MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU 3
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 8
1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài liên quan đề tài luận án 8
1.2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước liên quan đề tài luận án 14
1.3. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu 24
Chương 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG THUỘC CÁC ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI 30
2.1. Tổ chức cơ sở đảng và những vấn đề cơ bản về thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng thuộc các đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội 30
2.2. Quan niệm, những yếu tố quy định, biểu hiện và tiêu chí đánh giá chất lượng thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng thuộc các đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội 63
Chương 3 THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG THUỘC CÁC ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI 76
3.1. Thực trạng chất lượng thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng thuộc các đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội 76
3.2. Nguyên nhân thực trạng chất lượng và một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng thuộc các đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội 110
Chương 4 YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT CỦA TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG THUỘC CÁC ĐẢNG BỘ HỌC VIỆN, TRƯỜNG SĨ QUAN QUÂN ĐỘI HIỆN NAY 124
4.1. Những yếu tố tác động và yêu cầu nâng cao chất lượng thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng thuộc các đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay 124
4.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng thuộc các đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay 133
KẾT LUẬN 170
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 172
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 173
PHỤ LỤC 187
187 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 489 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chất lượng thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở Đảng thuộc các đảng bộ học viện, trường sĩ quan quân đội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác của các HV, TSQ quân đội như: giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học, xây dựng tổ chức lực lượng, xây dựng nền nếp chính quy và sẵn sàng chiến đấu, bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, tài chính và đời sống bộ đội, xây dựng đảng, tiến hành CTĐ, CTCT theo chức năng nhiệm vụ cụ thể của từng cơ quan, từng ngành. Đặc biệt, các cơ quan tham mưu đã nắm vững những quan điểm, tư tưởng của Đảng về sự nghiệp giáo dục, đào tạo, về phát triển khoa học và công nghệ, những yêu cầu đối với lực lượng vũ trang, đối với các nhà trường quân đội... để vận dụng vào thực tiễn nhà trường, giúp đảng uỷ, ban giám đốc (ban giám hiệu) các HV, TSQ quân đội xây dựng những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo sát đúng về giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học và xây dựng nhà trường về mọi mặt, phù hợp với xu thế phát triển chung của đất nước và yêu cầu xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Đội ngũ cán bộ, nhân viên cơ quan làm tốt các mặt công tác phục vụ các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức quản lý, điều hành của đảng uỷ, ban giám đốc (ban giám hiệu) các HV, TSQ quân đội và triển khai thực hiện các nhiệm vụ, công tác trong nhà trường theo phạm vi quyền hạn. Chú trọng nâng cao chất lượng nghiên cứu, đề xuất, chuẩn bị các văn kiện, kế hoạch, dự thảo, dự án và theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra thực hiện theo đúng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan. Căn cứ vào chỉ đạo hướng dẫn của cơ quan cấp trên; nghị quyết, chỉ thị của đảng uỷ, ban giám đốc (ban giám hiệu) các HV, TSQ quân đội; tình hình nhiệm vụ, tính chất hoạt động và kế hoạch công tác chung của đơn vị; các cơ quan thực hiện tốt việc chuẩn bị các nội dung, kế hoạch công tác của cơ quan; lập kế hoạch, hướng dẫn kiểm tra các đơn vị thực hiện; đồng thời trực tiếp tiến hành các mặt công tác cho các đối tượng trong đơn vị theo phạm vi phân công, phân cấp. Chăm lo bồi dưỡng cho cán bộ, nhân viên cơ quan nâng cao kiến thức toàn diện, thành thạo nghiệp vụ, công tác chuyên môn, có năng lực hoạt động và hiểu biết thực tiễn, phương pháp và tác phong công tác khoa học, sâu sát cơ sở ... nhằm không ngừng nâng cao hiệu suất công tác, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ tham mưu cho cấp uỷ, chỉ huy và hướng dẫn, kiểm tra đơn vị thực hiện, đồng thời phục vụ có hiệu quả các mặt hoạt động trong đơn vị.
Đối với các khoa giáo viên: Đã thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học theo đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nghị quyết chỉ thị của cấp trên, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học của các nhà trường. Tập trung vào việc thực hiện chủ trương đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học, chấp hành quy chế giáo dục đào tạo, quy chế hoạt động khoa học, hoàn thiện các nội dung giáo dục, chương trình, phương pháp, quy trình đào tạo, nâng cao khả năng ứng dụng các thành quả nghiên cứu khoa học vào thực tiễn. Quán triệt sâu sắc và vận dụng đúng đắn, sáng tạo lý luận Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm tư tưởng của Đảng vào các chủ đề bài giảng cũng như các nội dung nghiên cứu khoa học, bảo đảm tính đảng, tính khoa học, tính chiến đấu, tính thực tiễn sâu sắc, định hướng chính trị rõ ràng, chặt chẽ. Đồng thời với hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học, coi trọng lãnh đạo tổ chức, động viên cán bộ giáo viên tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, góp phần bảo vệ chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng. Xây dựng đội ngũ giảng viên có chất lượng ngày càng cao cả về phẩm chất, trình độ học vấn, năng lực trí tuệ, năng lực sư phạm và năng lực nghiên cứu khoa học, có tư duy độc lập sáng tạo, không ngừng nâng cao trình độ lý luận, kinh nghiệm giảng dạy, phương pháp nghiên cứu khoa học, bảo đảm cho mọi người vươn lên những đỉnh cao của nhân cách, trí tuệ và kỹ năng nghề nghiệp, vừa thực sự là nhà giáo, nhà khoa học, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định, đủ sức chiến đấu trên mặt trận lý luận, chính trị tư tưởng và đưa đường lối quan điểm của Đảng thâm nhập sâu vào từng người.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Học viện Chính trị nhiệm kỳ 2020-2025 đánh giá: “Lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện có chất lượng, hiệu quả khâu đột phá “Đổi mới nội dung gắn với đổi mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học”; nội dung giảng dạy cho các đối tượng bảo đảm định hướng chính trị, tính logic và khoa học; thường xuyên cập nhật, bổ sung những vấn đề mới về lý luận và thực tiễn; từng bước chuyển mạnh từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện phẩm chất và năng lực người học theo mục tiêu, mô hình đào tạo. Chất lượng bài giảng chuyên đề được nâng lên; triển khai bài giảng mẫu và chuyên sâu đạt kết quả thiết thực; ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin, phương tiện kỹ thuật hiện đại trong dạy học; tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học tích cực; phát huy tính tích cực, chủ động và khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của người học” [32].
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường Sĩ quan Lục quân 1 nhiệm kỳ 2020-2025 đánh giá: “Có nhiều giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện hiệu quả khâu đột phá “Nâng cao chất lượng dạy - học”; tích cực đổi mới, sáng tạo trong tổ chức, điều hành diễn tập sát với thực tế huấn luyện và chiến đấu, bảo đảm an toàn tuyệt đối. Tổ chức cho học viên thực tập chặt chẽ, hoàn thành tốt nhiệm vụ. Kịp thời cập nhật kiến thức mới, vận dụng tốt phương pháp dạy - học tích cực và ứng dụng công nghệ thông tin, trang thiết bị hiện đại vào dạy - học” [44].
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Học viện Hậu cần nhiệm kỳ 2020-2025 đánh giá: “Tập trung chỉ đạo đột phá vào công tác tổ chức, quản lý, điều hành và bảo đảm cho giáo dục, đào tạo. Coi trọng đổi mới nội dung, chương trình đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa và liên thông giữa các cấp học, bậc học, bám sát sự phát triển của nghệ thuật quân sự và ngành hậu cần tài chính quân đội, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng quân đội và điều kiện thực tế xã hội. Thực hiện tốt phương châm “Dạy thực chất, học thực chất, đánh giá thực chất”; kết hợp lý luận với truyền thụ kinh nghiệm thực tiễn; huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu; huấn luyện thực hành, rèn luyện thể lực, thực tập chức trách, đáp ứng yêu cầu thực tiễn đơn vị” [34].
Đối với các đơn vị quản lý học viên: Đã thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nhiệm vụ giáo dục đào tạo, nghiên cứu khoa học và các nhiệm vụ khác của nhà trường. Tập trung tổ chức các hoạt động học tập, rèn luyện của đơn vị theo đúng quy định của Điều lệ công tác nhà trường, tăng cường kiểm tra, quản lý chặt chẽ quá trình học tập, rèn luyện của học viên. Quan tâm xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý học viên (kể cả cán bộ kiêm chức) có phẩm chất, năng lực, phát huy tốt vai trò trách nhiệm quản lý, điều hành, có khả năng tác động tích cực vào quá trình hoàn thiện nhân cách của người học. Chú trọng xây dựng đội ngũ học viên có động cơ học tập, rèn luyện đúng đắn, chấp hành nghiêm quy chế giáo dục đào tạo; tích cực đổi mới phương pháp học tập, phát huy cao độ tính tích cực, chủ động, sáng tạo, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo, không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực, hoàn thành tốt mục tiêu, yêu cầu đào tạo. Xây dựng và thực hiện các phong trào học tập, rèn luyện; thường xuyên coi trọng sơ, tổng kết rút kinh nghiệm về nhiệm vụ giáo dục đào tạo và công tác quản lý trong đơn vị. Lãnh đạo và kiểm tra cán bộ, đảng viên, quần chúng trong việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định; bảo đảm mọi người gương mẫu, tự giác thực hiện, góp phần vào hoàn thành thắng lợi các nhiệm vụ, kế hoạch công tác của đơn vị.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Học viện Chính trị nhiệm kỳ 2020-2025 đánh giá: “Công tác quản lý, rèn luyện học viên được duy trì có nền nếp. Động cơ, thái độ, ý thức, trách nhiệm trong học tập, rèn luyện của học viên có sự chuyển biến tích cực, chất lượng được nâng lên, đáp ứng tốt mục tiêu, yêu cầu đào tạo” [32].
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Học viện Quân y nhiệm kỳ 2020-2025 đánh giá: “Đổi mới công tác quản lý đào tạo, quản lý học viên, sinh viên theo hướng cải cách hành chính, lấy ứng dụng công nghệ thông tin làm nền tảng đảm bảo được tính khoa học, chính xác và thực chất. Tiếp tục rà soát, bổ sung triển khai xây dựng đồng bộ các quy chế, quy định cho các đối tượng đào tạo ở các bậc học. Duy trì nghiêm lên xuống lớp tại các giảng đường, bệnh viện, labo. Chủ động phối hợp với các cơ sở thực hành trong và ngoài Học viện tăng cường quản lý học viên, sinh viên tham gia thực tập bệnh viện, thực tập tuyến góp phần tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong dạy và học thực hành lâm sàng. Thường xuyên tổ chức tốt các hoạt động ngoại khóa, hội thi, hội thao gắn với các kỹ năng mềm đáp ứng khả năng thực hành toàn diện của học viên, sinh viên sau ra trường” [38].
Đối với các đơn vị bảo đảm phục vụ: Đã quán triệt và thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên. Nắm vững chức năng, nhiệm vụ của đơn vị tổ chức thực hiện có hiệu quả mọi nhiệm vụ được giao, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, học tập, nghiên cứu khoa học của nhà trường. Xây dựng quan điểm, thái độ phục vụ đúng đắn, động viên mọi người thường xuyên học tập, không ngừng nâng cao trình độ kiến thức và tay nghề nghiệp vụ chuyên môn, đẩy mạnh thi đua, phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và hiệu quả kinh tế. Quản lý tốt cơ sở vật chất kỹ thuật, thực hành tiết kiệm, giữ đúng nguyên tắc, chế độ; không để thất thoát, lãng phí tài sản, vật tư, không để xảy ra mất an toàn trong đơn vị. Phát huy quyền làm chủ của cán bộ, chiến sĩ, nhân viên trong công tác đảm bảo, phục vụ, thực hiện dân chủ, công bằng, công khai, chống tham nhũng, chống lãng phí.
Các TCCSĐ lãnh đạo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện có chuyển biến ngày càng vững chắc
Các cơ quan, đơn vị luôn vững mạnh về chính trị, đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ được giao. Cán bộ, đảng viên, quần chúng luôn có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, lối sống trong sạch, lành mạnh, kiên định, đoàn kết, thống nhất cao, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Công tác tuyên truyền, cổ động, văn hóa, văn nghệ luôn bám sát nhiệm vụ của Học viện và các sự kiện, các ngày lễ, ngày kỷ niệm; triển khai tích cực, chủ động, đổi mới về nội dung, đa dạng về hình thức, đạt hiệu quả thiết thực. Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” đã được cấp ủy, chỉ huy các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện chặt chẽ, toàn diện, đồng bộ, với nhiều cách làm mới có tính sáng tạo. Thực hiện tốt công tác bảo vệ an ninh, công tác dân vận, chính sách. Các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân được thường xuyên quan tâm, củng cố, xây dựng vững mạnh, hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ, thực hiện có hiệu quả các chương trình, phong trào đề ra. Quy chế dân chủ ở cơ sở được triển khai thực hiện nghiêm túc, nội bộ đơn vị đoàn kết, thống nhất cao.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường Sĩ quan Thông tin nhiệm kỳ 2020-2025 đánh giá: “Lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp có hiệu quả giữ vững được ổn định chính trị; đời sống văn hóa tinh thần, công tác chính sách, dân vận thường xuyên được quan tâm; phát huy có hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng và hội đồng quân nhân” [49].
Công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu; công tác hành chính quân sự, xây dựng chính quy, quản lý, rèn luyện kỷ luật có nhiều chuyển biến tích cực, ngày càng đi vào nền nếp, có chiều sâu
Các đơn vị đã giáo dục, quán triệt và thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, kế hoạch của cấp trên về nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chấp hành kỷ luật. Thực hiện nghiêm túc chế độ trực chỉ huy, trực ban, trực chiến, trực nghiệp vụ, canh gác, chấp hành nghiêm quy định về đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông. Lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện nghiêm túc kế hoạch xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện“Mẫu mực, tiêu biểu”. Duy trì nghiêm túc các nền nếp, chế độ quy định về xây dựng chính quy, quản lý, rèn luyện kỷ luật, phòng chống dịch Covid-19. Hệ thống bảng, biển công tác, sổ sách, văn bản hành chính quân sự đầy đủ, ghi chép rõ ràng; bố trí, sắp đặt nơi ăn, ở, sinh hoạt thống nhất, đúng quy định. Cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ chấp hành nghiêm kỷ luật quân đội, các quy định của Học viện; quản lý chặt chẽ giấy ra vào giờ hành chính, bảo đảm an toàn tuyệt đối trong tham gia giao thông. Thực hiện nghiêm túc kế hoạch huấn luyện quân sự. Phong trào thể dục, thể thao, rèn luyện thể lực của toàn hệ được duy trì và tự giác rèn luyện tích cực, rộng khắp, đạt kết quả tốt.
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Học viện Chính trị nhiệm kỳ 2020-2025 đánh giá: “Lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt thực hiện tốt khâu đột phá “Đẩy mạnh xây dựng chính quy, cải cách hành chính”, tạo sự chuyển biến rõ rệt về nhận thức và hành động trong xây dựng chính quy, quản lý, rèn luyện kỷ luật. Triển khai thực hiện nghiêm túc Nghị quyết chuyên đề của Đảng ủy Học viện về “Lãnh đạo nâng cao chất lượng xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật, pháp luật của Học viện Chính trị giai đoạn 2019-2025”; Quy định 1234/QĐ-HV1 của Giám đốc Học viện về “Quy định thực hiện các chế độ chính quy ở Học viện Chính trị. Tuyệt đại bộ phận cán bộ, học viên, nhân viên, chiến sĩ có ý thức tự giác cao trong chấp hành pháp luật, kỷ luật” [32].
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường Sĩ quan Lục quân 2 nhiệm kỳ 2020-2025 đánh giá: “Toàn trường triển khai thực hiện quyết liệt chủ trương xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện mẫu mực, tiêu biểu; tích cực thực hiện đột phá về điều lệnh; duy trì nghiêm các chế độ trực, tuần tra, canh gác, kiểm soát quân sự; công tác quản lý, rèn luyện kỷ luật được tăng cường. Phối hợp với địa phương phòng chống các tệ nạn xã hội, bảo đảm an ninh, an toàn khu gia đình và địa bàn đóng quân” [44].
Bảo đảm tốt công tác hậu cần, kỹ thuật và tài chính cho các nhiệm vụ; xây dựng đơn vị ngày càng khang trang, xanh, sạch, đẹp. Các đơn vị thường xuyên bảo đảm tốt về tiêu chuẩn định lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là trong điều kiện quân số ăn đông, dịch bệnh covid-19 kéo dài. Phối hợp với các cơ quan tổ chức tốt công tác hậu cần, kỹ thuật, chủ động củng cố, xây dựng doanh trại, quản lý chặt chẽ các trang thiết bị, sử dụng an toàn, tiết kiệm điện nước, tiếp nhận, cấp phát quân tư trang, các tiêu chuẩn chế độ đủ và đúng thời gian quy định. Quản lý chặt chẽ vũ khí trang bị, kỹ thuật bảo đảm an toàn tuyệt đối về người và vũ khí trang bị, an toàn khi tham gia giao thông.
Kết quả xây dựng các đảng bộ, chi bộ ngày càng nâng lên, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ. Các cấp ủy, chi bộ đã bám sát nhiệm vụ chính trị và tình hình đơn vị, có chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát, đúng, kịp thời. Quan tâm lãnh đạo tổ chức thực hiện nghiêm Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) của Đảng, gắn với thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 87 của Thường vụ Quân ủy Trung ương và tiếp tục đẩy mạnh việc học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Chủ động xây dựng, bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện và thực hiện nghiêm túc quy chế làm việc của đảng uỷ, quy chế lãnh đạo trên các mặt công tác; bổ sung, kiện toàn cấp uỷ khi có biến động; chấp hành nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; các chế độ sinh hoạt học tập, ra nghị quyết lãnh đạo, tự phê bình và phê bình thực hiện có nền nếp, chất lượng ngày càng cao. Thường xuyên làm tốt việc bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho đội ngũ cấp ủy viên và cán bộ, đảng viên. Phương pháp, tác phong lãnh đạo của cấp ủy, cán bộ các cấp thường xuyên được đổi mới, phát huy dân chủ, nói đi đôi với làm; nội bộ đoàn kết thống nhất cao, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên kiên định vững vàng, khiêm tốn, giản dị, gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống.
Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên và phát triển đảng viên mới thường xuyên được coi trọng, đội ngũ đảng viên không ngừng trưởng thành về mọi mặt. Việc đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên, cấp ủy viên gắn với nhận xét, đánh giá cán bộ được thực hiện tốt hơn.
Công tác quy hoạch, nhận xét, đánh giá cán bộ được thực hiện chặt chẽ, đúng quy chế, quy trình, quy định. Thực hiện tốt việc xét, đề nghị cử cán bộ đi thực tế, đi đào tạo, bồi dưỡng, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Thực hiện tốt việc lấy phiếu tín nhiệm đối với cấp ủy viên, cán bộ chỉ huy, quản lý các cấp. Quan tâm làm tốt công tác chính sách cán bộ và hậu phương gia đình cán bộ.
Công tác kiểm tra, giám sát luôn bám sát nhiệm vụ chính trị, tình hình đảng bộ, chi bộ, chủ động ngăn ngừa, khắc phục những khâu yếu, mặt yếu, góp phần xây dựng các cấp uỷ, chi bộ trong sạch vững mạnh, xây dựng đội ngũ đảng viên tiền phong, gương mẫu đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Quá trình kiểm tra, giám sát được tiến hành chặt chẽ, đúng quy trình; kết hợp tốt giữa kiểm tra, giám sát cấp uỷ, chi bộ với kiểm tra đảng viên là cán bộ chủ trì. Chủ động kiểm tra cấp uỷ, chi bộ, đảng viên có dấu hiệu vi phạm, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm kỷ luật.
3.1.2. Những hạn chế, khuyết điểm
Một là, một số cấp uỷ, cán bộ chủ trì các cơ quan, đơn vị chưa nhận thức đầy đủ và đề cao vai trò, trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng
Nhận thức của một số cấp uỷ và cán bộ chủ trì chưa thực sự đầy đủ về sự cần thiết phải bồi dưỡng nâng cao chất lượng thực hiện nghị quyết dẫn đến thiếu quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng. Cho nên, mặc dù, đảng uỷ, ban giám đốc (ban giám hiệu) nhà trường, các cơ quan chức năng, hàng năm đều có chủ trương, kế hoạch, hướng dẫn cụ thể về vấn đề thực hiện nghị quyết, tuy nhiên một số cấp uỷ, cán bộ chủ trì thực hiện chưa nghiêm túc, xác định chủ trương biện pháp lãnh đạo của cấp uỷ về nâng cao chất lượng thực hiện nghị quyết còn chung chung, chưa có kế hoạch triển khai tổ chức thực hiện cụ thể, công tác kiểm tra, giám sát của một số cấp uỷ, chi bộ còn đơn giản, hình thức, công tác sơ kết, tổng kết tiến hành chưa thường xuyên. Qua trao đổi với một số bí thư đảng uỷ và bí thư chi bộ, việc quán triệt, nghiên cứu về chủ trương, nội dung, biện pháp đổi mới nâng cao chất lượng thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng, nhận thấy: có thời điểm chưa tích cực, còn thiếu những chủ trương, biện pháp cụ thể; xây dựng kế hoạch, hướng dẫn về tiến hành hoạt động nâng cao chất lượng thực hiện nghị quyết còn thiếu coi trọng khâu kiểm tra uốn nắn những sai sót, lệch lạc trong tổ chức thực hiện các khâu, bước trong quy trình thực hiện nghị quyết. Một số tổ chức cơ sở đảng, nhất là cấp uỷ, chi bộ ở đơn vị chưa nắm vững chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo, nên có mặt, có nhiệm vụ còn lúng túng, năng lực quán triệt, cụ thể hoá nghị quyết, chỉ thị còn hạn chế, nghị quyết của chi bộ, đảng bộ cơ sở sao chép máy móc, chủ trương biện pháp chung chung dàn trải, phân công tổ chức thực hiện không cụ thể. Qua khảo sát về tầm quan trọng và sự cần thiết nâng cao chất lượng thực hiện nghị quyết cho thấy có 5% ý kiến được hỏi đánh giá ở mức bình thường [Phụ lục 2].
Một số cán bộ chủ trì nhận thức, trách nhiệm trong thực hiện nghị quyết còn đơn giản, hời hợt, trách nhiệm trước tập thể cấp uỷ, tổ chức đảng chưa cao; trình độ, năng lực, kinh nghiệm chưa toàn diện, khả năng quán triệt, cụ thể hóa chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của cấp trên, nghị quyết cấp mình chưa sát với thực tiễn đơn vị; phương pháp, tác phong công tác không sâu sát, chưa cụ thể, thiếu tỉ mỉ, chưa quan tâm toàn diện đến mọi hoạt động của đơn vị; trong tổ chức hoạt động thực tiễn còn lúng túng, không nhạy bén, thiếu sáng tạo, chưa linh hoạt; nhận thức chưa thật đầy đủ, chưa xác định rõ trách nhiệm cá nhân trước cấp uỷ, tổ chức đảng, ỷ lại vào tập thể.
Một số ít cán bộ chủ trì nhận thức và giải quyết mối quan hệ với cấp ủy, cán bộ cùng cấp chưa đầy đủ, xác định vai trò là cấp uỷ viên với chức trách, nhiệm vụ của cán bộ chủ trì chưa rõ ràng. Giải quyết mối quan hệ giữa người chỉ huy với bí thư cấp ủy cùng cấp còn có biểu hiện “dĩ hoà vi quý”, nể nang, né tránh. Công tác kiểm tra của một số cán bộ chủ trì đối với việc thực hiện nghị quyết chưa thường xuyên, thiếu sâu sát, chưa kịp thời phát hiện và chỉ đạo giải quyết dứt điểm những khâu yếu, mặt yếu còn tồn tại ở đơn vị.
Tính bao quát công việc còn hạn chế, cách thức tổ chức, điều hành, sắp xếp công việc ở một số đơn vị chưa khoa học; chất lượng hiệu quả thực hiện nhiệm vụ thấp; chưa tích cực tự học, tự nghiên cứu, tự rèn luyện nâng cao trình độ toàn diện. Qua khảo sát, đánh giá về năng lực tổ chức, chỉ huy, điều hành thực hiện nhiệm vụ của cán bộ chủ trì cho thấy có 9% ý kiến đánh giá ở mức trung bình [Phụ lục 2]; đánh giá xếp loại đối với cán bộ hằng năm tỷ lệ hoàn thành chức trách, nhiệm vụ còn cao [Phụ lục 4]. Điều đó khẳng định một số cán bộ chủ trì trình độ, năng lực tổ chức hoạt động thực tiễn còn lúng túng, thiếu nhạy bén, chưa sáng tạo, ý thức, trách nhiệm với cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao chưa cao; còn ảnh hưởng của bệnh hình thức, một bộ phận cán bộ ngại khó, ngại khổ, đổ lỗi cho khách quan, chất lượng hoàn thành nhiệm vụ thấp.
Hai là, nội dung, biện pháp thực hiện nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng có mặt chưa được chú trọng, chất lượng còn chưa cao
Việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết cho cán bộ, đảng viên, quần chúng ở một số cơ quan, đơn vị chưa được chú trọng
Việc tổ chức học tập, quán triệt nghị quyết cho cán bộ, đảng viên, quần chúng trong cơ quan, đơn vị ở một số đảng ủy chưa được chú trọng. Một số đảng ủy, chi bộ, một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa nhận thức đầy đủ vai trò quan trọng của việc tổ chức học tập, quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết; vai trò lãnh đạo của một số cấp ủy, chi bộ trong tổ chức thực hiện nghị quyết chưa cao. Một số đồng chí bí thư (phó bí thư), đảng ủy viên được ủy quyền khi quán triệt, phổ biến nghị quyết còn hạn chế, nặng về nội dung, ít liên hệ thực tiễn cơ quan, ngành, đơn vị mình. Đặc biệt, chưa nêu được những ưu điểm, khuyết điểm về các mặt hoạt động và phong trào ở các cơ quan, đơn vị có liên quan đến việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện nghị quyết. Phương pháp quán triệt còn đọc nguyên văn nghị quyết, chưa tóm tắt những nội dung chính, nhấn mạnh các khâu đột phá, nhiệm vụ trọng tâm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo. Công tác tổ chức, quản lý các lớp quán triệt nghị quyết có buổi chưa chặt chẽ; quân số chưa bảo đảm; một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng tinh thần, thái độ nghiên cứu, quán triệt nghị quyết chưa nghiêm túc. đã làm hạn chế kết quả học tập, nghiên cứu, quán triệt nghị quyết.
Qua khảo sát, có 18% ý kiến được hỏi đánh giá về chất lượng phổ biến, quán triệt nghị quyết của tổ chức cơ sở đảng đến các tổ chức, các lực lượng, cán bộ, đảng viên ở mức trung bình; có 28% ý kiến được hỏi nắm nội dung cơ bản của nghị quyết còn chưa chắc [Phụ lục 2].
Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Trường Sĩ quan Chính trị lần thứ X nhiệm kỳ 2020 - 2025 chỉ rõ: “Cấp ủy, chỉ huy một số cơ quan, khoa, đơn vị chưa phát huy tốt vai trò, trách nhiệm; nghiên cứu, quán triệt, cụ thể hóa nghị quyết, kết luận, chỉ thị, hướng dẫn của trên vào cấp mình chưa tích cực, chủ động, sáng tạo; xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo thiếu cụ thể, chưa tập trung vào các khâu đột phá, nhiệm vụ then chốt, trọng điểm” [40].
Việc cụ thể hóa nghị quyết thành kế hoạch, chương trình hoạt động của chỉ huy các cấp, tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân có lúc chưa kịp thời, chất lượng chưa cao
Ở một số đơn vị, công tác lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động thực hiện nghị quyết của chỉ huy các cấp, tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân còn chậm. Một số nội dung trong kế hoạch, chương trình hoạt động chưa sát thực tế, còn qua loa, chiếu lệ.
Trong xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động thực hiện nghị quyết còn chung chung, thiếu cụ thể, chưa bám sát thực trạng khâu yếu, mặt yếu của từng cơ quan, đơn vị và chất lượng đội ngũ cán bộ, giảng viên (giáo viên), học viên, nhân viên, chiến sĩ để có nội dung, hình thức biện pháp phù hợp. Nội dung chưa tập trung khắc phục những khâu yếu, mặt yếu. Trong quá trình tiến hành xây dựng kế hoạch, chương trình hoạt động, một số cán bộ chủ trì thiếu tính linh hoạt, sáng tạo, còn dựa giẫm vào sự hướng dẫn của cấp trên từ nội dung đến hình thức, phương pháp. Vì vậy, nội dung kế hoạch, chương trình hoạt động còn chung chung, chưa bám sát chức năng, nhiệm vụ, chưa bám sát thực tiễn hoạt động của cơ quan, đơn vị; hình thức, phương pháp chưa thực sự đa dạng, phong phú, khoa học.
Ở một số cấp ủy, chi bộ, có lúc phân công thực hiện nghị quyết của cấp uỷ còn chung chung, chưa rõ ràng, phân định quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp uỷ viên và trách nhiệm của cán bộ chủ trì chưa rành mạch, chưa sát với cương vị, chức trách của từng cán bộ, đảng viên. Dẫn đến hiện tượng ỷ lại, dựa dẫm, chồng chéo, bỏ sót nhiệm vụ trong thực hiện nghị quyết ở cơ quan, đơn vị.
Năng lực cụ thể hoá nghị quyết thành kế hoạch, chương trình hoạt động của chỉ huy các cấp, tổ chức quần chúng, hội