Luận án Chính sách quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam (Qua nghiên cứu trường hợp thành phố Hải Phòng)

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU .1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN

ĐẾN CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP

KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN . 13

1.1. Tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước có liên quan

đến đề tài Luận án . 13

1.2. Đánh giá tổng quan nghiên cứu có liên quan đến chính sách quản lý nhà

nước đối với doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân . 39

1.3. Định hướng nghiên cứu của Luận án . 42

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHÍNH SÁCH QUẢN

LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP KHU VỰC KINH TẾ

TƯ NHÂN. 43

2.1. Một số vấn đề lý luận về doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân . 43

2.2. Lý luận về chính sách quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp khu

vực kinh tế tư nhân . 50

2.3. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới về chính sách phát triển doanh

nghiệp khu vực kinh tế tư nhân và bài học cho Việt Nam . 78

Chương 3: THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI

CÁC DOANH NGHIỆP KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI VIỆT NAM

(QUA NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG) . 88

3.1. Khái quát quá trình phát triển hệ thống doanh nghiệp khu vực kinh tế tư

nhân tại Việt Nam . 88

3.2. Thực trạng chính sách quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp khu vực

kinh tế tư nhân tại Việt Nam (minh chứng qua thực tiễn của thành phố Hải Phòng) 109

3.3. Đánh giá chung về thực trạng chính sách quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam nói chung và thành phố Hải Phòng

nói riêng . 133iii

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CHÍNH

SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP KHU

VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI VIỆT NAM . 154

4.1. Xu hướng kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quốc tế tác động đến sự

phát triển của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam. 154

4.2. Định hướng phát triển khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam đến năm

2030, tầm nhìn đến 2045 . 156

4.3. Phương hướng hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước đối với doanh

nghiệp khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam . 159

4.4. Một số giải pháp hoàn thiện chính sách quản lý nhà nước đối với các

doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam . 161

4.5. Một số kiến nghị, đề xuất . 184

KẾT LUẬN . 189

TÀI LIỆU THAM KHẢO . 191

PHỤ LỤC

pdf226 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 342 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chính sách quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân tại Việt Nam (Qua nghiên cứu trường hợp thành phố Hải Phòng), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p định thương mại quốc tế và khu vực, nguồn thu ngân sách từ thuế xuất nhập khẩu sẽ giảm trong những năm tới về cả số tuyệt đối và tỷ trọng, các khoản thu ngân sách từ dầu mỏ, tài nguyên thiên nhiên sẽ giảm dần do các nỗ lực tái cấu trúc nền kinh tế, vốn ODA sẽ tiếp tục giảm do Việt Nam hiện đã được công nhận là nước có thu nhập trung bình thấp; rõ ràng, khu vực doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp khu vực KTTN trở thành nguồn đóng góp chính cho thu ngân sách nhà nước trong những thập kỷ tới đây. Sự gia tăng đóng góp cho ngân sách nhà nước của các doanh nghiệp khu vực KTTN cũng góp phần nâng cao tính an toàn và bền vững của tài chính công ở Việt Nam. Năm 2019, các doanh nghiệp KTTN đóng góp khoảng ~41 tỷ USD vào ngân sách nhà nước, chiếm ~80% tổng thu ngân sách. Tỷ trọng đóng góp của các doanh nghiệp KTTN trong nước trong tổng thu ngân sách nhà nước đã tăng từ 11,9% năm 2010 lên 15,3% năm 2019, tức là từ khoảng 3 tỷ USD đến 8,4 tỷ USD mỗi năm [59]. Trong bảng xếp hạng do Bộ Tài chính công bố về 1.000 doanh nghiệp mức nộp thuế thu nhập doanh nghiệp lớn nhất cho ngân sách Nhà nước năm 2019, các doanh nghiệp KTTN trong nước chiếm 45,8% về số doanh nghiệp và 34,1% về số thuế đã nộp [79]. Theo tính toán, nếu đầu tư của khu vực KTTN (chưa tính đến hộ kinh doanh cá thể) tăng 1%, giúp cho GDP của Việt Nam tăng trưởng thêm khoảng 0,15 điểm %. Trong số đó, rất nhiều doanh nghiệp khu vực KTTN đã trở thành “những con sếu đầu đàn”, dẫn dắt trong đổi mới sáng tạo, ứng dụng KHCN trong phát triển kinh tế của đất nước. Khảo sát trong 5 năm trở lại đây, kinh tế Việt Nam được thế giới biết đến qua những tên tuổi các tập đoàn tư nhân như: Vingroup, Sun Group, T&T Group, Thaco, Vietjet Air, TH True Milk, Masan... Nhiều doanh nghiệp tư nhân đạt kim ngạch xuất khẩu hàng triệu USD, đóng góp quan trọng vào tăng trưởng, thu ngân sách và giải quyết việc làm, đảm bảo an sinh, xã hội. Thống kê cho thấy, hiện có tới 29 doanh nghiệp khu vực KTTN Việt Nam đã có giá trị vốn hóa trên thị trường chứng khoán vượt con số 1 tỷ USD [88]. 99 Khi so sánh sự đóng góp của doanh nghiệp khu vực KTTN với thành phần kinh tế khác, có thể thấy vai trò của các doanh nghiệp thuộc khu vực này ngày càng nổi trội hơn so với doanh nghiệp trong khu vực nhà nước và các doanh nghiệp FDI. Theo Báo cáo “2 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5, khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”, về đóng góp GDP, trong 3 năm, khu vực KTTN luôn chiếm hơn 40% GDP. Đến năm 2019, ước tính kinh tế tư nhân đóng góp 42,1% GDP và con số này có dấu hiệu tăng lên. Trong cùng giai đoạn đó, kinh tế nhà nước ở mức 28%, thậm chí năm 2019 còn giảm xuống 27,6%. Như vậy, đóng góp vào GDP của khu vực KTTN hiện đang cao gấp 1,5 lần kinh tế nhà nước. Về tạo việc làm, năm 2019, số lao động đang làm việc trong khu vực KTTN chiếm 83,3% tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc của cả nước, tương đương gần 45,2 triệu người. Mức độ áp đảo của KTTN so với kinh tế nhà nước và khu vực FDI gần như là tuyệt đối. Về đầu tư phát triển và thương mại, trong 2 năm 2018 - 2019, vốn đầu tư của KTTN tăng trưởng lần lượt 17,1% và 18,5% so với năm trước, cao hơn tốc độ tăng trưởng của tổng vốn đầu tư toàn xã hội (khoảng 11 - 12%/năm). 3.1.2.2. Khu vực kinh tế tư nhân Việt Nam trong bối cảnh dịch bệnh Covid- 19 Thực tiễn những năm qua đã cho thấy, khu vực KTTN là “tấm đệm giảm sốc” cho nền kinh tế, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế đang bị tác động bởi các yếu tố bất định như dịch Covid-19; biến đổi khí hậu, thiên tai, hạn hán, xâm nhập mặn, mưa đá... Điều đó được thể hiện rõ nét nhất trong giai đoạn đại dịch Covid-19 vừa qua, nhiều doanh nghiệp khu vực KTTN đã chung tay cùng các bộ, ngành và Chính phủ góp phần chống dịch hiệu quả, động thái này thể hiện sự đồng hành hiệu quả 3 bên, giữa Chính phủ - Doanh nghiệp - Người dân. 100 Đồng hành cùng các khu vực kinh tế khác, các doanh nghiệp trong khu vực KTTN tiếp tục phát huy sức mạnh nội tại và trở thành “lực kéo” quan trọng của nền kinh tế nước ta. Thứ nhất, khu vực KTTN duy trì sự đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách nhà nước. Cụ thể, năm 2020, khu vực doanh nghiệp KTTN đã thể hiện được khả năng chống chịu lớn nhất trong ba khu vực, mức thu ngân sách giảm 9,5% so với thực hiện năm 2019, trong khi khu vực DNNN và doanh nghiệp FDI là khu vực bị ảnh hưởng nghiêm trọng, giảm lần lượt là 15,7% và 11,3% [Sách trắng Việt Nam, 2020]. Điều này cho thấy, DNNN vẫn chưa thể hiện vai trò là công cụ điều tiết của Nhà nước khi nền kinh tế gặp khó khăn và khu vực KTTN tiếp tục thể hiện được vai trò là động lực quan trọng như khẳng định tại Nghị quyết số 10-NQ/TW. Thứ hai, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, khu vực KTTN tiếp tục là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong tổng vốn đầu tư của nền kinh tế, khi vốn đầu tư khu vực KTTN trong năm 2020 tăng mạnh và đạt 7,4% so với cùng kỳ năm 2019. Năm 2020, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 4,8% bằng 1/2 tốc độ tăng thấp nhất trong giai đoạn 2016 - 2019. Sự gia tăng vốn đầu tư toàn xã hội so với cùng kỳ năm trước chủ yếu nhờ lực kéo của vốn đầu tư từ ngân sách, trái phiếu chính phủ (tăng lần lượt 48,9% và 8,1%) và một phần không nhỏ của đầu tư tư nhân (tăng 2,8%), trong khi nguồn vốn quan trọng là đầu tư nước ngoài suy giảm (- 2,5%) [77]. Thứ ba, bất chấp những tác động tiêu cực do Covid-19 gây ra, năm 2020, vẫn có gần 99 nghìn doanh nghiệp KTTN thành lập mới, chỉ giảm 3,2% so với cùng kỳ năm 2019; số doanh nghiệp quay trở lại hoạt động lại đạt tới 34,6 nghìn doanh nghiệp, tăng 25,5% so với cùng kỳ; số doanh nghiệp tăng vốn là 29,5 nghìn doanh nghiệp. Nhờ vậy, năm 2020, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế đạt 3.601,9 nghìn tỷ đồng, tăng 19,2% so với cùng kỳ năm 2019 [77]. 101 Có thể thấy, các doanh nghiệp KTTN đã và đang nỗ lực vươn lên trong khó khăn với những xu hướng chủ yếu là: (i) Cắt giảm chi phí, duy trì quan hệ hoặc tìm kiếm đối tác và thị trường mới; (ii) Chuyển đổi mô hình kinh doanh thông qua ứng dụng công nghệ thông tin; (iii) Chuyển đổi sản phẩm trên cơ sở nghiên cứu nhu cầu thị trường đối với các mặt hàng thiết yếu và gắn với xu thế tiêu dùng phù hợp với bối cảnh đại dịch; (iv) Tận dụng các chính sách ưu đãi của Nhà nước để duy trì hoạt động, đầu tư phát triển hạ tầng SX-KD 3.1.2.3. Tình hình phát triển khu vực kinh tế tư nhân trên địa bàn thành phố Hải Phòng Khu vực KTTN ở Hải Phòng phát triển từ rất sớm, nổi tiếng những tên tuổi doanh nhân như Bạch Thái Bưởi - công ty Giang Hải Luân nổi danh với ngành công nghiệp đóng tầu và vận tải hàng hải; doanh nhân Nguyễn Sơn Hà - hãng sơn Sơn Hà, đã cạnh tranh được với nhiều hãng sơn lớn trên thế giới từ những năm cuối thế kỷ IX - đầu thế kỷ XX, đóng góp nhiều cho Chính phủ cách mạng; doanh nhân Đoàn Đức Ban nổi tiếng với thương hiệu nước mắm Vạn Vân (tiền thân của nước mắm Cát Hải). Trong công cuộc đổi mới đất nước, Hải Phòng là địa phương luôn đi đầu, tiên phong trong phát triển kinh tế nhiều thành phần, đặc biệt là phát triển KTTN. Hàng năm, số doanh nghiệp mới thành lập, đăng ký kinh doanh tăng nhanh. Tính đến tháng 12/2020, số lượng doanh nghiệp khu vực KTTN xấp xỉ 34.517, chiếm 97% trong cơ cấu thành phần kinh tế của Thành phố hiện nay (so với các năm: năm 2013, số doanh nghiệp ngoài nhà nước là 8.393 chiếm 95,4%; năm 2016 là 12.092, năm 2017 là 13.533). Khu vực KTTN chiếm tỷ trọng lớn nhất trong GRDP của thành phố Hải Phòng những năm qua và hiện nay so với các loại hình khác (năm 2010 chiếm 38,4%, năm 2014 chiếm 43,1%, năm 2017 là 44,56%). Năm 2017, các doanh nghiệp khu vực KTTN nộp ngân sách thành phố Hải Phòng lên tới 16 nghìn tỷ đồng/22 nghìn tỷ đồng, chiếm 73% tổng thu ngân sách của Thành phố. Các doanh 102 nghiệp khu vực KTTN không chỉ tăng về số lượng mà còn đa dạng về ngành nghề. Đến nay, doanh nghiệp khu vực KTTN đã tham gia hoạt động trong hầu hết các lĩnh vực ngành nghề SX-KD: từ công nghiệp, thương mại, y tế, giáo dục, môi trường, KHCN, dịch vụ cảng biển, dịch vụ du lịch, dịch vụ xã hội, lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nông-lâm, thủy sản. KTTN là khu vực thu hút nhiều lao động nhất so với các khu vực kinh tế khác ở Hải Phòng: chiếm 77,4%, trong khi đó khu vực nhà nước là 12,2%; khu vực FDI là 10,4% [22]. Hiện nay, có khoảng gần 850.000 lao động đang làm việc ở khu vực này trên tổng số người trong độ tuổi lao động ở thành phố Hải Phòng có khoảng xấp xỉ 1,2 triệu người. Thành phố Hải Phòng đã thu hút nhiều nhà đầu tư lớn trong nước là các tập đoàn tư nhân như Vingroup, Sungroup, Flamingo, công ty CP Đầu tư và dịch vụ tài chính Hoàng Huy, công ty TNHH Nhật Hạ... Trong những năm qua, cấp lãnh đạo của thành phố Hải Phòng đã xây dựng và ban hành nhiều chính sách thiết thực, hiệu quả, nhiều biện pháp chỉ đạo sáng tạo, đổi mới, quyết liệt nhằm thúc đẩy mạnh mẽ KTTN ở thành phố Cảng trở thành điểm sáng của cả nước. Số lượng doanh nghiệp khu vực KTTN không ngừng tăng lên. Điều này chứng tỏ môi trường SX-KD của Thành phố đang khởi sắc, thu hút và thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Bảng 3.1: Tình hình doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Hải Phòng Năm Số DN thành lập mới Số VĐL đăng ký (tr.đồng) Số DN tính đến 31/12 Số DN tạm ngừng Số DN giải thể 2016 2.564 18.026.539 26.757 801 99 2017 2.997 17.971.715 28.906 871 91 2018 3.116 22.439.063 31.758 1.234 144 2019 2.935 22.386.553 33.545 1.224 231 2020 2.868 22.386.553 34.517 1.778 227 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng 103 Doanh nghiệp khu vực KTTN không chỉ tăng về số lượng mà quy mô, loại hình và lĩnh vực SX-KD rất phong phú, đa dạng. Doanh nghiệp khu vực KTTN là các công ty cổ phần chiếm 56%; công ty TNHH chiếm 32%; doanh nghiệp tư nhân là 12%. Hình 3.6: Phân loại doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Hải Phòng Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng năm 2020. Về quy mô: Hải Phòng đã thu hút nhiều tập đoàn kinh tế lớn đầu tư, hoạt động SX-KD và phát triển trên địa bàn Thành phố như: Vingroup, Sungroup, Flamingo, Him Lam, công ty CP Đầu tư và dịch vụ tài chính Hoàng Huy, công ty TNHH Nhật Hạ... Tuy nhiên, số doanh nghiệp có quy mô lớn chỉ chiếm 15%; còn lại chủ yếu là DNNVV. Hình 3.7: Quy mô của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Hải Phòng 104 Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng năm 2020 Lĩnh vực hoạt động SX-KD của doanh nghiệp khu vực KTTN chủ yếu là dịch vụ - thương mại (du lịch, dịch vụ cảng, dịch vụ xuất - nhập khẩu) 44%; Công nghiệp cơ khí chế tạo 24%, xây dựng, vận tải, chế biến nông-lâm-thủy, hải sản, may mặcTrong những năm gần đây, xuất hiện nhiều doanh nghiệp khu vực KTTN hoạt động trong các lĩnh vực và ngành nghề mới như: logistics, công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học khởi nghiệp sáng tạo.., Hình 3.8: Lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp ở Hải Phòng Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hải Phòng năm 2020. Hình 3.9: Kết quả sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân ở Hải Phòng 105 Nguồn: Sở Kế hoạch & Đầu tư Thành phố Hải Phòng năm 2020. Tình hình SX-KD của doanh nghiệp khu vực KTTN của Thành phố trong những năm qua tương đối ổn định. Số doanh nghiệp làm ăn có lãi chiếm tỷ lệ lớn. Doanh nghiệp thua lỗ chiếm tỷ lệ thấp. Nhưng trong năm 2020, cùng với tình hình chung của cả nước, số doanh nghiệp gặp khó khăn tăng lên do dịch bệnh Covid-19 bùng phát. Như vậy, có thể khẳng định rằng, KTTN ở Hải Phòng nói chung, các doanh nghiệp khu vực KTTN nói riêng đã phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng. Các doanh nghiệp khu vực KTTN đã có mặt trên tất cả các lĩnh vực, đóng góp ngày càng nhiều vào ngân sách Thành phố, thức đẩy sự tăng trưởng, phát triển KT-XH và góp phần làm thay đổi diện mạo của Hải Phòng trong những năm qua. 3.1.3. Những bất cập còn tồn tại trong quá trình phát triển của các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân 3.1.3.1. Những bất cập về năng suất lao động, hiệu quả phân bổ và sử dụng nguồn lực Mặc dù đã có những thành tựu và đóng góp như trên, khu vực KTTN vẫn bộc lộ những hạn chế về gia tăng năng suất. Theo báo cáo Tầm nhìn Việt Nam 2035 [61], đóng góp cho tăng trưởng năng suất của nền kinh tế Việt Nam từ năm 2001 chủ yếu nhờ chuyển dịch cơ cấu hơn là cải thiện năng suất nội ngành. Trong đó, mức tăng trưởng năng suất của khu vực KTTN (đo bằng doanh thu trên 1 đơn vị tài sản) cũng trên đà giảm sút. Tình trạng năng suất thấp và tốc độ tăng năng suất thấp của nền kinh tế có liên quan tới thực trạng phần lớn các doanh nghiệp có quy mô siêu nhỏ và nhỏ. Quy mô nhỏ và tính không chính thức làm hạn chế khả năng của các doanh nghiệp trong nước tận dụng các lợi thế có được nhờ kinh tế quy mô, chuyên môn hóa, cải thiện trình độ tinh vi trong hoạt động, tăng đầu tư vào nghiên cứu và phát triển, vào công nghệ và đổi mới, sáng tạo - tất cả các yếu tố có tính chất quyết định đối với việc nâng cao năng suất. Các doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ chiếm số lượng áp đảo trong khu vực doanh nghiệp trong nước. Cho dù các 106 doanh nghiệp siêu nhỏ và nhỏ đóng vai trò quan trọng trong tạo sinh kế và việc làm cho hàng triệu người trên cả nước, tuy nhiên nếu các chủ thể này không phát triển hơn nữa về quy mô, cải thiện phương thức SX-KD, và tham gia khu vực doanh nghiệp cỡ vừa trở lên, Việt Nam sẽ khó có thể hiện thực hóa được các tiềm năng để nâng cao năng suất của mình. Hình 3.10: Cấu trúc doanh nghiệp kinh tế tư nhân theo quy mô năm 2020 Nguồn: Tổng cục Thống kê năm 2020 3.1.3.2. Số lượng doanh nghiệp cỡ vừa và tỷ trọng trong tổng số doanh nghiệp đăng ký chính thức hiện đang hoạt động Thiếu doanh nghiệp cỡ vừa là tình trạng các doanh nghiệp có quy mô trung bình có số lượng rất ít ỏi, là một điều đáng quan ngại. Vào năm 2020, 97,3% các doanh nghiệp khu vực KTTN trong nước có quy mô siêu nhỏ và nhỏ. Các doanh nghiệp lớn chỉ chiếm 1,3% tổng số. Đáng chú ý, các doanh nghiệp quy mô vừa chỉ chiếm 1,4% (7.422 doanh nghiệp), tạo ra cơ cấu doanh nghiệp “bất thường” khi so sánh với cơ cấu của khu vực doanh nghiệp khác như tại Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc. “Thiếu doanh nghiệp cỡ vừa” cũng là một biểu hiện cho thấy có rất ít doanh nghiệp nhỏ đã lớn lên để trở thành doanh nghiệp quy mô vừa do hạn chế về hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ và do những khó khăn của môi trường kinh doanh bên ngoài. Chẳng hạn, trên địa bàn thành phố Hải Phòng - địa phương hiện đứng thứ 6 cả nước về số lượng các doanh nghiệp, phần lớn các doanh nghiệp của tư nhân có quy mô nhỏ (trên 107 90% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng), thiết bị, công nghệ lạc hậu nên năng suất thấp, chất lượng sản phẩm thấp, sức cạnh tranh yếu, trình độ quản lý nhìn chung còn yếu kém, khả năng hội nhập kinh tế quốc tế yếu. Các doanh nghiệp nhỏ thiếu năng lực cũng như động cơ và tham vọng phát triển về quy mô. Hiện tượng “thiếu doanh nghiệp cỡ vừa” cũng cho thấy sẽ không có nhiều doanh nghiệp quy mô vừa sẽ phát triển thành doanh nghiệp quy mô lớn trong trung hạn. Vấn đề “thiếu doanh nghiệp cỡ vừa” là một vấn đề nan giải đối với khu vực KTTN do nguyên tắc thường thấy là các công ty lớn hơn có khả năng tốt hơn để tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô để hoạt động hiệu quả hơn và mang lại năng suất cao hơn cho nền kinh tế. Các doanh nghiệp lớn không chỉ sẽ có cơ hội tốt hơn để đạt được năng suất cao hơn. Doanh nghiệp lớn cũng có thể trở thành doanh nghiệp dẫn đầu, đóng vai trò thúc đẩy sự tăng trưởng của toàn bộ một ngành, một chuỗi giá trị hoặc một cụm doanh nghiệp. Các doanh nghiệp lớn sẽ là hạt nhân để liên kết nhiều doanh nghiệp nhỏ hơn và trở thành động lực hoặc đầu tàu cho sự phát triển của cả một ngành hoặc một cụm doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiêp lớn của Việt Nam tương đối ít ỏi với 7.143 doanh nghiệp được xếp hạng là quy mô lớn tính đến cuối năm 2020. Mặc dù được xếp hạng là doanh nghiệp lớn, nhưng quy mô trung bình của các doanh nghiệp lớn trong khu vực KTTN của Việt Nam cũng nhỏ bé hơn rất nhiều so với mức trung bình tại các quốc gia trong khu vực. 3.1.3.3. Đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu giảm và mối liên hệ lỏng lẻo với các khu vực kinh tế khác Các doanh nghiệp KTTN trong nước hiện trong một vị thế khiêm tốn trong hoạt động thương mại quốc tế, do vậy không thể hưởng lợi được một cách tốt nhất từ các hiệp định thương mại quốc tế mà Việt Nam đã tham gia ký kết. Tỷ trọng đóng góp của các doanh nghiệp trong nước trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã giảm nhanh từ 45,8% năm 2011 xuống còn 27,4% năm 2020. Trong khi đó, tỷ trọng của khu vực FDI trong xuất khẩu hiện lên tới 72,6%. Điều đáng nói là mối liên kết giữa các doanh nghiệp khu vực KTTN trong nước và doanh 108 nghiệp FDI rất hạn chế và lỏng lẻo. Theo “Khảo sát về Điều kiện Kinh doanh của các Công ty Nhật Bản tại Châu Á và Châu Đại Dương” của JETRO (2019), các công ty Nhật Bản, một trong những nhà đầu tư nước ngoài lớn nhất tại Việt Nam, mua sắm khoảng 32,4% các dịch vụ và sản phẩm đầu vào từ các nhà cung cấp địa phương trong năm 2019; thấp hơn nhiều so với các doanh nghiệp FDI của Nhật tại các nước láng giềng ví dụ như Trung Quốc (67,8%), Thái Lan (57,1%) và Indonesia (40,5%). Cần nhấn mạnh rằng trong số các doanh nghiệp cung cấp cho các công ty FDI của Nhật Bản tại Việt Nam, 58,9% các doanh nghiệp đó là các công ty FDI có trụ sở tại Việt Nam. Chỉ có 13% nguồn dịch vụ, sản phẩm đầu vào mua tại địa phương được cung cấp bởi các doanh nghiệp Việt Nam. Tương tự, mối liên kết giữa các doanh nghiệp KTTN trong nước và DNNN, giữa các doanh nghiệp nhỏ và các công ty lớn là không đáng kể. Điều này cho thấy các công ty tư nhân Việt Nam đang hoạt động độc lập, đơn lẻ, phần lớn các doanh nghiệp tham gia vào quá trình sản xuất hàng hóa và dịch vụ không phức tạp, chưa có vị trí trong chuỗi giá trị toàn cầu. Hệ quả ở đây không chỉ là vấn đề quy mô thị trường bị hạn chế, mà còn hạn chế khả năng học hỏi, chuyển giao công nghệ của các doanh nghiệp khu vực KTTN trong nước. 3.1.3.4. Các doanh nghiệp khu vực kinh tế tư nhân trong nước chậm đổi mới công nghệ Các lợi thế chi phí lao động thấp do dân số trẻ, thời kỳ dân số vàng đang ngày càng suy giảm, tài nguyên thiên nhiên ngày càng trở lên khan hiếm, các doanh nghiệp khu vực KTTN vẫn loay hoay và chưa xác định được tầm nhìn và chiến lược rõ ràng để ít phụ thuộc vào mô hình sản xuất dựa nhiều vào nguồn lực để chuyển sang mô hình dựa trên nền tảng công nghệ tiên tiến, có mức độ thâm dụng vốn cao hơn. Theo một khảo sát của Tổng Cục Thống kê đối với 7.450 doanh nghiệp trong giai đoạn 2015 - 2019, tỷ lệ các doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao hầu như không thay đổi ở mức 18%; chỉ có 7,23% doanh nghiệp cho biết họ có thực hiện các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) và chỉ có 6,15% có đầu tư cải tiến và nâng cấp công nghệ, máy móc và thiết bị trong năm 109 2019; 83% doanh nghiệp không có kế hoạch thực hiện các hoạt động R&D hoặc nâng cấp công nghệ, máy móc và thiết bị. Khảo sát ở Hải Phòng, một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng năng lực công nghệ thấp là bởi vì phần lớn các doanh nghiệp khu vực KTTN thiếu vốn để đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ, uy tín thấp, thiếu khả năng tài chính và năng lực quản lý. Nhiều doanh nghiệp không có tài sản để thế chấp vay vốn tín dụng, hạn chế khả năng phát triển mở rộng chiếm lĩnh thị trường, nên SX-KD cầm chừng, nhiều doanh nghiệp nhỏ ở Hải Phòng đăng ký kinh doanh nhưng không hoạt động. Tóm lại, mặc dù khu vực KTTN đã có những thành tựu to lớn về sự phát triển vượt bậc trong thời gian qua, nhưng những kết quả đó chủ yếu ở khía cạnh phát triển về số lượng doanh nghiệp được thành lập mới và đóng góp cho nền KT-XH. Những đóng góp đó cho thấy vai trò tiềm năng của khu vực KTTN trong việc trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế định hướng XHCN. Mặc dù vậy, thực trạng khu vực KTTN cũng bộc lộ những điểm bất cập như năng suất lao động và hiệu quả sử dụng nguồn lực còn thấp, quy mô các doanh nghiệp còn hạn chế, đóng góp cho kim ngạch xuất khẩu giảm, liên kết với các khu vực doanh nghiệp khác còn lỏng lẻo, chậm đổi mới công nghệ và các hộ kinh doanh hoạt động dưới hình thức không chính thức. Rõ ràng, để khắc phục những bất cập và hạn chế đó, cần phải tiếp tục có những đổi mới về chính sách QLNN đối với doanh nghiệp khu vực KTTN. 3.2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN TẠI VIỆT NAM (MINH CHỨNG QUA THỰC TIỄN CỦA THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG) Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù khu vực KTTN được thừa nhận có vai trò rất quan trọng, đóng góp khoảng 40% GDP của cả nước, thu hút hơn 51% lực lượng lao động, tuy vậy, đa số các chính sách không dành riêng cho từng loại hình doanh nghiệp theo hình thức sở hữu. Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, doanh nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế đều có quyền bình 110 đẳng như nhau. Do đó, DNNN, doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN trong nước đều thụ hưởng những chính sách như nhau về tài chính - tín dụng, chính sách đất đai, chính sách khoa học công nghệ, chính sách xúc tiến thương mại, hỗ trợ tiếp cận thị trường Riêng đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa (trong đó có đến 98% thuộc thành phần KTTN) đã có luật và chính sách hỗ trợ riêng. Chính vì vậy, Luận án tiếp cận đến các chính sách dành cho DNNVV như là một bộ phận chủ yếu trong chính sách quốc gia đối với khu vực KTTN, đồng thời lấy kết quả thực thi chính sách ở thành phố Hải Phòng làm minh chứng cho việc triển khai chính sách ở một địa phương, từ đó chỉ ra các chính sách này đã thực sự phù hợp với thực tiễn, kết quả thực thi chính sách đã thực sự tháo gỡ được những khó khăn vướng mắc của các doanh nghiệp khu vực KTTN. Với tư cách là công cụ quản lý, chính sách QLNN đối với khu vực KTTN nói chung, doanh nghiệp khu vực KTTN nói riêng trải qua hơn 35 năm đổi mới, đã được Đảng, Nhà nước, Chính phủ và chính quyền địa phương ban hành, thực thi với một hệ thống khá toàn diện, phong phú, đã góp phần thúc đẩy khu vực này có những bước phát triển vượt bậc. Trên cơ sở chủ trương, đường lối phát triển khu vực KTTN của Đảng, Nhà nước đã cụ thể hóa thành chính sách, pháp luật và các biện pháp quản lý nhằm tạo môi trường, điều kiện cho KTTN phát huy tiềm năng, thế mạnh, thực hiện vai trò của mình đối với nền kinh tế. Cùng với sự phát triển về đường lối chủ trương của Đảng về KTTN, hệ thống pháp luật, chính sách QLNN cũng được củng cố, phát triển và ngày càng hoàn thiện tạo nên sự lớn mạnh, phát triển ổn định, bền vững của khu vực KTTN nói chung, doanh nghiệp khu vực KTTN nói riêng. Nhà nước đã ban hành và hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo hành lang pháp lý cho khu vực KTTN tồn tại, phát triển. Từ 1986 đến nay, hệ thống luật pháp liên quan đến KTTN ở nước ta đã không ngừng được hoàn chỉnh, Nhà nước ban hành các Luật Doanh nghiệp, Luật Đất đai, Luật Đầu tư, Luật Môi 111 trường, Luật Bảo vệ Tài nguyên, Luật lao động, Luật Bảo hiểm. Luật Thuế, Luật Tài chính - tín dụng, Luật Ngân hàng, Luật Hỗ trợ Doanh nghiệp vừa và nhỏ... Các Luật này đều được Quốc hội thông qua trên cơ sở các dự án luật được nghiên cứu công phu, đảm bảo các quy trình và đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. Vì thế, đây là môi trường pháp lý rất quan trọng bảo đảm cho doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp khu vực KTTN lựa chọn, xác định ngành nghề, lĩnh vực SX-KD cũng như quyền, nghĩa vụ đối với Nhà nước và cộng đồng. 3.2.1. Thực trạng chính sách tài chính - tín dụng 3.2.1.1. Chính sách vốn - tín dụng Việc hoàn thiện cơ chế, chính sách nhằm tăng cường khả năng tiếp cận tài chính, tín dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam, trong đó ưu tiên các giải pháp tài chính hỗ trợ DNNVV - bộ phận chủ đạo của KTTN và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân. Luật Hỗ trợ DNNVV (năm 2017) và Nghị định số 39/2018/NĐ- CP quy định chi tiết một số điều của Luật Hỗ trợ DNNVV (thay thế Nghị định số 56/2009/NĐ-CP ngày 30/6/2009) đề cập tới các hình thức hỗ trợ tài chính chủ yếu, như: thuế, phí, lệ phí, tín dụng, chi ngân sách hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp, trợ giá, bù giá, quỹ bảo lãnh tín dụng, Bên cạnh đó, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 81/2020/NĐ-CP ngày 9/7/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2018/NĐ-CP, được đánh giá là tạo bước đột phá trong việc huy động vốn cho DNNVV thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Hiện nay, các doanh nghiệp khu vực KTTN có quy mô nhỏ và vừa tiếp cận vốn tín dụng chủ yếu thông qua 3 nguồn chính, đó là: (i) Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa; (ii) Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa; (iii) Tín dụng ngân hàng. a) Về Quỹ bảo lãnh tín

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chinh_sach_quan_ly_nha_nuoc_doi_voi_cac_doanh_nghiep.pdf
  • pdfQD cap HV-NCS Le Huu Toan (2).pdf
  • pdfSAMMARY (PDF).pdf
  • pdfTÓM TẮT (PDF).pdf
  • pdfTRANG THÔNG TIN MỚI (Final).pdf
  • pdfTRÍCH YẾU (Final).pdf
Tài liệu liên quan