Luận án Chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam hiện nay

MỞ ĐẦU.1

Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN

QUAN ĐẾN LUẬN ÁN .14

1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu.14

1.2. Đánh giá tổng quan về những công trình nghiên cứu và những vấn đề đặt

ra luận án cần tiếp tục nghiên cứu .39

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH DỊCH VỤ

CÔNG TRỰC TUYẾN.44

2.1. Khái quát về chính sách công, dịch vụ công, dịch vụ công trực tuyến .44

2.2. Chính sách dịch vụ công trực tuyến .55

2.3. Chính sách cung ứng dịch vụ công trực tuyến tại một số quốc gia trên thế

giới và kinh nghiệm cho Việt Nam.70

Chương 3: THỰC TIỄN CHÍNH SÁCH DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN

Ở VIỆT NAM .78

3.1. Bối cảnh triển khai cải cách hành chính và thực tiễn xây dựng chính phủ điện

tử tác động đến chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam hiện nay .78

3.2. Thực trạng xây dựng, tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách dịch vụ

công trực tuyến .91

3.3. Đánh giá chung .109

Chương 4: QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH

DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .122

4.1. Quan điểm về hoàn thiện chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam.122

4.2. Giải pháp hoàn thiện chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam .125

KẾT LUẬN. 144

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ. 147

TÀI LIỆU THAM KHẢO. 148

PHỤ LỤC. 158

pdf210 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 473 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ửa, cơ chế một cửa liên thông tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương. Nhiệm vụ trong hiện đại hóa hành chính bao gồm: Hoàn thiện và đẩy mạnh hoạt động của Mạng thông tin hành chính điện tử của Chính phủ; xây dựng Cổng dịch vụ công Quốc gia để tích hợp tất cả các dịch vụ công trực tuyến của các bộ, ngành, địa phương; Triển khai xây dựng Chính phủ điện tử, Chính quyền điện tử theo Nghị quyết 36a/NQ-CP ngày 14 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ và Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26 tháng 10 năm 2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016-2020. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông trong quy trình xử lý công việc của từng cơ quan hành chính nhà nước, giữa các cơ quan hành chính nhà nước với nhau và trong giao dịch với tổ chức, cá nhân. Nâng cao chất lượng phục vụ và tính công khai, minh bạch trong hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước thông qua đẩy mạnh cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân, tổ chức; cung cấp các dịch vụ công cơ bản trực tuyến mức độ 4, đáp ứng nhu cầu thực tế, phục vụ cá nhân và tổ chức mọi lúc, mọi nơi, dựa trên nhiều phương tiện khác nhau. Ứng dụng công nghệ thông tin để giảm thời gian, số lần trong một năm cá nhân, tổ chức phải đến trực tiếp cơ quan nhà nước thực hiện các thủ tục hành chính. Bảng 3.1: Danh mục các nhiệm vụ, đề án cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020 TT TÊN NHIỆM VỤ, ĐỀ ÁN CƠ QUAN CHỦ TRÌ CƠ QUAN PHỐI HỢP THỜI GIAN 1 Đề án “Đơn giản hóa chế độ báo cáo trong hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước” Bộ Tư pháp Các bộ, ngành và địa phương Giai đoạn 2016-2020 2 Đề án "Cơ sở dữ liệu quốc gia về cán bộ, công Bộ Nội vụ Các bộ, ngành và địa phương Giai đoạn 2016-2020 80 TT TÊN NHIỆM VỤ, ĐỀ ÁN CƠ QUAN CHỦ TRÌ CƠ QUAN PHỐI HỢP THỜI GIAN chức, viên chức" 3 Đề án đào tạo, bồi dưỡng công chức giai đoạn 2016 - 2025 Bộ Nội vụ Các bộ, ngành và địa phương Giai đoạn 2016-2020 4 Đề án "Xây dựng phương pháp đánh giá tổ chức" Bộ Nội vụ Các bộ, ngành và địa phương Giai đoạn 2016-2020 5 Đề án "Tăng cường năng lực đội ngũ công chức thực hiện công tác cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020" Bộ Nội vụ Các bộ, ngành và địa phương Giai đoạn 2016-2020 6 Đề án "Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền cải cách hành chính giai đoạn 2016-2020" Bộ Nội vụ Các bộ, ngành và địa phương, các cơ quan thông tấn, báo chí Giai đoạn 2016-2020 7 Đề án "Xác định Chỉ số cải cách hành chính của các bộ, cơ quan ngang bộ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương" Bộ Nội vụ Các bộ, cơ quan ngang bộ và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương Giai đoạn 2016-2020 8 Đề án "Đo lường hài lòng của người dân, tổ chức đối với sự phục vụ của cơ quan hành chính nhà nước” Bộ Nội vụ Các bộ, ngành và địa phương Giai đoạn 2016-2020 9 Đề án "Đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ giáo dục công giai đoạn 2016-2020" Bộ Giáo dục và Đào tạo Các bộ, ngành và địa phương Giai đoạn 2016-2020 10 Đề án "Đo lường sự hài lòng của người dân đối với dịch vụ y tế công" Bộ Y tế Các bộ, ngành và địa phương Giai đoạn 2016-2020 81 TT TÊN NHIỆM VỤ, ĐỀ ÁN CƠ QUAN CHỦ TRÌ CƠ QUAN PHỐI HỢP THỜI GIAN 11 Đề án đo lường sự hài lòng của người dân đối với các dịch vụ công thuộc lĩnh vực quản lý của Bộ Tư pháp Bộ Tư pháp Các bộ, ngành và địa phương Giai đoạn 2016-2020 12 Đề án "Cơ sở dữ liệu về thực hiện cơ chế một cửa, một cửa liên thông" Bộ Nội vụ Các bộ, ngành và địa phương Giai đoạn 2016-2020 13 Đề án "Mở rộng, nâng cấp Cổng Thông tin điện tử Chính phủ giai đoạn 2016-2020" Văn phòng Chính phủ Các bộ, ngành và địa phương Giai đoạn 2016-2020 Nguồn: [72] Bên cạnh đó, thước đo về hiệu quả cung ứng dịch vụ công còn thể hiện ở một số chỉ số năng lực cạnh tranh. Trong đó, đáng chú ý là chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI). Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) đánh giá chất lượng điều hành kinh tế, mức độ thuận lợi, thân thiện của môi trường kinh doanh và nỗ lực cải cách hành chính ở các tỉnh, thành phố tại Việt Nam. PCI 2018 vừa được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố vào sáng 28/03/2019. Báo cáo PCI 2018 được xây dựng dựa trên phản hồi từ hơn 12.000 doanh nghiệp, trong đó có gần 11.000 doanh nghiệp tư nhân đang hoạt động tại 63 tỉnh, thành phố và trên 1.500 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang hoạt động tại Việt Nam. Năm nay, Quảng Ninh tiếp tục dẫn đầu bảng xếp hạng PCI với 70,36/100 điểm, tuy nhiên PCI tỉnh này giảm nhẹ so với mức 70,69 điểm năm 2017. Nhìn chung các tỉnh, thành phố thuộc top 10 đều có PCI 2018 tương đương với 2017 và không có nhiều biến chuyển. [64] 82 Hình 3.1: Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI năm 2018 Nguồn: Dự án PCI [64] Như vậy, đánh giá chung về bối cảnh triển khai cải cách hành chính (trong đó cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa hành chính là hai nội dung liên quan đến triển khai chính sách DVCTT) thời gian qua, thành tựu đạt được là: Thủ tục hành chính đã liên tục được rà soát, tinh gọn. Thủ tục hành chính được cải cách theo hướng "một cửa", mẫu hóa các văn bản hành chính, giấy tờ, công khai các thủ tục 83 hành chính. Cơ chế "một cửa" là một thành công lớn trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính đã được áp dụng ở các cơ quan quản lý hành chính nhà nước đem đến sự hài lòng cho người dân, chi phí cho thủ tục hành chính giảm xuống, tiết kiệm thời gian và công sức cho người dân và cho chính cơ quan nhà nước đồng thời đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiền hà, tham nhũng của công chức hành chính trong thực hiện công vụ; Hiện đại hoá nền hành chính đã góp phần đổi mới lề lối và phương thức làm việc. Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành không những nâng cao hiệu quả chất lượng công việc mà còn tiết kiệm kinh phí. Tuy nhiên, tổng kết sau 10 năm thực hiện Chương trình tổng thể Cải cách hành chính giai đoạn 2001- 2010 cho thấy những hạn chế yếu kém còn tồn đọng đó là tốc độ cải cách còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả chưa tương xứng với mục đích yêu cầu mà chương trình tổng thể đề ra; kết quả đạt được chưa bền vững... Sau quá trình thực hiện giai đoạn thứ nhất của Chương trình tổng thể Cải cách hành chính giai đoạn 2011- 2020, Chính phủ cũng nhận định rằng tuy có những thành tựu nhưng so với mục tiêu, yêu cầu, mong muốn thì kết quả đạt được còn khiêm tốn, đòi hỏi sự cố gắng, nỗ lực hơn nữa. "Thủ tướng cho biết trên thực tế vẫn còn rất nhiều quy trình, thủ tục phức tạp, không cần thiết, gây phiền hà, tốn kém chưa được rà soát để sửa đổi, bãi bỏ hoặc sửa nhưng còn rất chậm. Bên cạnh đó, một số cấp, ngành nhận thức, trách nhiệm, quyết tâm của người đứng đầu chưa cao; một bộ phận cán bộ, công chức có tinh thần phục vụ kém, thiếu trách nhiệm, sách nhiễu, tiêu cực trong khi việc kiểm tra, xử lý chưa quyết liệt, nghiêm túc; nhiều cơ quan, tổ chức trùng dẫm, không rõ ràng về chức năng, nhiệm vụ, thiếu sự phối hợp"[65]. Bối cảnh xây dựng chính phủ điện tử, triển khai dịch vụ công trực tuyến * Những thách thức khi xây dựng chính phủ điện tử, triển khai dịch vụ công trực tuyến - Nhận thức và hiểu biết: Tất cả các lãnh đạo và công chức trong các cơ quan Chính phủ phải nhận thức đúng và hiểu được tầm quan trọng của CPĐT. Chính phủ nên tổ chức các khóa bồi dưỡng để nâng cao nhận thức về những giá trị mà CPĐT mang lại và sự cần thiết phải thay đổi ngay từ bên trong nội bộ Chính phủ. Bên ngoài tổ chức, các chương trình này cũng rất cần thiết để giúp công dân và doanh 84 nghiệp hiểu về CPĐT. Các phương tiện truyền thông đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích công dân và doanh nghiệp ở các tỉnh, thành phố hỗ trợ Chính phủ đưa ra các sáng kiến về CPĐT, đặc biệt là các sáng kiến trong cung cấp dịch vụ công, cũng như đưa ra các phản hồi. - Cải cách hành chính: CPĐT không đơn thuần chỉ là CNTT và truyền thông như nhiều quốc gia đã rơi vào vết xe đổ này. Cần cân nhắc việc xây dựng CPĐT trong bối cảnh CCHC. Những cải cách như mô hình "một cửa" khi thực hiện cùng với sáng kiến về CPĐT sẽ mang lại ích lợi cho người dân và doanh nghiệp. Trước khi triển khai hệ thống CNTT cho CPĐT, điều quan trọng là phải đảm bảo thủ tục hành chính hiện thời và quy trình quản lý hiện tại được xem xét lại và đơn giản hóa. Các cơ quan quản lý cần nghĩ đến các quy trình công việc hơn là các chức năng công việc của họ và chú trọng hơn tới người dân và doanh nghiệp. - Hợp tác giữa các cơ quan: Thông thường các cơ quan chính phủ làm việc một cách độc lập theo các chức năng của họ. Với CPĐT, cần phải tăng cường hợp tác giữa các cơ quan chính phủ, đặc biệt trong việc cải tiến các dịch vụ công và tăng khả năng cạnh tranh của quốc gia. Các kênh giao tiếp và cơ quan phối hợp chính thống cần được thiết lập không chỉ ở cấp chính quyền trung ương mà cả ở cấp địa phương. - Thay đổi nhận thức: Đây là một trong những thách thức lớn nhất đối với các nước đang phát triển. Nhân viên chính phủ thường quen với trạng thái thoải mái trong công việc và không cho rằng cần phải thay đổi. Cần phải nỗ lực giải thích cho họ vì sao cần thay đổi, đặc biệt là trong chương trình triển khai CPĐT. Nhất thiết phải có sự cam kết về việc thay đổi và các lãnh đạo phải làm gương để nhân viên noi theo. Việc đối thoại với nhân viên chính phủ và đáp ứng các mong muốn của họ cũng là cần thiết. - Đào tạo và thay đổi các kỹ năng cho cán bộ, công chức, viên chức: Đào tạo là công việc quan trọng để giúp nhân viên làm quen với các kỹ năng mới cần thiết cho CPĐT. Các khóa học như hành chính công hiện đại, thay đổi quy trình nghiệp vụ, thay đổi cách quản lý, CNTT và truyền thông, CPĐT... rất quan trọng trong việc tiến tới CPĐT. Tuy nhiên, việc đào tạo thường tiêu tốn một lượng lớn ngân sách và nhiều nguồn lực của chính phủ, vì vậy cần có kế hoạch triển khai tốt. 85 * Về điều kiện kinh tế - xã hội CPĐT cần một hạ tầng kinh tế xã hội phát triển một cách đồng bộ. Trong đó các vấn đề quan trọng cần lưu ý giải quyết là: (i) Mức sống của người dân: mức sống thấp không cho phép đông đảo dân cư tiếp xúc với các phương thức của “kinh tế số hoá”. Nếu chi phí cho một máy tính cá nhân, thiết bị phù trợ, thuê bao Internet, phí truy cập quá lớn so với mức thu nhập bình quân của một người dân thì lượng người truy cập Internet sẽ ít. CPĐT không thể phát triển trong điều kiện số người dân có khả năng truy cập internet thấp; (ii) Hệ thống thanh toán tài chính tự động: CPĐT đòi hỏi mạng lưới thanh toán tự động hoàn chỉnh và chính xác; (iii) Năng suất lao động: Nền kinh tế Internet đòi hỏi một nền sản xuất có năng suất cao. * Về thể chế Vấn đề pháp lý nhà nước, chính phủ cần phải quan tâm khi ứng dụng CPĐT là vấn đề liên quan đến bản quyền tác giả và xâm phạm tác quyền phần mềm. Như vậy, CPĐT là chủ đề cần quan tâm đến không chỉ trên phương diện kinh tế, kỹ thuật, luật pháp mà các vấn đề pháp lý, chính sách lên quan đến bản quyền, văn hoá xã hội cũng phải được xem xét. Cơ sở pháp lý đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ ứng dụng CPĐT thành công. Một số nhân tố pháp lý trong CPĐT luôn được nhắc tới: (i) Tính riêng tư: trở thanh vấn đề quan trọng cho các khách hàng hiện nay. Các điều khoản bảo vệ tính riêng tư được thể hiện ở rất nhiều trang web CPĐT lớn. Có những vấn đề trên cơ sở pháp luật là không đúng đắn nhưng trong xã hội những hành vi đó có thể chấp nhận được và không vi phạm phạm trù đạo đức truyền thống; (ii) Bản quyền: bảo vệ bản quyền tác giả trên trang web gặp nhiều khó khăn vì thông tin số hoá có thể sao chép dễ dàng với mức chi phí thấp. Hơn nữa, vấn đề khó khăn là quá trình kiểm soát ai là người có quyền sử dụng bản quyền; (iii) Tự do truy nhập thông tin: Internet cung cấp cơ hội lớn trong việc cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng. Tuy nhiên, sự tự do này có thể ảnh hưởng tiêu cực cho xã hội vì ranh giới giữa các vấn đề bất hợp pháp cũng như thiếu đạo đức trên Internet lúc nào cũng rõ ràng. * Về xu hướng hội nhập Hiện nay, Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và 86 hội nhập quốc tế. Do đó, xu hướng phát triển công nghệ thông tin, xây dựng chính phủ điện tử trên thế giới tác động rất lớn đến chính sách DVCTT ở Việt Nam. Các quốc gia trên thế giới đều hướng tới phát triển chính phủ điện tử lấy người dân làm trung tâm, từ đó rút ngắn khoảng cách giữa người dân với các cơ quan nhà nước thông qua việc ứng dụng CNTT nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống. Nâng cao hiệu quả hỗ trợ của Chính phủ đối với các doanh nghiệp, giảm bớt các thủ tục rườm rà để thu hút đầu tư, tạo môi trường kinh doanh tốt hơn. Đẩy mạnh phòng chống tham nhũng thông qua việc tăng cường các thủ tục trực tuyến trong hoạt động dân sự và chính phủ. Tạo ra môi trường cộng tác điện tử, kết nối chính phủ toàn diện tăng cường tính tích hợp trong cung cấp dịch vụ hành chính công, xây dựng nền tảng đồng nhất về hạ tầng ứng dụng, chia sẻ về dữ liệu và các quy trình nghiệp vụ. Trên cơ sở đó, thúc đẩy sự tham gia của cộng đồng vào phát triển chính phủ điện tử nhằm huy động năng lực của mỗi người dân, doanh nghiệp vào việc phát triển xã hội, đồng thời nâng cao hiệu suất phục vụ của cơ quan nhà nước. Nhằm bổ sung nguồn lực tài chính thì xu hướng xã hội hóa hoạt động đầu tư các dự án chính phủ điện tử thông qua hợp tác giữa chính phủ và doanh nghiệp đang là lựa chọn của nhiều quốc gia. Mục tiêu của ứng dụng CNTT vào cung ứng DVCTT nhằm cung cấp nhiều kênh truy cập thông tin và sử dụng thuận tiện dịch vụ hướng tới chủ thể thụ hưởng dịch vụ công từ chính phủ ở mọi lúc, mọi nơi: từ trang thông tin điện tử đơn thuần cung cấp thông tin đến cổng thông tin tích hợp dịch vụ trực tuyến cho phép tương tác hai chiều, cho phép ngoài hình thức Internet, thông tin và dịch vụ công được truy cập thông qua các kênh như điện thoại, ki-ốt, các trung tâm dịch vụ ứng dụng công nghệ thiết bị không dây và thiết bị di động. Trong thế giới phát triển CNTT hiện nay, rất nhiều tiêu chuẩn về CNTT thúc đẩy tương tác liên thông, công nghệ được chuẩn hóa, thông tin được cấu trúc và lưu thống nhất, qua đó hình thành một môi trường tích hợp các thành phần dữ liệu, hệ thống và tiến trình trong các cơ quan khác nhau có thể nói chuyện với nhau, hỗ trợ lẫn nhau, loại trừ các thành phần trùng lặp. Các yếu tố làm cơ sở xây dựng CPĐT đòi hỏi phải có đầu tư mạnh mẽ vào xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao, có chính sách đãi ngộ phù hợp, xây dựng hạ tầng viễn thông tiên tiến kết nối đầy đủ giữa các cơ quan nhà nước với 87 người dân và doanh nghiệp, cung cấp các dịch vụ dùng chung cho phép tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và nguồn lực chính phủ. Cung ứng trên môi trường “mạng” đòi hỏi cá biệt hóa chủ thể thông qua việc chủ thể có một tài khoản riêng và kê khai thông tin cá nhân. Điều đó đòi hỏi phải đảm bảo an toàn thông tin, bảo vệ tính riêng tư và nâng cao độ tin cậy dịch vụ, tránh thất thoát dữ liệu. 3.1.3. Thực tiễn triển khai chính phủ điện tử ở Việt Nam tác động đến chính sách dịch vụ công trực tuyến Xây dựng Chính phủ điện tử là một trong những nội dung quan trọng của cải cách hành chính nhằm hiện thực hóa quyết tâm của Chính phủ về việc xây dựng Chính phủ kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân. Đi sau nhưng phải đi nhanh, phải nhìn tổng thể, bắt đầu từ cái nhỏ nhất và kết quả phải mang tính bền vững. Để đánh giá thực tiễn chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam theo cách tiếp cận chu trình chính sách của luận án, cần khảo sát bối cảnh thực tiễn xây dựng chính phủ điện tử, cung ứng dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam hiện nay. Việc xây dựng Chính phủ điện tử, cung ứng dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam đã diễn ra gần 20 năm và đã có những thành tựu ban đầu, nhưng mục tiêu đạt được còn rất hạn chế. Trong đó, khó khăn lớn nhất để xây dựng Chính phủ điện tử vẫn do tư tưởng, quyết tâm cuả người đứng đầu và lực lượng cán bộ triển khai. Ngày 14/10/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành Nghị quyết 36a/NQ - CP về Chính phủ điện tử. Sau khi Nghị quyết số 36a/NQ-CP về Chính phủ điện tử (Nghị quyết 36a) được ban hành, việc đánh giá tình hình triển khai dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam tập trung vào những nhiệm vụ được xác định trong văn bản này. Cụ thể theo số liệu tại Báo cáo 314/BC-VPCP về tình hình thực hiện Nghị quyết số 36a/NQ-CP của Chính phủ về Chính phủ điện tử năm 2017 cho thấy các Bộ, ngành, địa phương đang tiếp tục triển khai, mở rộng các DVCTT trên cơ sở Danh mục DVCTT mức độ 3, 4 (theo các Quyết định số 846/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, Công văn số 2779/VPCP-KGVX và quyết định triển khai chủ động của Bộ, ngành, địa phương); nhiều DVCTT mức độ 3, 4 được người dân, doanh nghiệp thực 88 hiện với số lượng hồ sơ được tiếp nhận và giải quyết rất lớn. Ví dụ: Bộ Công an: 8.834.680 hồ sơ (cấp hộ chiếu và khai báo tạm trú); Bộ Công Thương 771.661 hồ sơ; Bộ Giáo dục và Đào tạo: 270.000 hồ sơ; Bộ Giao thông vận tải: 144.189 hồ sơ (cấp giấy phép lái xe và giấy phép kinh doanh vận tải);... Thành phố Hà Nội: 225.173 hồ sơ; Lâm Đồng: 110.625 hồ sơ; Cà Mau: 95.018 hồ sơ; Thái Nguyên: 91.201 hồ sơ; Hà Nam: 81.929 hồ sơ:...) (Phụ lục I)) và có 51/63 các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có báo cáo gửi Văn phòng Chính phủ về tình hình thực hiện Nghị quyết 36a và kết quả thực hiện Danh mục các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, 4 của năm 2017. Trong đó, 06 tỉnh có báo cáo nhưng thông tin, số liệu không phù hợp với yêu cầu theo Danh mục dịch vụ công trực tuyến đã công bố (xem Phụ lục II). Trong xếp hạng về triển khai CPĐT, Việt Nam xếp thứ 6 trong khối các nước Đông Nam Á, đứng sau các nước Singapore, Malaysia, Thái Lan, Philipines và Bruney [15]. Bảng 3.2: Thứ hạng chính phủ điện tử của Việt Nam theo đánh giá của Liên Hợp quốc năm 2016 Hạng mục 2016 2014 Chỉ số phát triển chính phủ điện tử 89 99 Chỉ số thành phần Dịch vụ trực tuyến 74 82 Nguồn: [15] Theo đánh giá của Liên hợp quốc năm 2018, Việt Nam tăng 01 bậc so với năm 2016, xếp hạng 88/193 quốc gia và đứng thứ 06/11 quốc gia trong khu vực ASEAN. Trong đó, chỉ số Dịch vụ công trực tuyến (OSI) tăng đáng kể so với năm 2016 (59/193 quốc gia); chỉ số Hạ tầng viễn thông (TII) liên tục giảm trong 4 kỳ báo cáo (2012-2018) gần nhất (xếp hạng 100/193 quốc gia) nằm dưới mức trung bình của cả khu vực và thế giới; chỉ số nguồn nhân lực (HCI) tăng nhẹ so với năm 2016 (xếp hạng 120/193), cao hơn mức trung bình của thế giới nhưng thấp hơn so với mức trung bình của châu Á và ASEAN [40]. Lần đầu tiên ở Việt Nam triển khai xếp hạng chính phủ điện tử. Kết quả cụ thể như sau: 89 Hình 3.2: Xếp hạng Chính phủ điện tử cấp Bộ và cơ quan ngang bộ Nguồn: [40] Hình 3.3: Xếp hạng Chính phủ điện tử các cơ quan thuộc Chính phủ Nguồn: [40] 90 Hình 3.4: Xếp hạng Chính phủ điện tử cấp tỉnh Nguồn: [40] Tình hình triển khai Chính phủ điện tử, xây dựng dịch vụ công trực tuyến năm 2018 đã phát huy được tính tập trung, thống nhất trong chỉ đạo và triển khai, nâng cao nhận thức của các cơ quan trong việc thực hiện, huy động được sự vào cuộc của khu vực tư nhân và những chuyên gia Việt Nam giỏi trong nước và quốc tế. Những định hướng trong triển khai Chính phủ điện tử trong năm qua được các tổ chức, chuyên gia quốc tế đánh giá là đúng hướng và phù hợp với xu hướng phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới hiện nay. Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai Chính phủ điện tử còn một số tồn tại, hạn chế. Cụ thể, hệ thống nền tảng kết nối, liên thông, tích hợp chia sẻ dữ liệu (NGSP) triển khai chậm, các nền tảng tích hợp, chia sẻ dữ liệu điện tử (LGSP) tại các bộ, ngành, địa phương chưa hoàn thành. Một số cơ sở dữ liệu quốc gia quan trọng trong xây dựng Chính phủ điện tử như: Dân cư, đất đai, tài chính còn chậm triển khai dẫn đến việc chia sẻ, dùng chung các hệ thống thông tin chưa được thực hiện, làm ảnh hưởng đến triển khai Chính phủ điện tử. Việc xử lý, trao đổi, gửi nhận 91 văn bản điện tử trong nội bộ và giữa các cơ quan nhà nước còn chưa phát huy được hiệu quả; hệ thống quản lý văn bản và điều hành của một số bộ, ngành, địa phương khác nhau. Dịch vụ công trực tuyến được thiết kế riêng lẻ, rời rạc, chưa thân thiện, chưa lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm. Mặc dù số lượng dịch vụ công mức 3, mức 4 triển khai tại các bộ, ngành, địa phương ngày càng tăng, tuy nhiên số lượng hồ sơ trực tuyến theo từng dịch vụ rất thấp, thậm chí nhiều dịch vụ không phát sinh hồ sơ trực tuyến. Quy trình giải quyết thủ tục hành chính chưa bảo đảm tính khoa học, gây gánh nặng cho cán bộ công chức. Ngân sách đầu tư cho ứng dụng CNTT, xây dựng hệ thống thông tin gắn với cải cách hành chính vẫn còn hạn chế, cơ chế đầu tư tài chính chậm sửa đổi nên chưa đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa nền hành chính, chưa đủ để tạo ra đòn bẩy nâng cao hiệu quả điều hành của Chính phủ, cũng như tăng chất lượng dịch vụ công. Như vậy, thực tiễn triển khai cải cách hành chính nhất là cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa nền hành chính, Việt Nam đã và đang xây dựng chính phủ điện tử, cung ứng dịch vụ công trực tuyến với quyết tâm rất cao trong bối cảnh còn nhiều khó khăn, trở ngại, thách thức từ nhiều yếu tố. Vậy thực tiễn những chính sách, quy định về dịch vụ công trực tuyến thời gian qua ở Việt Nam như thế nào? Khảo sát, đánh giá thực tiễn sẽ có cơ sở để trả lời cho câu hỏi đó. 3.2. Thực trạng xây dựng, tổ chức thực hiện và đánh giá chính sách dịch vụ công trực tuyến Thực trạng trong xây dựng chính sách dịch vụ công trực tuyến ở Việt Nam Để có thể đánh giá thực trạng trong khâu xây dựng chính sách DVCTT ở Việt Nam, tác giả đánh giá thực trạng từng nội dung tương ứng với quá trình xây dựng chính sách: thực trạng trong xác định vấn đề chính sách, mục tiêu chính sách, giải pháp chính sách, thể chế, chủ thể chính sách DVCTT. 3.2.1.1. Thực trạng xác định vấn đề chính sách Xuất phát từ nguồn gốc hình thành và xây dựng chính sách DVCTT ở Việt Nam là một phần trong chính sách triển khai CPĐT nên vấn đề chính sách DVCTT cũng chưa được định hình một cách riêng biệt, cụ thể. Từ những thách thức đặt ra 92 trong triển khai CPĐT như: làm thế nào để có được sự đồng thuận, ủng hộ của người dân; “tổng chỉ huy” công trường xây dựng CPĐT là ai? Sự phối hợp trong quá trình triển khai của các cơ quan trong bộ máy nhà nước? Những giải pháp dài hạn, ngắn hạn trong quá trình xây dựng CPĐT. Thực tiễn ở Việt Nam với những đặc thù như dân số đông, trình độ dân trí không đồng đều, còn những khu vực ở trình độ thấp; nguồn nhân sự CNTT thiếu và yếu; nền hành chính cồng kềnh, hoạt động chưa đạt hiệu quả; nguồn tài chính còn hạn chế; cơ sở hạ tầng công nghệ còn thiếu... Thực tế cho thấy đa số người dân vẫn thích dùng tiền mặt, chưa quen và chưa tin tưởng vào việc thanh toán qua thẻ tín dụng; nhân lực về CNTT còn yếu và thiếu; việc lựa chọn công nghệ và chuẩn hóa hệ thống CNTT chưa phù hợp, vì vậy chưa tích hợp và liên kết các cơ sở dữ liệu của chính phủ, cơ quan, ban, ngành, địa phương đến xã phường; kỹ năng ứng dụng CNTT của cán bộ lãnh đạo, công chức chưa cao. Nhận thức về CNTT trong cộng đồng dân cư còn hạn chế, tỷ lệ máy tính có kết nối Internet còn thấp, do đó, chưa tạo được phương thức, môi trường trao đổi thông tin điện tử giữa chính quyền, doanh nghiệp và người dân. Thêm vào đó, vấn đề của chính sách DVCTT còn là: biện pháp xác thực thông tin của chủ thể gửi đến môi trường mạng; là thói quen dùng tiền mặt; hạn chế trong công tác tuyên truyền về DVCTT; số người biết chưa nhiều, tần suất sử dụng DVCTT mức độ 3, 4 còn thấp; nhận thức một bộ phận CBCC của cơ quan, doanh nghiệp và người dân về DVCTT còn chưa đầy đủ; nhiều cá nhân, doanh nghiệp vẫn giữ thói quen đến giao dịch trực tiếp với CQNN, còn ngại tìm hiểu, nghiên cứu sử dụng các hình thức giao dịch mới; những rào cản do các quy định của thủ tục hành chính và mức độ ứng dụng CNTT trong quản lý đã có tác động không nhỏ đến việc ứng dụng DVCTT ở nhiều CQNN. Vấn đề lớn nữa là sự chênh lệch điều kiện kinh tế - xã hội vùng miền; trình độ của đội ngũ cán bộ CNTT chuyên nghiệp cũng đang cần được giải quyết để thúc đẩy người dân sử dụng DVCTT rộng rãi và chuyên nghiệp dẫn đến việc cung cấp trực tuyến phát triển không đồng đều tại các địa phương và bộ ngành: chủ yếu cung cấp DVCTT ở mức độ 1, 2; rất hạn chế ở mức độ 3 và chưa được cung cấp ở mức độ 4; thiếu chuẩn hóa, thống nhất trong việc cung cấp DVCTT giữa các địa phương,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chinh_sach_dich_vu_cong_truc_tuyen_o_viet_nam_hien_n.pdf
Tài liệu liên quan