 mm”. Kết hợp tất cả các khía cạnh trên, trong luận án này
chỉ giới hạn nghiên cứu trầm tích tầng mặt ở phần trên của các vật liệu bở
rời đến độ sâu 0,5m.
* Định nghĩa tướng:
Trong luận án này, các tướng trầm tích trong vùng nghiên cứu
được xác định trên cơ sở quan niệm về tướng của Rukhin L.B (1969):
“tướng là những trầm tích được thành tạo trong một vị trí nhất định có
cùng điều kiện khác với những vùng lân cận”.
Cơ sở phân chia cấp hạt
NCS đã sử dụng Bảng phân cấp độ hạt của Cụ c địa chất Hoàng
Gia Anh để làm cơ sở phân chia các cấp hạt và đã sử dụng biểu đồ phụ
cát - bột - sét bao gồm 10 trường theo phân loại của Cục địa chất Hoàng
Gia Anh để phân loại trầm tích tầng mặt cho vùng nghiên cứu.
- Kim loại nặng (Heavy Metal) là khái niệm được dùng trong lĩnh vực môi
trường để chỉ các kim loại và á kim có tỷ trọng cao (D ≥ 5 g/cm3) và thường có
độc tính đối với thế giới sinh vật. Các kim loại nặng điển hình là Cr, Ni, Co, Cu,
Pb, Zn, Cd, Hg, As, Se...
2.3. Các phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Lộ trình khảo sát địa chất
Kết quả của quá trình khảo sát ngoài thực địa đã tiến hành được
18 tuyến (10 tuyến dọc, 8 tuyến ngang) với 145 điểm được khảo sát
nghiên cứu. NCS đã thực hiện: Phương pháp mô tả, ghi nhật ký ở từng
điểm khảo sát; Phương pháp đo trực tiếp các thông số hóa lý môi trường
cơ bản của nước mặt và trầm tích tầng mặt ngoài thực địa.
- Phương pháp lấy mẫu trầm tích tầng mặt và nước mặt:
Mẫu trầm tích tầng mặt và nước mặt của vùng nghiên cứu được lấy
mang tính đại diện, mẫu trầm tích được lấy theo TCVN 6663 - 3:2000 và
bảo quản mẫu theo TCVN 6663 - 15:2004. Mẫu nước mặt được lấy theo
TCVN 5992:1995 (ISO 5667 - 2:1991); bảo quản và xử lý mẫu nước
theo TCVN 5993:1995 (ISO 5667 - 3:1985). Kết quả của các đợt khảo
sát thực địa đã thu thập được 161 mẫu trầm tích. Các mẫu trầm tích được
đưa về phòng thí nghiệm gia công và phân tích.
11
2.3.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu trong phòng thí nghiệm
* Các phương pháp phân tích độ hạt và xử lý số liệu
Phương pháp rây nước kết hợp với phương pháp lắng gạn A.N.
Sabanhin, phương pháp rây nước kết hợp với pipet, phương pháp xác định
độ hạt bằng máy chiếu tia laser. Kết quả đã phân tích được 152 mẫu. Từ
kết quả phân tích độ hạt, xây dựng đường con g tích lũy độ hạt, tính các
thông số trầm tích và lập được biểu đồ phân loại trầm tích tầng mặt.
* Nghiên cứu hình dạng hạt vụn
Các phương pháp đã áp dụng: kính hiển vi soi nổi (52 mẫu), kính
hiển vi phân cực (35 mẫu), kính hiển vi điện tử quét (SEM) (21 mẫu).
* Các phương pháp phân tích thành phần khoáng vật: Phân tích
lát mỏng thạch học (35 mẫu), kính hiển vi soi nổi (52 mẫu), phân tích
Rơnghen (35 mẫu), nhiệt vi sai (35 mẫu), kính hiển vi điện tử quét (21 mẫu).
* Các phương pháp phân tích thành phần hóa học: Phương pháp
phân tích hóa silicat (30 mẫu); Phương pháp phân tích hóa nước cơ bản (28
mẫu); Phương pháp phân tích quang phổ hấp thụ nguyên tử (ASS) với 78
mẫu trầm tích và 42 mẫu nước mặt; Phương pháp quang phổ phát xạ plasma
(ICP-ASE) (50 mẫu).
* Phương pháp địa hóa môi trường trầm tích
Trong luận án, việc nghiên cứu địa hóa môi trường trầm tích trên
cơ sở phân tích sắt hóa trị 2 trong pyrit (FeS2) và tổng carbon hữu cơ
(Fe+2S/Corg); hệ số cation trao đổi (Kt), độ pH của môi trường và thế
năng oxy hóa (Eh).
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM TƯỚNG ĐÁ CÁC THÀNH TẠO TRẦM
TÍCH TẦNG MẶT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NINH BÌNH
3.1. Trầm tích tầng mặt thuộc thành tạo Pleistocen muộn
Trong vùng nghiên cứu, trầm tích tầng mặt thuộc thành tạo
Pleistocen muộn chủ yếu là tướng bùn cát châu thổ - biển ven bờ bị
phong hoá loang lổ, phân bố ở Nho Quan và Gia Viễn.
Trầm tích thuộc kiểu bùn cát và có nét khác biệt so với các thành tạo
khác là chúng có màu sắc loang lổ và có chứa kết vón laterit (goethit 11 -
30%). Trầm tích có độ chọn lọc và mài tròn kém. Các đường cong tích lũy
độ của trầm tích chủ yếu có dạng T + S cho thấy trầm tích được thành tạo
trong môi trường biển ven bờ. Trong trầm tích vật chất hữu cơ không
12
nhiều, các chỉ số môi trường pH: 6,8-7,30; Kt: 1,04-1,5; Fe+2s/corg: 0,196-
0,528; Eh: 58 - 65 mV, có BTPH: Polypodium sp., Pinus sp., Larix sp.,...
3.2. Trầm tích tầng mặt thuộc thành tạo Holocen sớm - giữa
3.2.1. Tướng bùn đầm lầy ven biển chứa than bùn
Tướng bùn đầm lầy ven biển chứa than bùn lộ thành diện không lớn
ở hai bên sông Hoàng Long, thuộc huyện Gia Viễn, Hoa Lư. Trầm tích
thuộc kiểu trầm tích bùn, chứa than bùn và các di tích thực vật màu đen,
có độ chọn lọc và độ mài tròn kém, hạt nhỏ chiếm ưu thế . Các đường
cong tích lũy độ hạt của trầm tích tích chủ yếu có dạng T2, T3 đã phản ánh
môi trường thành tạo trầm tích là môi trường yên tĩnh. Trong trầm tích
có mặt pyrit, giàu vật chất hữu cơ, các chỉ số môi trường : pH = 4,5-6,0,
Kt = 1,05-1,25. Chỉ số Fe2+S/Corg = 0,45-0,63; Eh từ -40 đến -25mV,
trầm tích có chứa tập hợp BTPH: Polypodium sp., Gleichenia sp.,... đồng
thời còn có nhiều tảo mặn, lợ xen ít tảo nước ngọt: Cyclotella sp.,...tất cả
đã chứng tỏ môi trường trầm tích là môi trường đầm lầy.
3.2.2. Tướng sét xám xanh vũng vịnh
Trên diện tích Ninh Bình, trầm tích tướng sét xám xanh vũng vịnh
lộ rải rác ở ven hồ Yên Thắng, Yên Mô và thị xã Tam Điệp . Trầm tích
thuộc kiểu trầm tích sét có màu xám xanh. Sét dẻo mịn, trong sét có lẫn
nhiều rễ cây, có độ chọn lọc kém, độ mài tròn khá, hạt nhỏ chiếm ưu thế.
Trong trầm tích có tập hợp BTPH: Osmunda sp., Pteris sp., Pinus sp.,
3.3. Trầm tích tầng mặt thuộc thành tạo Holocen muộn
3.3.1. Tướng bột cát bãi bồi sông
Tướng bột cát bãi bồi sông phân bố không liên tục dọc theo sông Đáy,
sông Hoàng Long, sông Chanh, sông Bôi... Trầm tích thuộc kiểu bột cát,
màu xám nâu, có độ chọn lọc và độ mài tròn kém, hạt nhỏ chiếm ưu thế.
Các đường cong tích lũy độ hạt chủ yếu có dạng T, một số ở dạng R và S
đặc trưng cho trầm tích bãi bồi. Các chỉ số môi trường: pH = 6-7; Eh =
100 - 140mV; Kt = 0,05 - 0,07; Fe2+S/Corg = 0,02 - 0,05. Trầm tích
nghèo di tích động thực vật, chỉ có BTPH: Cyathea sp., Osmunda sp.,
3.3.2. Tướng bùn đầm lầy trên bãi bồi
Trong vùng nghiên cứu, tướng trầm tích bùn cát đầm lầy trên bãi
bồi phân bố chủ yếu ở Gia Viễn và Nho Quan, ít hơn nữa là ở Hoa Lư,
Yên Mô và Tam Điệp. Trầm tích thuộc kiểu trầm tích bùn, chứa than bùn
và các di tích thực vật màu đen, có độ chọn lọc và độ mài tròn kém, có
13
giá trị Md = 0,0095 mm đã biểu thị cho trầm tích hạt nhỏ chiếm ưu thế
và môi trường hồ, đầm lầy. Mặt khác, các đường cong tích lũy độ hạt
chủ yếu có dạng T và S cũng thể hiện môi trường trầm tích khá yên tĩnh.
Trong trầm tích có pyrit, trầm tích giàu vật chất hữu cơ, các chỉ số môi
trường: pH = 4,5-6, Kt = 0,5-0,7; Fe2+S/Corg = 0,03-0,06; Eh từ -40 đến
+20mV, trầm tích có chứa di tích BTPH và phức hệ tảo nước ngọt đặc
trưng cho môi trường đầm lầy.
3.3.3. Tướng bột cát đồng bằng châu thổ (amQ23)
Trầm tích phân bố khá rộng rãi và tập trung chủ yếu ở các ở các
huyện Hoa Lư, Yên Khánh, Yên Mô, TP Ninh Bình. Trầm tích thuộc
kiểu bột cát, có màu nâu vàng, có độ chọn lọc và độ mài tròn kém, hạt
nhỏ chiếm ưu thế. Các đường cong tích lũy độ hạt chủ yếu ở dạng S+T
đã cho thấy môi trường thành tạo trầm tích là môi trường cửa sông ven
biển. Trầm tích có vật chất hữu cơ nhiều, c ác chỉ số môi trường pH: 7,35;
Kt: 0,933; Fe+2s/corg: 0,14. Trong trầm tích chứa vi cổ sinh: Spiroloculina,
Quinqueloculina và BTPH: Polypodium sp., Taxodium sp., ...
3.3.4. Tướng bùn châu thổ bị đầm lầy hóa (ambQ23)
Tướng bùn châu thổ bị đầm lầy hóa phân bố rộng rãi ở khu vực
huyện Kim Sơn. Trầm tích thuộc kiểu trầm tích bùn, có màu nâu đen
chứa di tích động thực vật nước lợ, có độ chọn lọc vừa, độ mài tròn kém,
hạt nhỏ chiếm ưu thế, Md trong khoảng (0,001-0,05mm) thể hiện trầm
tích thuộc phức hệ đầm lầy với tính phân dị cấp hạt yếu và môi trường
trường trầm tích khá yên tĩnh. Các đường cong tích lũy độ hạt của trầm
tích chủ yếu ở dạng T cũng thể hiện môi trường trầm tích khá yên tĩnh.
Trong trầm tích còn gặp khoáng vật pyrit, trầm tích giàu vật chất hữu cơ,
trầm tích chứa BTPH : Taxus sp., Sequoia sp., Laris sp., hệ số địa hoá
môi trường: pH = 5 - 6; Kt = 0,75 - 0,98, Fe2+S/Corg = 0,2 - 0,3, Eh: -
20mV đến 50 mV chỉ thị cho môi trường trầm tích bị đầm lầy hóa.
3.3.5. Tướng cát cồn cát chắn cửa sông tàn dư
Trầm tích thuộc kiểu cát, cát bột màu xám vàng, xám tro có lẫn
vảy muscovit và vỏ hến, có độ chọn lọc kém, độ mài tròn trung bình đến
khá, hạt lớn chiếm ưu thế. Các đường cong tích lũy độ hạt chủ yếu ở
dạng S+T đặc trưng cho môi trường thành tạo cồn cát cửa sông. Các chỉ
số môi trường: pH = 7-8; Kt = 0,86-1,07; Fe2+S/Corg = 0,275. Trong trầm
14
tích nghèo di tích động thực vật, chỉ có các loài mollusca chịu sóng
thuộc đới ven bờ có mặt như: Anadara subcrenata, Barbatia sp.,
3.3.6. Tướng bùn cát bãi triều hiện đại
Tướng bùn cát bãi triều hiện đại tạo thành những bãi triều nằm ven
biển ở khu vực cửa Đáy, cửa sông Càn. Trầm tích thuộc kiểu bùn cát với
thành phần chủ yếu là bột sét lẫn ít cát hạt mịn, có màu xám nâu, xám đen
nhạt. Trầm tích có độ chọn lọc và độ mài tròn kém, hạt nhỏ chiếm ưu thế.
Các đường cong tích lũy độ hạt chủ yếu ở dạng T, một số ở dạng S thể
hiện môi trường trầm tích bãi triều. Các chỉ số môi trường: pH = 6 -7,5, Kt
= 1,02 - 1,12; Fe2+S/Corg từ 0,15 - 0,2. Do bãi triều là nơi có sự hoạt động
của các dòng triều và lạch triều nên độ bảo tồn các vi cổ sinh tương đối
kém. Các sinh vật hai mảnh, sò ốc, sinh vật bám đáy như: Ostrea rivularis,
Cyclina sinensis,... BTPH ngập mặn như: Rhizophora sp., Acanthus sp.,...
Các loài tảo silic nước mặn lợ chiếm ưu thế: Actinocyclus ehrenbegii,
3.3.7. Tướng cát bột lạch triều (tcQ23)
Trong vùng nghiên cứu tướng cát bột lạch triều có diện phân bố
hẹp, chúng được thành tạo dọc theo các lạch triều và nhánh triều ở khu
vực ven biển. Trầm tích có cát bột có màu xám vàng, xám tối và có đặc
điểm là mịn dần từ dưới lên trên.
Từ kết quả nghiên cứu về độ hạt của các tướng trầm tích tầng mặt
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình cho thấy chúng có độ hạt phân b ố theo quy
luật đan xen (thô - mịn - thô) theo cả hướng tây bắc - đông nam và đông
bắc - tây nam ở trong vùng nghiên cứu. Sở dĩ chúng có các đặc điểm đan
xen giữa các cấp hạt là vì quá trình hình thành trầm tích trẻ tại vùng
nghiên cứu gắn liền với sự hình thành và phát triển các cồn cát cửa sông
ven biển, tương tự quy luật thành tạo và phát triển các bar cát cửa sông
của một số cửa sông lớn có bãi triều rộng trên thế giới. Trong vùng
nghiên cứu trầm tích Holocen muộn được phát triển trong điều kiện cửa
sông có đáy nông, lực ma sát đáy lớn và xếp vào loại cửa sông có lực cản
mạnh. Chính do sức cản mạnh mà hình thành các cồn cát chắn cửa sông.
Các cồn cát này có nguồn cung cấp vật liệu trầm tích là từ lục địa nhưng
đã chịu tác động của sóng. Vì khi vật liệu t rầm tích được đưa đến bồn
tích tụ thì nó được tái tạo và chọn lọc bởi sóng biển, trong đó thành phần
hạt mịn được mang đi, còn thành phần hạt thô sẽ được lắng đọng lại hình
thành nên các cồn cát, kéo theo đó là xuất hiện các lagoon nhỏ. Trong
15
các lagoon này do môi trường nước yên tĩnh nên trầm tích hạt mịn được
lắng đọng. Do đó mới có hiện tượng đan xen cấ p hạt thô mịn ở vùng
nghiên cứu.
3.4. Tiến hoá trầm tích Pleistocen muộn - Holocen của vùng nghiên cứu
3.4.1. Theo thời gian
3.4.1.1. Thời kỳ Pleistocen muộn
Vào thời gian này, do ảnh hưởng của băng hà Wurm 2 nên đồng
bằng sông Hồng nói chung và khu vực nghiên cứu nói riêng có phần trên
của thành tạo hệ thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc bị phởi ra và phong hóa mạnh
mẽ, dẫn đến phần lớn bề mặt của trầm tích thuộc hệ tầng Vĩnh Phúc có
màu loang lổ với những kết vón sắt rất đặc trưng.
3.4.1.2. Thời kỳ Holocen
* Giai đoạn Estuary - vũng vịnh
- Thời điểm trước biển tiến cực đại (giai đoạn đầu Holocen): tốc độ
ngập chìm của bồn trầm tích lớn hơn tốc độ lắng đọng trầm tích trong
bồn, kết hợp với tốc độ dâng của mực nước biển đã làm cho đồng bằng
châu thổ sông Hồng nói chung và vùng nghiên cứu nói riêng bị ngập
chìm nhanh chóng, trở thành vùng đầm lầy rộng lớn và hình thành trầm
tích biển đầm lầy của hệ tầng Hải Hưng.
- Thời điểm biển tiến cực đại đạt mức cao nhất trong Holocen giữa. Giai
đoạn này vùng nghiên cứu bị ngập chìm trong nước biển. Các thung lũng
sông trở thành vùng bãi triều cửa sông. Trong điều kiện bãi triều cửa
sông - vũng vịnh này đã thành tạo lớp sét xám xanh thuộc hệ tầng Hải
Hưng ở trong vùng nghiên cứu.
* Giai đoạn châu thổ
Vào đầu Holocen muộn xảy ra pha biển lùi làm mực nước biển hạ
thấp. Đây là giai đoạn có tốc độ lún chìm nhỏ hơn tốc độ lắng đọng trầm
tích. Tại thời điểm này các thành tạo Holocen muộn được hình thành với
cơ chế dịch chuyển.
* Giai đoạn aluvi
Giai đoạn aluvi được bắt đầu kể từ khi đồng bằng châu thổ đã được
hình thành và kéo dài ra biển. Trong điều kiện này thì hoạt động của các
con sông đã tạo nên tầng trầm tích aluvi phủ lên trên các t hành tạo châu
thổ trước đó.
16
3.4.2. Theo không gian
Trong vùng nghiên cứu phổ biến các tướng trầm tích của đồng bằng
châu thổ nên quá trình tiến hoá theo không gian ở đây được xem xét qua
sự tiến hoá của châu thổ theo không gian.
Châu thổ bắt đầu được hình thành và phát triển khi tốc độ lắng đọng
trầm tích lớn hơn tốc độ ngập chìm của bồn trũng. Qúa trình hình thành
châu thổ phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Nhưng trong quá trình phát triển
châu thổ thì yếu tố sông, sóng, thuỷ triều đóng vai trò chủ đạo. Vùng
nghiên cứu phổ biến đồng bằng châu thổ do sóng thống trị. Các đê cát
cửa sông có dạng hình cong lưỡi liềm phía cung lồi quay ra biển nằm
chắn hướng chảy các dòng phù sa của sông, nằm đa n xen với các trầm
tích hạt mịn. Đây là những thành tạo cơ bản để hình th ành nên đồng
bằng châu thổ với tổ hợp cộng sinh tướng đặc trưng cho dạng đồng bằng
châu thổ do sóng thống trị mà vùng nghiên cứu đã gặp
3.5. Nguồn cung cấp vật liệu trầm tích
Căn cứ các kết quả nghiên cứu trên cho thấy vật liệu trầm tích ở
trong vùng nghiên cứu là từ lục địa và nó không chỉ được cung cấp từ khu
vực lân cận mà còn ở nơi xa hơn nữa đưa đến. Trong đó có nguồn từ dòng
chảy sông Đáy (sông Đáy có nhận một lượng phù sa của sông Hồng qua
dòng chảy của sông Nam Định). Đặc biệt là dòng bồi tích từ cửa Ba Lạt
được đưa xuống cửa Đáy bởi dòng chảy ven bờ có hướng ĐB -TN.
CHƯƠNG 4: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HOÁ MÔI TRƯỜNG CÁC KIM
LOẠI NẶNG TRONG TRẦM TÍCH TẦNG MẶT TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH NINH BÌNH
4.1. Đặc điểm môi trường hóa lý của trầm tích tầng mặt và nước mặt
trên địa bàn tỉnh Ninh Bình
4.1.1. Đặc điểm hóa lý của nước mặt khu vực nghiên cứu
Môi trường nước mặt có độ pH: 6,55 - 8,44; Eh: 0,50 - 0,65 (V). Độ
dẫn (Ec): 0,192 - 0,950 (ms/cm). Hàm lượng trung bình của hầu hết các
kim loại nặng (trừ Pb) trong nước mặt khu vự c trong đê (nước ngọt) đều
cao hơn khu vực ngoài đê, có thể do nước mặt khu vực ngoài đê đã bị
pha loãng bởi nước biển, vốn có hàm lượng rất thấp các kim loại đó.
4.1.2. Đặc điểm hóa lý của trầm tích tầng mặt khu vực nghiên cứu
Trong vùng nghiên cứu, trầm tích tầng mặt có thế oxy hóa - khử
(Eh): -33 mv đến 35 mv; độ pH: 4,82 đến 7,88, thể hiện môi trường trầm
17
tích là môi trường khử yếu đến oxy hóa yếu và axit yếu đến kiềm yếu .
Điều này phù hợp với sự có mặt của khoáng vật pyrit và siderit. Mặt khác,
nó cũng thể hiện trầm tích có nguồn gốc lục địa là chủ yếu.
So với trầm tích tầng mặt ở khu vực trong đê thì hàm lượng trung
bình của tất cả các kim loại nặng (trừ Hg) trong trầm tích tầng mặt khu
vực ngoài đê đều cao hơn. Vì nơi đây là vùng cửa sông ven biển nên nó
đóng vai trò là bể chứa vật chất từ nhiều nơi đưa đến.
4.1.3. Mối quan hệ của các kim loại nặng trong môi trường nước mặt và
trầm tích tầng mặt
Nước mặt và trầm tích tầng mặt có mối tương tác qua lại với nhau. Trong
vùng nghiên cứu, nhìn chung hàm lượ ng trung bình của các kim loại
nặng trong môi trường nước mặt và trầm tích tầng mặt khu vực trong đê
tỷ lệ thuận với nhau (trừ Cd). Còn ở khu vực ngoài đê, quan hệ giữa hàm
lượng trung bình của các kim loại nặng trong môi trường nước mặt và trầm
tích tầng mặt không được rõ ràng. Nguyên nhân có thể do đây là khu vực bãi
triều cửa sông ven biển nên nước ngọt đã bị pha loãng bởi nước biển và nước
mặt cũng như trầm tích tầng mặt luôn bị xáo trộn bởi các yếu tố như hoạt
động của thủy triều, dòng chảy ven bờ, sóng biển
4.2. Hành vi các kim loại nặng trong nước mặt và trầm tích tầng mặt trên
địa bàn tỉnh Ninh Bình
Trong nước mặt và trong trầm tích tầng mặt của vùng nghiên cứu,
các kim loại nặng có hành vi địa hóa và hàm lượng trung bình biến đổi
theo loại nước (ng ọt/lợ) và theo các tướng trầm tích. Cụ thể, hàm lượng
của hầu hết các kim loại nặng (trừ Cd và Pb) trong nước mặt ven bờ (nước
lợ) đều thấp hơn trong nước ngọt ở trong đê. Còn trong trầm tích tầng mặt,
có sự khác biệt rõ rệt về hàm lượng các kim loại nặng trong các tướng
trầm tích khác nhau.
Ngoại trừ tướng cát cồn cát chắn cửa sông tàn dư, nhìn chung theo
hướng từ đất liền ra biển, các nguyên tố như Cu, Pb, Zn có hàm lượng
trung bình dao động dạng hình sin theo hàm lượng của cấp hạt mịn , còn
các nguyên tố Hg, Cr, Cd và Ni có hàm lượng giảm dần (trừ tướng cát
cồn cát chắn cửa sông).
4.2.1. Nguyên tố Arsen (As)
Trong trầm tích tầng mặt của vùng nghiên cứu As luôn thể hiện mối
tương quan thuận với Cd, duy chỉ có As và Cd có sự chuyển, tích luỹ hàm
18
lượng phụ thuộc đáng kể vào thành phần vật chất của trầm tích so với các kim
loại nặng khác.
Trong môi trường nước mặt của vùng nghiên cứu As tồn tại chủ yếu
dưới dạng các hợp chất [HAsO4]2-. Còn trong trầm tích tầng mặt, dạng
tồn tại của As phụ thuộc nhiều vào độ pH và Eh. Trong đa số các tướng
trầm tích, As tồn tại ở các hợp chất ([HAsO 4]-, mà khi As tồn tại ở dạng
các hợp chất này thì được coi là trạng thái chưa nguy hại cho môi trường.
Do đó, tuy trầm tích tầng mặt của vùng nghiên cứu có hàm lượng trung
bình của As đại giá trị cao ở tướng bùn cát bãi triều hiện đại, nhưng chưa
đến mức gây nguy hại cho môi trường sinh thái.
4.2.2. Thủy ngân (Hg)
Khác với nhiều kim loại nặng khác, nguyên tố Hg có hàm lượng
trung bình có xu hướng giảm dần theo hướng từ đất liền ra biể n. Có lẽ do
sự tích luỹ hàm lượng Hg không phụ thuộc vào tỷ lệ cấp hạt mịn ở tất cả các
tướng mà hàm lượng trung bình của thuỷ ngân có sự biến đổi phụ thuộc vào
nguồn gây ô nhiễm, những tướng trầm tích phân bố ở gần các mỏ khoáng sản
Au - Hg, cụm mỏ antimon, Hg đều có hàm lượng trung bình Hg cao hơn.
Trong vùng nghiên cứu, dạng tồn tại của Hg trong môi trường nước
mặt là Hg (OH) 2aq. Đối với trầm tích tầng mặt, các tướng tr ầm tích có
hàm lượng trung bình Hg cao thì Hg đều tồn tại ở dạng Hg0 aq và dạng hợp
chất Hg(HS)20 aq. Các dạng tồn tại này đều ở dạng hòa tan nhưng chúng đều
có khả năng hòa tan thấp (LOW SOLUBILITY). Trong khi đó, các tướng
trầm tích có dạng tồn tại của Hg ở dạng hợp chất Hg(OH)2 aq (HIGH
SOLUBILITY) thì đều có hàm lượng trung bình của Hg thấp.
4.2.3. Nguyên tố Crom (Cr)
Tương tự Hg thì Cr cũng có hàm lượng trung bình giảm dần theo
hướng từ đất liền ra biển. Trong nước mặt Cr chủ yếu ở dạng các hợp chất
[CrO4]2-, còn trong trầm tích tầng mặt Cr tồn tại ở dạng hợp chất Cr2O3 (s).
4.2.4. Nguyên tố Niken (Ni)
Trong hầu hết các tướng trầm tích Ni có mối tương quan thuận với
Cu, Pb, Zn, Cr và Hg. Trong môi trường nước mặt và trầm tích tầng mặt,
Ni đều tồn tại ở dạng Ni+2. Đối với tướng bùn đầm lầy ven biển chứa than
bùn và tướng bùn đầm lầy trê n bãi bồi, Ni tồn tại chủ yếu ở hợp chất NiS2.
Nhìn chung trong trầm tích tầng mặt Cr và Ni không thể hiện rõ mối
tương quan về hàm lượng với các nhóm khoáng vật có khả năng hấp phụ kim
19
loại nặng. Chứng tỏ Cr và Ni được tích lũy theo con đường khác, không phụ
thuộc vào hàm lượng các khoáng vật sét.
4.2.5. Nguyên tố Cadimi (Cd)
Trong vùng nghiên cứu, Cd có hàm lượng cao nhất trong tướng trầm
tích cát cồn cát chắn cửa sông. Dạng tồn tại của Cd cũng phụ thuộc pH và
Eh. Trong nước mặt cũng như trong trầm tích Cd tồn tại chủ yếu ở dạng
Cd+2. Ngoại trừ trong tướng bùn đầm lầy ven biển chứa than bùn và tướng
bùn đầm lầy trên bãi bồi (Cd tồn tại ở dạng hợp chất muối sulphur CdS).
Trong trầm tích tầng mặt của vùng nghiên cứu, trừ khu vực cửa sông
ven biển ra thì As, Hg, Cd đã được hấp phụ bởi nhóm khoáng vật
montmorillonit, g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_luan_an_tieng_viet_dang_thi_vinh_6215_1848574.pdf