Luận án Chính quyền đô thị thông minh cấp tỉnh tại Việt Nam giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

Danh mục các ký hiệu, chữ viết tắt

Danh mục các thuật ngữ

Danh mục các bảng, biểu đồ, hình vẽ.0

MỞ ĐẦU.1

1. Lý do chọn đề tài .1

2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.3

3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu.4

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.4

5. Câu hỏi nghiên cứu và Giả thuyết khoa học .7

6. Đóng góp của đề tài trong lĩnh vực nghiên cứu .8

7. Cấu trúc của Luận án.9

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH QUYỀN

ĐÔ THỊ THÔNG MINH.10

1.1. Các công trình nghiên cứu về xây dựng đô thị thông minh .10

1.1.1. Công trình nghiên cứu nước ngoài.11

1.1.2. Công trình nghiên cứu trong nước.16

1.2. Các đề tài nghiên cứu về Chính quyền đô thị thông minh .21

1.2.1. Đề tài nghiên cứu nước ngoài.21

1.2.2. Các công trình nghiên cứu trong nước.25

1.3. Đánh giá khái quát các công trình liên quan và những vấn đề đặt ra cần

tiếp tục nghiên cứu trong Luận án.31

1.3.1. Những vấn đề mà các công trình liên quanđến đề tài Luận án đã đạt được.31

1.3.2. Những vấn đề đặt ra cho Luận án cần tập trung nghiên cứu.32

Tiểu kết Chương 1.35

Chương 2: CƠ SỞ KHOA HỌC VỀ CHÍNH QUYỀN ĐÔ THỊ THÔNG MINH

CẤP TỈNH.36

2.1. Các khái niệm cơ bản .36

2.1.1. Công nghệ thông tin, vai trò của Công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước.36

2.1.2. Khái niệmđô thị, đô thị cấp tỉnh và đô thị thông minh.37

2.1.3. Khái niệm Chính quyền, Chính quyền địa phương, Chính quyền đô thị.39

2.2. Một số vấn đề lý luận về Chính quyền thông minh và xây dựng Chính

quyền thông minh.45

2.2.1. Khái niệm Chính quyền điện tử, Chính quyền thông minh .45

2.2.2. Vai trò và lợi ích của Chính quyền thông minh.492.2.3. Các mô hình giao dịch trong Chính quyền thông minh.50

2.2.4. Sự khác nhau giữa Chính quyền truyền thống và Chính quyền thông minh.51

2.2.5. Các điều kiện cơ bản trong xây dựng Chính quyền thông minh.53

2.3. Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng Chính quyền điện tử hướng đến

Chính quyền thông minh tại một số quốc gia trên thế giới và giá trị tham khảo

cho Việt Nam.61

2.3.1. Mô hình, cách thức xây dựng Chính quyền điện tử tại Hoa Kỳ.62

2.3.2. Chính quyền điện tử tại Vương quốc Anh.68

2.3.3. Chính phủ điện tử tại Australia.71

2.3.4. Chính phủ điện tử tại Singapore.78

2.3.5. Bài học kinh nghiệm trong xây dựng Chính quyền thông minh rút ra từ các

quốc gia trên.84

Tiểu kết Chương 2.86

pdf237 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 408 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chính quyền đô thị thông minh cấp tỉnh tại Việt Nam giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho CPĐT Việt Nam. 99 “Khung Kiến trúc CPĐT Việt Nam phiên bản 2.0 yêu cầu rõ Kiến trúc Chính phủ điện tử /Chính quyền điện tử của các Bộ, ngành, địa phương phải được xây dựng, cập nhật theo năm (5) kiến trúc thành phần gồm nghiệp vụ, dữ liệu, ứng dụng, công nghệ và an toàn thông tin. Đây là điểm thay đổi căn bản so với phiên bản 1.0 khi các bộ, ngành, địa phương xây dựng, cập nhật Kiến trúc”. Hình 3.5: Khung kiến trúc CQĐT (CPĐT) Việt Nam phiên bản 2.0 (Nguồn ảnh: Cục Tin học hóa - Bộ TTTT) 100 3.2. Thực trạng các điều kiện xây dựng Chính quyền thông minh tại các đô thị cấp tỉnh ở Việt Nam 3.2.1. Điều kiện về thể chế pháp lý trong xây dựng và phát triển Chính quyền thông minh Những năm qua, xây dựng CPĐT, CQĐT các cấp luôn được Đảng, Nhà nước xác định là nhiệm vụ quan trọng và luôn quan tâm, coi trọng phát triển ứng dụng CNTT, đặc biệt là ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, tạo hành lang pháp lý cho việc thúc đẩy ứng dụng CNTT. CNTT được coi là một công cụ hữu hiệu tạo lập phương thức phát triển mới và bảo vệ Tổ quốc; là động lực quan trọng phát triển kinh tế tri thức, xã hội thông tin, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong quá trình hội nhập quốc tế; góp phần đẩy mạnh CNH, HĐH, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững đất nước. Ngày 01/7/2014, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Trong Nghị quyết 36-NQ/TW, Bộ Chính trị xác định rõ những mục tiêu ngành CNTT Việt Nam cần đạt được thời gian tới: “CNTT phải được ứng dụng rộng rãi và trở thành một ngành kinh tế có tác động lan toả trong phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, góp phần nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh quốc gia, chất lượng cuộc sống, chỉ số phát triển con người Việt Nam, nâng cao khả năng phòng thủ quốc gia trong chiến tranh mạng, đến năm 2030, đưa năng lực nghiên cứu, ứng dụng, phát triển, sản xuất và cung ứng sản phẩm, dịch vụ CNTT đạt trình độ tiên tiến thế giới; Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về CNTT và bằng CNTT”. Được xây dựng trên cơ sở kế thừa một số quan điểm lớn của Chỉ thị 58, Nghị quyết 36-NQ/TW được Bộ Chính trị bổ sung, làm rõ thêm những quan điểm mới về ứng dụng và phát triển CNTT trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Đơn cử, một trong bốn (04) quan điểm lớn nêu trong Nghị quyết 36 là: “đầu 101 tư cho CNTT là đầu tư cho phát triển và bảo vệ đất nước, cần được đi trước một bước trên cơ sở quản lý tốt; tăng cường khả năng làm chủ, sáng tạo công nghệ, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, giữ vững chủ quyền quốc gia trên không gian mạng”. Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị là một bước tiến dài so với Chỉ thị 58-CT/TW ngày 17/10/2000. Văn bản này được kỳ vọng sẽ mở ra vận hội mới cho CNTT Việt Nam, để Việt Nam sớm thành quốc gia mạnh về CNTT và bằng CNTT. Từ khi Chỉ thị 58-CT/TW về đẩy mạnh ứng dụng và phát triển CNTT phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa (Chỉ thị 58) được Bộ Chính trị ban hành đến nay, có thể thấy từ tình trạng lạc hậu, phát triển chậm, có nguy cơ tụt hậu xa hơn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới, CNTT Việt Nam đã phát triển vượt bậc, trở thành một ngành kinh tế kỹ thuật hiện đại, đóng góp ngày càng lớn vào quá trình phát triển đất nước. đặc biệt, vai trò, vị thế của CNTT Việt Nam đã ngày càng được khẳng định. Không chỉ lan toả rộng rãi, giữ vai trò “chủ công” trong mọi mặt đời sống xã hội, những năm qua CNTT của Việt Nam còn liên tục cải thiện vị thế, thứ hạng trên trường quốc tế. Ngày 15/4/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 26/NQ-CP về việc ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 36- NQ/TW ngày 01/7/2014 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế. Theo đó, mục tiêu của Chương trình nhằm tổ chức thể chế hóa và thực hiện đầy đủ các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đã đề ra trong Nghị quyết số 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế; thực hiện thành công Đề án “Đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT-TT”. Chương trình cũng đồng thời nhằm xác định các nhiệm vụ để các Bộ, ngành, địa phương xây dựng kế hoạch hành động, tổ chức triển khai, kiểm tra, giám sát, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 36- 102 NQ/TW, để CNTT thực sự trở thành phương thức phát triển mới, nâng cao năng suất lao động, hiệu quả hoạt động, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của quốc gia, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực hiện công việc của Chính phủ giao, để đạt được các mục tiêu của Nghị quyết số 36- NQ/TW đề ra, trong thời gian tới, bên cạnh các nhiệm vụ thường xuyên, các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cần cụ thể hóa và tổ chức triển khai thực hiện: Đổi mới, nâng cao nhận thức và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với ứng dụng, phát triển CNTT; Xây dựng, hoàn thiện cơ chế, chính sách pháp luật về ứng dụng, phát triển CNTT; Xây dựng hệ thống hạ tầng thông tin quốc gia đồng bộ, hiện đại; Ứng dụng CNTT rộng rãi, thiết thực, có hiệu quả cao; Phát triển công nghiệp CNTT, kinh tế tri thức; Phát triển nguồn nhân lực CNTT đạt chuẩn quốc tế, đẩy mạnh nghiên cứu, ứng dụng, tiếp thu, làm chủ, sáng tạo công nghệ mới; Đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong quốc phòng, an ninh; Bảo đảm an toàn, an ninh thông tin, nâng cao năng lực quản lý các mạng viễn thông, truyền hình, Internet, Đặc biệt lần đầu tiên có một Văn bản quy phạm pháp luật về Chính phủ điện tử đó là Nghị quyết 36a/NQ-CP ngày 14/10/2015 của Chính phủ. Nghị quyết đã hướng tới 3 mục tiêu chủ yếu để xây dựng CPĐT là: Liên thông văn bản điện tử từ Chính phủ đến cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã; 100% DVC được cung cấp qua mạng điện tử; Xây dựng Cổng DVC quốc gia tại một địa chỉ duy nhất trên mạng điện tử. Các bộ, ngành và các địa phương đã tích cực triển khai thực hiện Chỉ thị, Nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các Nghị định, Nghị quyết của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về đẩy mạnh phát triển và ứng dụng CNTT. Hầu hết các bộ, ngành và địa phương đã ứng dụng CNTT giải quyết các TTHC, rút ngắn thời gian xử lý hồ sơ, giảm chi phí hoạt động; tăng tính minh bạch trong hoạt động của cơ quan nhà nước, tạo thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp. Việc đẩy mạnh phát triển, ứng dụng CNTT trên 103 tất cả các lĩnh vực đã góp phần tháo gỡ nhiều khó khăn, vướng mắc, tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và quản trị xã hội. Thành phố Hà Nội cũng như các đô thị cấp tỉnh cũng đã ban hành các văn bản để triển khai, thực hiện các Nghị Quyết của Chính phủ. Trong đó có thể kể đến Kế hoạch số 76/KH-UBND ngày 22/3/2021 được UBND thành phố Hà Nội ban hành thực hiện Kế hoạch số 205-KH/TU ngày 10/9/2020 của Thành ủy Hà Nội về triển khai thực hiện Nghị quyết số 52-NQ/TƯ ngày 27/9/2019 của Bộ Chính trị về một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Cách mạng công nghệ số. Kế hoạch triển khai thực hiện Nghị định số 87/2020/NĐ-CP ngày 28/7/2020 của Chính phủ quy định về cơ sở dữ liệu (CSDL) hộ tịch điện tử, đăng ký hộ tịch trực tuyến trên địa bàn TP. Hà Nội; Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của cơ quan nhà nước, phát triển Chính quyền số và bảo đảm an toàn thông tin mạng TP. Hà Nội năm 2021; Kế hoạch Phát triển hạ tầng Bưu chính - Viễn thông phục vụ Chương trình chuyển đổi số TP Hà Nội đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Trên đây là những thuận lợi về mặt thể chế pháp lý trong công tác xây dựng CQTM tại các đô thị cấp tỉnh ở nước ta. Tuy nhiên một số cơ quan chưa xây dựng quy chế về quản lý, sử dụng hệ thống thư điện tử, hoặc đã xây dựng nhưng chưa quy định rõ quy trình công việc khi ứng dụng thư điện tử, các loại văn bản bắt buộc được gửi qua hệ thống thư điện tử. Về môi trường pháp lý: Một số văn bản quy phạm pháp luật luật liên quan đến CPĐT đang được khẩn trương xây dựng như: Luật Giao dịch điện tử do Uỷ ban Khoa học Công nghệ và Môi trường của Quốc hội chủ trì. Nghị định của Chính phủ về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số (do Bộ TTTT chủ trì). Luật CNTT do Bộ Thông tin Truyền thông chủ trì. Nghị định của Chính phủ quy định việc nghiên cứu, sản xuất và sử dụng mật mã không 104 thuộc phạm vi bí mật nhà nước do Ban Cơ yếu Chính phủ chủ trì. Các văn bản này đang góp phần hình thành nên môi trường pháp lý, giúp cho CPĐT được xây dựng và phát triển. Tuy nhiên, năng lực xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực CNTT-TT còn nhiều hạn chế, đầu mối quản lý về việc rà soát, điều chỉnh và xây dựng mới các Văn bản quy phạm pháp luật ứng dụng CNTT-TT vẫn còn tản mạn, việc ban hành các Văn bản quy phạm pháp luật bị chậm trễ. Bí mật, bảo mật, an toàn, an ninh thông tin nhìn chung liên quan đến việc bảo vệ các tài sản của hệ thống thông tin và kiểm soát việc truy cập thông tin. Các chính sách và chiến lược về an ninh thường được xây dựng cụ thể tuỳ thuộc bối cảnh và thông tin. Sự riêng tư với những thông tin liên quan đến cá nhân (còn được gọi là “thông tin định danh”) và sẽ được xử lý với mức độ bảo vệ phù hợp. Luật bảo vệ các thông tin mang tính riêng tư thường được đặt ra để quy định về vấn đề trên. Việc bảo vệ sự riêng tư của công dân và đảm bảo rằng các thông tin cá nhân của họ sẽ không bị làm hại là một vấn đề hết sức quan trọng trong CQĐT bởi vì đây là điều chính yếu trong việc lấy được niềm tin của dân chúng. Nếu không có được sự đảm bảo này, không một người nào sẽ ngay lập tức sử dụng các dịch vụ của CQĐT. An toàn, bảo mật, an ninh thông tin, môi trường pháp lý là các nền tảng cơ bản để các DVC phục vụ người dân và doanh nghiệp được thực hiện trong CPĐT. Môi trường pháp lý ở Việt Nam đang hình thành; các kỹ thuật và công nghệ, hạ tầng hóa công khai về giữ gìn bí mật, an toàn, an ninh thông tin cho kinh tế-xã hội mới đang ở giai đoạn triển khai thí điểm. 3.2.2. Bộ máy quản lý Nhà nước tại các đô thị cấp tỉnh hiện nay Phân cấp hành chính ở Việt Nam theo chiều dọc, gồm bốn (04) cấp từ trung ương đến địa phương: cấp Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Mô hình này hiện được áp dụng tại cả khu vực nông thôn và đô thị. Trong khi đó đặc điểm, điều kiện kinh tế-xã hội ở khu vực nông thôn và đô thị có sự 105 khác biệt rất lớn, nhất là tại các khu vực đô thị lớn, các thành phố trực thuộc Trung ương ở Việt Nam. Việc tổ chức mô hình hành chính bốn cấp hiện nay ở cả nông thôn và đô thị đang khiến cho bộ máy hành chính nhà nước Việt Nam quá cồng kềnh. Việc quản lý, xử lý công việc, các TTHC thông qua 4 cấp khiến mất rất nhiều thời gian. Chưa nói đến những chức năng, đặc trưng riêng của đô thị có sự khác biệt rất lớn với khu vực nông thôn. Có những thủ tục cần xử lý nhanh nhưng do tổ chức hành chính như vậy, sẽ làm kéo dài thời gian giải quyết. Do vậy, việc lựa chọn mô hình Chính quyền đô thị phù hợp đóng vai trò quan trọng, quyết định tới sự phát triển của đô thị cũng như việc ứng dụng CNTT trong xây dựng CQTM. Đô thị là trung tâm kinh tế-xã hội, chính trị, văn hóa của cả một vùng, một quốc gia, thậm chí còn ảnh hưởng tới cả khu vực. Đô thị ngày càng đóng vai trò quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cả một quốc gia, cả khu vực. Trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay, tốc độ phát triển của đô thị là rất nhanh chóng. Vấn đề quản lý đô thị, đặc biệt là chính quyền đô thị luôn được quan tâm coi trọng để quản lý tốt, thúc đẩy đô thị phát triển. Với những chức năng, đặc trưng riêng của đô thị thì việc lựa chọn mô hình chính quyền đô thị phù hợp đóng vai trò quan trọng, quyết định tới sự phát triển của đô thị. Hiện nay, việc ứng dụng CNTT trong bộ máy hành chính nhà nước thúc đẩy tiến trình CCHC. Theo đó việc xây dựng mô hình chính quyền đô thị đang được quan tâm nghiên cứu và triển khai thực hiện. Chính quyền đô thị có thể được hiểu đơn giản là chính quyền ở khu vực đô thị, để phân biệt với Tổ chức chính quyền nông thôn-mô hình truyền thống. Một trong những phương án cải cách bộ máy chính quyền đô thị đang được áp dụng thí điểm hiện nay đó là phương án Xây dựng mô hình tổ chức một cấp chính quyền (thành phố), 01 cấp hành chính (quận, huyện, thị xã) và 01 cơ quan hành chính đại diện (xã, phường, thị trấn). Theo đó, Chính quyền 106 đô thị sẽ không tổ chức HĐND ở cấp quận, phường; tăng mạnh tính chất tự chủ và tự quản của thành phố trong quan hệ với Trung ương và trong giải quyết các vấn đề chỉ có ở đô thị. 3.2.3. Điều kiện về nguồn nhân lực Trước hết là đội ngũ cán bộ, công chức phục vụ trong bộ máy nhà nước: Để đáp ứng cho yêu cầu trong thời đại mới, thời đại Công nghệ 4.0 đòi hỏi chất lượng cán bộ, công chức trong cơ quan, bộ máy nhà nước phải đáp ứng được những yêu cầu nhất định về trình độ CNTT. Theo đó, tại thành phố Hà Nội, tỷ lệ cán bộ chủ chốt cấp Thành phố đã được đào tạo kiến thức cơ bản quản lý điều hành “Cơ quan điện tử” và “Chính quyền điện tử” và các kỹ năng CNTT đạt 80%; tỷ lệ Cán bộ chủ chốt tại đơn vị (cấp Phòng) được đạo tạo về CNTT đạt 40%. Tỷ lệ công chức trong các CQNN thuộc Thành phố được đào tạo về CNTT đạt 100% (tính theo lượt cán bộ được đào tạo). Đối với cán bộ chuyên trách CNTT tại các CQNN của Thành phố được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao về CNTT đạt 100%. Qua tham vấn ý kiến chuyên gia TS. Nguyễn Ngọc Kỳ, Giám đốc Sở TTTT Thành phố về những yếu tố then chốt trong xây dựng CQTM ông cho biết: “(...) nói đến yếu tố then chốt quyết định trong việc xây dựng CQTM thì vẫn phải là yếu tố con người. Bởi lẽ là con người mới tạo ra được các thành tựu CNTT, con người mới có thể ứng dụng được CNTT trong công việc của mình. Đơn giản hơn thì nếu như có CNTT như vậy, nhưng nếu những nhà lãnh đạo không chịu đổi mới tư duy để ứng dụng nó vào trong CCHC thì rõ ràng là một mình CNTT không cũng không thể giải quyết được vấn đề. Mà khi ứng dụng CNTT vào trong công việc rồi mà các cá nhân trong cơ quan, bộ máy ấy lại không có khả năng, năng lực thì rõ ràng là cũng không thể làm được việc”. Khả năng tin học, CNTT của cán bộ, công chức hiện nay là một trong những yếu tố then chốt trong giải quyết công vụ. Qua phỏng vấn sâu TS.Trần 107 Thế Cương, Chủ tịch UBND quận Bắc Từ Liêm, ông cho biết: “Tôi thấy với yêu cầu công việc như hiện nay, thì việc không có trình độ CNTT sẽ khiến cho cán bộ, công chức không thể hoàn thành tốt được công việc được giao. Bởi lẽ là văn bản thì được trao đổi qua môi trường mạng, qua phần mềm quản lý văn bản chung của cả quận, cả phường, anh không nắm bắt được công việc thì nghiễm nhiên không giải quyết được công việc”. Về phương công tác tập huấn, nâng cao kỹ năng, nghiệp vụ tin học, CNTT cho cán bộ, công chức tại địa phương được ông Trần Thế Cương chú trọng và cho biết: “Muốn đưa CNTT vào CCHC thì trước hết cán bộ công chức làm việc trong hệ thống đó phải có đủ trình độ CNTT, điều này không thể khác được. Trung ương cũng như thành phố cũng rất chú trọng công tác bồi dưỡng CNTT cho cả lãnh đạo lẫn cán bộ, công chức tôi thấy như vậy là rất thiết thực. Chương trình bồi dưỡng này hiện nay vẫn đang được thực hiện, cán bộ cấp huyện lẫn cấp xã đều được tham gia đào tạo, bồi dưỡng theo chương trình diễn ra trong 3-5 ngày, sau khoá đào tạo cá nhân tham gia tập huấn phải đảm bảo nắm được các kỹ năng nhất định mới được cấp chứng chỉ, như vậy, mới đảm bảo được tính hiệu quả của các chương trình bồi dưỡng”. Trước khi hợp nhất thành phố Hà Nội đứng trong Top 3 trong cả nước về ứng dụng CNTT trong cơ quan hành chính nhà nước, 90% các đơn vị có cán bộ chuyên trách về CNTT, trong đó có những đơn vị đảm bảo được số lượng cán bộ chuyên trách như: Cục Thuế, Văn phòng Thành Ủy, Văn phòng UBND Thành phố. Cán bộ chuyên trách về CNTT chủ yếu có trình độ Đại học, một số ít cán bộ đã có trình độ Thạc sĩ. Sau khi mở rộng địa giới hành chính, việc ứng dụng CNTT trong hệ thống chính quyền và điều hành tác nghiệp của các cơ quan đơn vị nhà nước trên địa bàn Thành phố bị tụt bậc xếp hạng, đặc biệt là các quận, huyện phía Tây đang ở bước xuất phát điểm. Nguồn lực cán bộ về CNTT còn thiếu về số lượng, hạn chế về chất lượng. Một số CBCCVC chưa có khả năng sử dụng, 108 khai thác dữ liệu trên mạng một cách độc lập và chưa tích cực, chủ động trong việc học tập, tự trang bị kiến thức về CNTT. Hiện nay, Thành phố vẫn rất thiếu cán bộ chuyên trách CNTT giỏi về kỹ thuật đồng thời có kiến thức chuyên môn về QLNN, có đủ khả năng hướng dẫn sử dụng, nâng cao kỹ năng và tham mưu cho lãnh đạo các cấp lập kế hoạch, triển khai các chương trình ứng dụng CNTT tại cơ quan mình. Số cán bộ CNTT của mỗi đơn vị rất ít, mặt khác mỗi cán bộ CNTT lại đảm nhiệm nhiều chức năng. Do vậy nên chưa phát huy được vai trò của cán bộ chuyên trách về CNTT. Đơn vị có cán bộ phụ trách CNTT riêng: 52/59 (88.14%). Số cán bộ làm CNTT từ 3 người trở lên: 15/59 (25.42%). Số cán bộ làm CNTT từ 1 đến 2 người: 37/59 (62.71%). Đơn vị chỉ có cán bộ kiêm nhiệm CNTT: 5/59 (8.47%). Những đơn vị không có Trung tâm CNTT thì có chuyên viên phụ trách CNTT. Phần lớn có trình độ Đại học hoặc Cao đẳng về lĩnh vực CNTT hoặc điện tử viễn thông. Tỷ lệ có chuyên viên phụ trách CNTT ở các đơn vị như sau: - Khối sở ban ngành, số đơn vị có chuyên viên phụ trách CNTT là 28/30 (93.33 %); - Khối quận huyện thị xã, số đơn vị có chuyên viên phụ trách CNTT là 29/29 (100%). Tổng hợp chung tất cả, số đơn vị có chuyên viên phụ trách CNTT là 96.61; Trong số 8% đơn vị chưa có cán bộ chuyên trách CNTT thì hoặc là lãnh đạo Văn phòng hay lãnh đạo Phòng Văn hoá thông tin đảm nhiệm luôn việc này, hoặc là một cán bộ nào đó có biết đôi chút về CNTT được phân công kiêm nhiệm. Do còn hạn chế về trình độ CNTT hoặc hạn chế thời gian nên công việc được giao về CNTT khó đảm bảo chất lượng. 109 Đối với chuyên viên CNTT trong các Trung tâm CNTT, tất cả đều có trình độ đại học trở lên và phần lớn họ đều là biên chế, còn đối với cán bộ hợp đồng chuyên trách CNTT, nền tảng học vấn cũng ít nhất từ Cao đẳng trở lên. Tại thành phố Hồ Chí Minh công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công việc được lãnh đạo Thành phố hết sức quan tâm. Tính đến năm 2015, hoạt động đào tạo nguồn nhân lực được tổ chức linh hoạt, kết hợp giữa đào tạo tập trung và hỗ trợ sử dụng tại chỗ. Thành phố đã tổ chức đào tạo trên 300 lượt cán bộ tin học, tập huấn gần 1.000 cán bộ lãnh đạo và công chức vận hành các hệ thống thông tin; đào tạo ứng dụng tin học tập trung cho 3.100 cán bộ, công chức hành chính. Đến nay, đã đào tạo 3.384 cán bộ, công chức. Đồng thời tổ chức lớp xoá mù, phổ cập tin học cho 150 cán bộ Hội phụ nữ. Những năm gần đây, Đà Nẵng được biết đến như một thành phố năng động với tốc độ tăng trưởng khá ổn định (duy trì trên 9%). Nhiều năm liền, thành phố dẫn đầu cả nước về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI), Chỉ số Hiệu quả quản trị và Hành chính công cấp tỉnh (PAPI), Chỉ số mức độ sẵn sàng ứng dụng CNTT (ICT-Index). Để đạt được những thành quả trên, cần có sự hội tụ của nhiều yếu tố như: sự thay đổi tích cực trong môi trường kinh doanh, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sự bức phá trong cải cách khu vực công và chất lượng nguồn nhân lực. Vì thế, Thành phố luôn kiên trì với quan điểm mang tính chiến lược: gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển kinh tế-xã hội; đặc biệt chú trọng đến việc đào tạo, bồi dưỡng, phát triển năng lực của đội ngũ CBCCVC nhằm đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH. Thành phố đã xây dựng nhiều cơ chế, chính sách thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao, tôn vinh, trọng dụng nhân tài, chính sách đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt là đội ngũ CBCCVC trong CQNN, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ giỏi về chuyên môn, có phong 110 cách làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, thích ứng với sự phát triển và yêu cầu mới của thời đại. Hàng năm, Đà Nẵng cũng ưu tiên cử những người công tác lâu năm; mới tuyển dụng vào công chức, viên chức; học viên Đề án phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao; đối tượng thu hút nguồn nhân lực và cán bộ công chức phường, xã tham gia các khóa bồi dưỡng trình độ, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Đối tượng cử đi đào tạo, bồi dưỡng ngày càng mở rộng cho cả những người hoạt động không chuyên trách xã, cán bộ thôn, tổ dân phố. Ngoài các lớp đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức pháp luật, lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước, Đà Nẵng rất chú trọng bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng theo vị trí việc làm và kỹ năng CNTT. Hiện nay, Đà Nẵng đang triển khai ứng dụng Cổng đào tạo trực tuyến công ích thành phố (E-learning) trên nền tảng Hệ thống thông tin CQĐT. Thành phố đang hướng đến việc xây dựng chương trình đào tạo trực tuyến E- Learning cho CBCCVC và người lao động nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy, phương pháp quản lý theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá”. Theo đó, các cơ quan, đơn vị sẽ xây dựng các khóa đào tạo trực tuyến vào chương trình đào tạo, bồi dưỡng hằng năm và chủ động triển khai các khóa này trên Hệ thống E-learning. Các đối tượng được cử hoặc cho phép tham gia học trực tuyến sẽ sử dụng tài khoản trên Hệ thống thông tin CQĐT của Thành phố và kết quả đánh giá khóa học sẽ được lưu vào Hồ sơ CBCCVC trên phần mềm quản lý CBCCVC của Thành phố. Nhìn chung, tại Đà Nẵng, đào tạo, bồi dưỡng CBCCVC được xác định là một nhiệm vụ thường xuyên, có ý nghĩa quan trọng trong việc nâng cao trình độ chuyên môn, năng lực công tác, chất lượng và hiệu quả làm việc của CBCCVC; tạo được sự thay đổi về chất trong thực thi nhiệm vụ chuyên môn của các cơ quan, đơn vị. Dù đã đạt được một số thành quả nhất định, thành phố vẫn không ngừng nỗ lực đầu tư có chiều sâu trong công tác đào tạo, bồi 111 dưỡng theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp hóa; tích cực học hỏi và áp dụng các phương pháp giảng dạy mới để góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước và đáp ứng được các nhu cầu phát triển của một thành phố trẻ, năng động. Nguồn nhân lực CNTT trong các CQNN thành phố Hải Phòng luôn được Thành phố chú trọng bổ sung, đào tạo, bồi dưỡng. Toàn Thành phố có 104 người có chuyên môn về CNTT có trình độ từ Cao đẳng trở lên. Trong đó, trình độ Thạc sĩ 11 người, chiếm 10,6%; Đại học 85 người, chiếm 81,7%; Cao đẳng 8 người, chiếm 7,7%. Các cán bộ, công chức có trình độ cơ bản về CNTT. Tỷ lệ cán bộ công chức trong các cơ quan QLNN Thành phố có kỹ năng ứng dụng CNTT là 98%. Như vậy, hầu hết cán bộ, công chức trong các cơ quan QLNN Thành phố có đủ trình độ tiếp cận và sử dụng các ứng dụng CNTT. Bình quân mỗi đơn vị có từ 1 đến 2 cán bộ chuyên trách về CNTT. Những năm gần đây Thành phố đã tổ chức nhiều khoá đào tạo, tập huấn CNTT cho cán bộ, công chức, đặc biệt các đối tượng là lãnh đạo (CIO), cán bộ chuyên trách về CNTT thuộc CQNN, nhằm nâng cao kiến thức chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ, công chức và quản lý, điều hành. Vì vậy, ở thời điểm hiện tại, đội ngũ cán bộ, công chức trong các CQNN cơ bản đã áp dụng được một số giải pháp ứng dụng CNTT trong thực thi nhiệm vụ theo vị trí công tác. Chất lượng nguồn nhân lực CNTT còn thấp đặc biệt thiếu các chuyên gia giỏi, những cán bộ có trình độ cao về CNTT. Các sản phẩm phần mềm ứng dụng trong các cơ quan Đảng, Nhà nước đa phần đi thuê từ các nhà cung cấp ở tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Công tác đào tạo, bồi dưỡng ứng dụng CNTT cho cán bộ, công chức cũng như cán bộ chuyên trách CNTT phục vụ cho việc ứng dụng CNTT trong hoạt động của CQNN được Cần Thơ quan tâm đầu tư. Tổng số cán bộ chuyên trách về CNTT trên toàn Thành phố tính đến năm 2015 là 137 cán bộ. Trong đó: 112 - Số cán bộ chuyên trách tại các cơ quan chuyên môn: 86; - Số cán bộ chuyên trách tại UBND quận, huyện và tương đương: 51; - Số cơ quan chuyên môn có cán bộ chuyên trách CNTT: 23; - Số UBND quận, huyện và tương đương có cán bộ chuyên trách CNTT: 09. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ chuyên trách về CNTT (văn bằng trong lĩnh vực CNTT): Thạc sĩ là 16%, Đại học chiếm 81%, và Cao đẳng 3%. Tỷ lệ cán bộ, công chức thường xuyên sử dụng máy tính để xử lý công việc tại các cơ quan chuyên môn đạt 100% và tại UBND quận, huyện và tương đương đạt 100%. Cần Thơ cũng đã tổ chức đào tạo nâng cao trình độ tin học, CNTT cho cán bộ trên toàn Thành phố. Trong thời gian 05 năm đã được tổ chức 66 lớp đào tạo, bồi dưỡng tin học, CNTT cho cán bộ. Tổng số cán bộ được đào tạo của các cơ quan chuyên môn là 946 người. Tổng số cán bộ được đào tạo của UBND quận, huyện và tương đương: 1.387 người. Trong mọi hoạt động, mọi quy trình của CQTM, yếu tố nguồn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chinh_quyen_do_thi_thong_minh_cap_tinh_tai_viet_nam.pdf
  • pdfQD cap HV-NCS Pham Tien Luat.pdf
  • pdfTom tat Luan an tieng Anh.pdf
  • pdfTom tat Luan an tieng Viet.pdf
  • pdfTrang thong tin Luan an.pdf
  • pdfTrich yeu Luan an.pdf
Tài liệu liên quan