MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .1
1. Lý do lựa chọn đề tài .1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.4
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .5
5. Những đóng góp mới của luận án .8
6. Kết cấu của luận án.10
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .11
1.1. Tổng quan nghiên cứu .11
1.1.1. Các công trình nghiên cứu nước ngoài.11
1.1.2. Các công trình nghiên cứu trong nước .17
1.1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án.24
CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN LƯƠNG CÔNG
CHỨC CẤP XÃ.26
2.1. Khái niệm công chức cấp xã và vai trò của công chức cấp xã .26
2.1.1. Một số khái niệm cơ bản.26
2.1.2. Phân loại công chức của Việt Nam .28
2.1.3. Đặc điểm và vai trò của đội ngũ công chức cấp xã.30
2.2. Tiền lương và chính sách tiền lương công chức cấp xã .34
2.2.1. Tiền lương trong nền kinh tế thị trường .34
2.2.2. Chính sách tiền lương đối với công chức cấp xã .39
2.3. Các tiêu chí đánh giá chính sách tiền lương hiệu quả .53
2.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới chính sách tiền lương công chức cấp xã.56
2.4.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về tiền lương trả cho công chức cấp xã.56
2.4.2. Quy định pháp lý đối với đội ngũ công chức cấp xã.56
2.4.3. Khả năng tài chính.57
2.4.4. Cải cách hành chính.58
2.4.5. Hệ thống đánh giá thực hiện công việc của công chức .59
2.4.6. Chính sách xã hội hóa các công việc phục vụ.602.5. Kinh nghiệm của một số nước về cải cách chính sách tiền lương cho công chức
và khả năng áp dụng ở Việt Nam.60
2.5.1. Chính sách tiền lương công chức Hàn Quốc.60
2.5.2. Chính sách tiền lương công chức Trung Quốc .62
2.5.3. Chính sách tiền lương công chức Singgapore.64
2.5.4. Bài học kinh nghiệm cho cải cách tiền lương công chức ở Việt Nam. .65
185 trang |
Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 28/12/2022 | Lượt xem: 323 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chính sách tiền lương đối với công chức cấp xã ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6.659
người (chiếm 36,2%); cao đẳng là 7.733 người (chiếm 4,20%) và đại học là 40.787
người (chiếm 22,15%).
75
- Về trình độ lý luận chính trị, số chưa qua đào tạo là 31.303 người (chiếm
17%); số có trình độ sơ cấp là 29462 người (chiếm 16%); trung cấp 114161người
(chiếm 62%) và cao cấp là 8838 người (chiếm 4,8%).
Như vậy, số liệu trên cho thấy, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ
cán bộ, công chức cấp xã nhìn chung thấp hơn so với mặt bằng chung của đội ngũ
cán bộ, công chức các cấp. Cán bộ, công chức cấp xã có trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ tốt nghiệp trung cấp chiếm đại đa số (cán bộ chiếm tỉ lệ là 36,13%; công
chức chiếm tỉ lệ là 59,42%). Đó là thống kê trên văn bằng, chứng chỉ còn trong thực
tế, không ít cán bộ, công chức cấp xã chỉ ở trình độ "cầm tay chỉ việc", nên khi
tham mưu trong quản lý nhà nước và giải quyết các thủ tục hành chính còn nhiều
lúng túng, dẫn đến sai phạm gây bức xúc, khiếu kiện trong nhân dân. Chăn nuôi,
trồng trọt là công việc chính ở nông thôn nhưng nhiều người trong đội ngũ này
không am hiểu về kỹ thuật nông nghiệp không tham mưu được cho sự phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phương. Với trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính
trị như vậy, đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đang gặp phải những thách thức lớn
trước đòi hỏi phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn hiện nay. Nguyên nhân của thực
trạng này là do phần lớn công chức cấp xã xuất thân ở nông thôn, vùng sâu, vùng xa
nên việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đảm bảo tiêu chuẩn gặp rất nhiều
khó khăn. Đây là thách thức rất lớn trong việc phát triển chính quyền cấp cơ sở,
nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước ở địa phương.
3.3. Thực trạng chính sách tiền lương cán bộ, công chức cấp xã
3.3.1. Phân tích thực trạng chính sách tiền lương cán bộ, công chức cấp xã qua
các lần cải cách
Cho đến nay, nước ta đã tiến hành 3 cuộc cải cách tiền lương (năm 1985, 1993
và 2004). Trong những năm qua, không có cải cách tiền lương riêng của cán bộ,
công chức cấp xã mà gắn liền với cải cách tiền lương nói chung, trong đó cải cách
chính sách tiền lương cán bộ, công chức cấp xã là một nội dung của cuộc cải cách
chính sách tiền lương cán bộ, công chức. Do đó, trong phần này, tác giả sẽ phân tích
chính sách tiền lương cán bộ, công chức qua các lần cải cách (1985, 1993 và 2004),
76
trên cơ sở đó chỉ rõ những nội dung mới, những quy định mới đối với công chức
cấp xã trong từng giai đoạn.
3.3.1.1. Chính sách tiền lương công chức giai đoạn 1985 – 1992.
Đây là đợt cải cách mở đầu trong thời kỳ đổi mới. Lúc này chúng ta đang trong
thời kỳ khủng hoảng kinh tế trầm trọng. Trong thời gian này, nhiều nghị quyết của
Đảng đã được đưa ra để tháo gỡ như nghị quyết của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ 5 (3/1982); nghị quyết hội nghị TW lần thứ nhất (9/1982) lần thứ 3 (12/1982,
thứ 4 (6/1983) thứ 5 (12/1983). Trong lĩnh vực tiền lương, điển hình là nghị quyết
của Hội nghị TW 8 (6/1985) đã quyết định một cuộc cải cách lớn về giá – lương –
tiền với nội dung chủ yếu là: tính đủ chi phí hợp lý vào sản xuất; thực hiện cơ chế
một giá; đảm bảo tiền lương thực tế cho người làm công ăn lương; xác lập quyền tự
chủ về tài chính của các cơ sở kinh tế. Trong giai đoạn này, tiền lương bị chi phối
chủ yếu bởi yếu tố chiến tranh và cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp.
Do chi ngân sách tăng vọt song thu ngân sách lại tăng rất ít vì giá vật tư lại không
tăng bao nhiêu so với thị trường, do đó chính phủ phải cho in tiền với khối lượng
lớn hơn rất nhiều so với kế hoạch. Điều ấy dẫn đến một hệ lụy nguy hiểm là lạm
phát bùng nổ và leo thang nhanh chóng tạo ra một vòng xoáy về giá, lương, tiền
theo hướng bất lợi đe dọa nhấn chìm nền kinh tế: tiền phát hành nhiều song vẫn
không đủ (chỉ số giá bán lẻ năm 1986 tăng 587,2% so với 1985), lương của người
lao động nói chung hầu như không có (tiền lương thực tế chỉ còn khoảng 30% so
với 1985), vật tư hàng hóa không có, sản xuất nông nghiệp sa sút, đầu tư cho cho
công nghiệp giảm thấp.
Với sự ra đời của Nghị định 235/ HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng bộ
trưởng (nay là chính phủ) về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân viên chức và
các lực lượng vũ trang đã đánh dấu một sự thay đổi lớn về chính sách tiền lương
nói chung (tất cả các cấp). Tuy nhiên, cải cách tiền lương đợt này chủ yếu hướng
tới đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện trở lên và lực lượng vũ trang. Đối với cán
bộ, công chức cấp xã, do khó khăn về tài chính, trong giai đoạn này đội ngũ cán bộ
công chức cấp xã chỉ được hưởng mức sinh hoạt phí hàng tháng nên đời sống của
77
cán bộ, công chức cấp xã gặp rất nhiều khó khăn.
3.3.1.2. Chính sách tiền lương công chức giai đoạn từ năm 1993 - 2003
Năm 1993 Đảng và nhà nước ta đã tiến hành đợt cải cách tiền lương theo nghị
quyết Hội nghị lần thứ 2 của BCH TW khóa VII. Đông thời, Chính phủ ban hành
Nghị định số 25/CP và 26/CP ngày 23/5/ 1993 quy định tạm thời về chế độ tiền
lương mới đối với các chức vụ dân cử, CNVC nhà nước, CB, CNV cơ quan Đảng,
đoàn thể và CNV các doanh nghiệp nhằm khắc phục những hạn chế bất cập của NĐ
235/CP. Một trong những nội dung cơ bản của cải cách tiền lương đợt này là thay
đổi triệt để cấu trúc tiền lương từ việc phân phối gián tiếp sang phân phối trực tiếp,
xóa bỏ các bao cấp còn lại như bù tiền điện, tiền nhà ở, tiền học, tiền chữa bệnh
v.v... với mục tiêu:
- Tiền lương phải trở thành thước đo giá trị lao động, áp dụng ở mọi thành
phần kinh tế khi có quan hệ lao động theo thị trường
- Tiền lương phải đảm bảo tái sản xuất sức lao động, là nguồn thu nhập chính,
kích thích người lao động là việc có năng suất, chất lượng và hiệu quả, thực hiện
phân phối công bằng trong xã hội
- Khắc phục mâu thuẫn cơ bản của chính sách tiền lương 1985. Thực hiện tiền
tệ hóa tiền lương, xóa bao cấp với bước đi thích hợp nhằm giảm sức ép đối với ngân
sách nhà nước
- Nhà nước thực hiện quản lý kiểm soát tiền lương và thu nhập bằng các công
cụ điều tiết thích hợp nhằm tăng cường và củng cố trật tự kỷ cương pháp luật trong
lĩnh vực lao động tiền lương
Tuy nhiên, giai đoạn này, tiền lương công chức cấp xã vẫn thực hiện theo
Nghị định số 25/1998/NĐ-CP tính cho đến ngày 01 tháng 11 năm 2003. Theo Nghị
định này, hệ thống bảng lương công chức chưa có bảng lương đối cới cán bộ, công
chức cấp xã, dẫn đến cán bộ, công chức cấp xã với đặc thù công việc thường xuyên
phải đi xuống địa bàn, tiếp xúc trực tiếp với dân, đưa chủ trường đường lối chính
sách của Đảng và Nhà nước đến người dân nhưng không được hưởng lương mà chỉ
được hưởng sinh hoạt phí hàng tháng với mức rất thấp, không đảm bảo đời sống
người lao động. Việc cán bộ, công chức cấp xã vẫn chỉ được hưởng mức sinh hoạt
phí như giai đoạn trước là điều thiệt thòi rất lớn đối với cán bộ, công chức cấp xã,
78
bộ phận gần dân nhất, là bộ phận đưa chủ trương, đường lối chính sách của Đảng
và Nhà nước đến người dân ở địa phương. Điều này đã làm triệt tiêu động lực làm
việc của cán bộ, công chức cấp xã.
3.3.1.3. Chính sách tiền lương công chức giai đoạn từ năm 2004 đến nay
* Mục tiêu: Ngày 14/12/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 204/2004/
NĐ- CP về chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang, với các mục tiêu cụ thể:
- Nhằm nâng cao mức sống cho người lao động, phù hợp với sự phát triển của
đất nước.
- Thực hiện tốt hơn nguyên tắc phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất
kinh doanh.
- Đáp ứng yêu cầu của phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, tạo điều kiện
cho việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN chuẩn bị cho
việc xây dựng nền kinh tế dựa vào trí thức
- Tăng cường vai trò đòn bẩy kinh tế của tiền lương, lập lại trật tự công bằng
trong phân phối. Trong khu vực sử dụng ngân sách để trả lương, tiền lương phải là
nguồn sống chính của cán bộ công chức, thực sự là đòn bẩy kích thích công chức
nâng cao trình độ lành nghề
Từ những mục tiêu trên, quan điểm cải cách chính sách tiền lương trong giai
đoạn này là:
- Coi tiền lương là một trong những khoản đầu tư cho con người và là một
trong những nguồn đầu tư có hiệu quả nhất đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tiền lương vẫn
được coi là giá trị sức lao động được hình thành thông qua thỏa thuận giữa người sử
dụng lao động và người lao động phù hợp với quan hệ cung – cầu lao động
- Phân biệt chính sách tiền lương với các chính sách xã hội: hưu trí, ưu đãi
người có công
- Phân biệt tiền lương giữa hành chính và sự nghiệp, từng bước xã hội hóa một
số dịch vụ công như: y tế, giáo dục, đào tạo, văn hóa, khoa học, thể dục thể thao
79
- Gắn cải cách tiền lương với cải cách hành chính.
Trong khu vực hành chính, chủ trương nhấn mạnh: Tiền lương trong khu vực
này phụ thuộc vào:
- Trình độ phát triển kinh tế nói chung (đo bằng bộ phân giá trị mới sáng tạo ra
trong sản xuất kinh doanh và dịch vụ) tỷ lệ huy động vào ngân sách nhà nước; tỷ lệ
phân chia giữa tích lũy và tiêu dùng.
- Vị trí công việc mà công chức đó đảm nhận, trình độ chuyên môn và điều
kiện lao động; thâm niên công tác; độ biến động của giá cả sinh hoạt; hiệu quả công
tác của cá nhân; hiệu quả công tác của đơn vị; từng bước đạt tương đương mức
lương trong sản xuất kinh doanh.
* Nội dung cải cách tiền lương công chức năm 2004 đến nay
Cải cách tiền lương năm 2004 đến nay tập trung vào các nội dung sau:
- Về mức lương tối thiểu
Từ năm 2004 đến nay, Nhà nước thực hiện điều chỉnh tiền lương tối thiểu căn
cứ vào sự biến động tăng lên của chỉ số giá sinh hoạt và tốc độ tăng trưởng GDP.
Tiền lương tối thiểu chung (nay gọi là tiền lương cơ sở) mặc dù được điều chỉnh
theo thời gian nhưng so với yêu cầu nâng cao mức sống của cán bộ, công chức, thì
vẫn rất thấp trong khi điều kiện tăng trưởng GDP khá cao của nền kinh tế nước ta
(2006-2010: 7,01%; 2011-2015: 5,9%; 2016-2019: 6,8%), riêng năm 2020 nền kinh
tế chịu ảnh hưởng của dịch Covid 19 nên GDP chỉ đạt 2,9%).
- Về quan hệ tiền lương tối thiểu – trung bình – tối đa
Mặc dù quan hệ tiền lương tối thiểu - trung bình – tối đa đã được mở rộng lên
1 – 2,34 – 13 nhưng trong nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế như hiện nay
khoảng giãn cách như hiện nay còn thấp, mang tính bình quân, chưa khuyến khích
được lao động có trình độ chuyên môn cao, tay nghề giỏi làm việc cho khu vực
hành chính Nhà nước, dẫn đến hiện tượng chảy máu chất xám ra khu vực sản xuất
kinh doanh và ra nước ngoài.
- Về thang, bảng lương
Hệ thống bảng lương công chức năm 2004, hướng vào một số đổi mới là:
- Bội số tiền lương từ 10 (Chủ tịch nước) được mở rộng lên 13.
- Bảng lương đối với cán bộ, công chức nhà nước năm 2004 so với Bảng
lương năm 1993 được sửa đổi và rút ngắn các bậc hệ số, và thiết kế mới.
80
- Nghị định số 204/2004/NĐ - CP ngày 14/12/2004 của Chính phủ về chế độ
tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức khu vực hành chính nhà nước có
các bảng lương:
+ Bảng lương chuyên gia cao cấp
+ Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ
+ Bảng lương nhân viên thừa hành, phục vụ trong các cơ quan Nhà nước
+ Bảng lương chức vụ đối với cán bộ lãnh đạo Nhà nước
+ Bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ ngành Toà án, ngành Kiểm sát
+ Trong hệ thống bảng lương công chức nhà nước còn có bảng lương của các
chức danh bầu cử cán bộ công chức ở xã, phường, thị trấn.
- Về phụ cấp lương
Các chế độ phụ cấp cũng được sửa đổi, điều chỉnh theo hướng loại bỏ 1 số chế
độ phụ cấp không còn phù hợp với tính hình thực tế và bổ sung thêm một số loại
phụ cấp mới như bổ sung thêm phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp kiêm nhiệm
chức danh lãnh đạo, phụ cấp đặc biệt và một số chế độ phụ cấp đặc thù nghề (phụ
cấp trách nhiệm nghề, phụ cấp ưu đãi nghề) và điều chỉnh tăng hệ số phụ cấp như
phụ cấp trách nhiệm công việc được bổ sung thêm hệ số 0,5; phụ cấp chức vụ được
điều chỉnh tăng ở tất cả các chức vụ từ phó phòng huyện đến thứ trưởng (ví dụ: điều
chỉnh hệ số phụ cấp chức vụ cao nhất từ 1,1 năm 1993 lên 1,3 áp dụng đối với chức
danh thứ trưởng).
- Về cơ chế quản lý tiền lương
Cơ chế quản lý tiền lương có nhiều thay đổi phù hợp với cơ chế thị trường.
Đối với các cơ quan hành chính, nguồn tiền lương do ngân sách cấp thì Nhà nước
trực tiếp xác định và duyệt biên chế, quản lý chặt chẽ việc trả lương cho công chức.
Tách hẳn biên chế viên chức khu vực sự nghiệp nhà nước có nguồn thu sang chế độ
hạch toán tự trang trải hoặc cơ chế Nhà nước hỗ trợ một phần kinh phí hoạt động và
trả lương. Tuy nhiên, cơ chế quản lý tiền lương chưa có hướng tạo mở, phân cấp
cho các địa phương chủ động trong mở rộng quỹ tiền lương của công chức. Trên cơ
sở đó, tạo điều kiện cho các địa phương có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, GDP
bình quân/người cao, có điều kiện hình thành cơ chế bổ sung quỹ tiền lương để
nâng cao thu nhập cho đội ngũ công chức.
81
3.3.1.4. Những điểm mới trong chính sách tiền lương quy định đối với cán bộ, công
chức cấp xã
Quá trình cải cách tiền lương cán bộ, công chức qua từng giai đoạn cho thấy,
suốt từ năm 1985 đến hết tháng 10 năm 2003, cán bộ, công chức cấp xã không được
hưởng lương mà chỉ được hưởng mức sinh hoạt phí hàng tháng (theo quy định của
Nghị định 235/ HĐBT ngày 18/9/1985 của Hội đồng bộ trưởng (nay là chính phủ)
về cải tiến chế độ tiền lương của công nhân viên chức và các lực lượng vũ trang và
được điều chỉnh theo Nghị định số/1998/NĐ-CP). Đến tháng 11 năm 2003, sau gần
10 năm thực hiện chế độ sinh hoạt phí đối với cán bộ, công chức cấp xã nói, Chính
phủ mới thực hiện điều chỉnh chế độ tiền lương đối với công chức cấp xã (chuyển
từ trả sinh hoạt phí hàng tháng sang trả lương cho công chức cấp xã). Cụ thể, Chính
phủ ban hành Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ về
chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trường và Thông tư
Liên tịch số 34/2004/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 14/05/2004 hướng dẫn
thực hiện Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ. Theo
Nghị định số 121/2003/NĐ-CP ngày 21/10/2003 của Chính phủ và Thông tư Liên
tịch số 34/2004/TTLT-BNV-BTC-BLĐTBXH ngày 14/05/2004, tiền lương cán bộ,
công chức cấp xã có thay đổi căn bản như sau: Tiền lương được chi ra theo các
nhóm đối tượng (i) Chế độ tiền lương đối với cán bộ chuyên trách cấp xã; Chế độ
tiền lương đối với công chức cấp xã và Chế độ phụ cấp đối với cán bộ không
chuyên trách ở cấp xã. Tiếp đến nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm
2009 tiếp tục có quy định cụ thể về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức, xã
phường, thị trấn và những người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã. Các nghị
định điều chỉnh mức lương tối thiểu quy định tại các Nghị định 72/2018/NĐ-CP
ngày 15/05/2018, Nghị định 38/2019/NĐ-CP ngày 09/05/2019. Cụ thể như sau:
* Chế độ tiền lương đối với cán bộ chuyên trách cấp xã:
- Nguyên tắc xếp lương đối với cán bộ chuyên trách cấp xã:
+ Cán bộ chuyên trách cấp xã hiện đang giữ chức vụ chuyên trách nào thì xếp
lương theo chức vụ chuyên trách đó. Trường hợp được phân công kiêm nhiệm
nhiều chức vụ chuyên trách thì được xếp lương theo chức vụ chuyên trách cao nhất;
khi không kiêm nhiệm chức vụ chuyên trách thì đảm nhận chức vụ chuyên trách
nào xếp lương theo chức vụ chuyên trách đó.
82
+ Khi thôi giữ chức vụ chuyên trách thì được giữ nguyên (bảo lưu) mức lương
và phụ cấp tái cử (nếu có) trong 6 tháng, sau đó làm công việc gì thì hưởng lương
theo công việc đó. Trường hợp khi thôi giữ chức vụ chuyên trách mà làm công việc
khác có mức lương cao hơn thì xếp ngay vào mức lương cao hơn đó. Trường hợp
trước khi giữ chức vụ chuyên trách cấp xã đã là công chức cấp xã, khi thôi giữ chức
vụ chuyên trách nếu trở về ngạch cũ thì thời gian giữ chức vụ chuyên trách được
tính để xếp bậc lương thâm niên theo ngạch lương của công chức cấp xã.
+ Chuyển xếp vào hệ số lương chức vụ đối với cán bộ chuyên trách cấp xã:
Căn cứ vào chức danh cán bộ chuyên trách, xếp vào hệ số lương tương ứng với
chức danh đó.
Bảng 3.2. Bảng hệ số lương cán bộ chuyên trách cấp xã
STT
Chức vụ
Hệ số lương
Bậc 1 Bậc 2
1 Bí thư Đảng ủy, bí thư chi bộ cấp xã 2,35 2,85
2 Phó Bí thư Đảng ủy, phó bí thư chi bộ cấp xã;
Chủ tịch HĐND; chủ tịch UBND
2,15 2,65
3 Phó Chủ tịch HĐND; chủ tịch UBND; Thường
trực Đảng ủy; Chủ tịch ủy ban mặt trận tổ quốc
1,95 2,45
4 Bí thư Đoàn TNCSHCM, Chủ tịch Hội liên hiệp
phụ nữ; chủ tịch hội cựu chiến binh; Ủy viên ủy
ban nhân dân
1,75 2,25
(Trích Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22 tháng 10 năm 2009)
+ Trường hợp công chức cấp xã được bầu giữ các chức vụ cán bộ chuyên
trách cấp xã, xếp lương theo chức vụ bầu cử có mức lương thấp hơn mức lương của
công chức đã hưởng trước đó thì được hưởng lương chức vụ và bảo lưu hệ số chênh
lệch giữa mức lương của công chức và mức lương chức vụ. Thời gian bảo lưu hệ số
chênh lệch thực hiện trong suốt thời gian giữ chức vụ bầu cử.
+ Cán bộ chuyên trách cấp xã nếu được tái cử thì từ tháng thứ 61 trở đi kể từ
thời điểm được bầu giữ chức vụ bầu cử lần đầu được hưởng phụ cấp tái cử là 5%
hàng tháng theo mức lương chức vụ hiện đang đảm nhiệm.
* Chế độ tiền lương đối với công chức cấp xã
- Nguyên tắc xếp lương đối với công chức cấp xã như sau:
83
+ Công chức cấp xã tốt nghiệp từ đại học trở lên phù hợp với chuyên môn của
chức danh hiện đang đảm nhiệm được xếp lương theo bảng lương hành chính như
công chức ngạch chuyên viên từ cấp huyện trở lên.
+ Công chức cấp xã tốt nghiệp đào tạo trung cấp phù hợp với chuyên môn của
chức danh hiện đang đảm nhiệm, được xếp theo bảng lương hiện hành chính, ngạch
cán sự. Trường hợp được tuyển dụng lần đầu mà có trình độ đào tạo cao đẳng phù
hợp với chuyên môn của chức danh hiện đang đảm nhiệm thì sau thời gian tập sự
được xếp vào bậc 2 của ngạch cán sự.
+ Công chức cấp xã tốt nghiệp đào tạo sơ cấp phù hợp với chuyên môn của
chức danh hiện đang đảm nhiệm, được xếp lương theo bảng lương hành chính,
ngạch nhân viên văn thứ.
+ Công chức cấp xã có sự thay đổi về bằng cấp chuyên môn do cơ quan, tổ
chức cí thẩm quyền quyết định cử đi đào tạo, thì được xếp lương vào ngạch tương
ứng với trình độ đào tạo mới. Thời gian nâng bậc lần sau được tính từ thời điểm có
bằng cấp mới.
- Chuyển xếp vào ngạch, bậc lương chuyên môn đốiv ới công chức cấp xã
trước đó là cán bộ chuyên môn hưởng sinh hoạt phí theo quy định tại Nghị định
09/1998/NĐ-CP như sau:
+ Căn cứ vào thời gian công chức cấp xã đã đưởng hưởng sinh hoạt phí theo
Nghị định 09/1998/NĐ-CP đối với công chức cấp xã được xếp vào ngạch chuyên
viên là: Nếu có thời gian hưởng sinh hoạt phí dưới 3 năm (dưới 36 tháng) thì giữ
nguyên ngạch bậc hiện hưởng; thời gian tính nâng bậc lần sau kể từ ngày hưởng
sinh hoạt phí; Nếu thời gian hưởng sinh hoạt phí từ đủ 3 năm (đủ 36 tháng0 thì
được xếp vào bậc lương liền kề (nếu trong ngạch còn bậc); Trường hợp xếp vào
ngạch cán sự thì dưới 2 năm (dưới 24 tháng thì giữ nguyên ngạch; từ đủ 2 năm (đủ
24 tháng) thì xếp vào bậc liền kề (nếu trong ngạch còn bậc).
- Chế độ tiền lương trong thời gian tập sự đối với công chức cấp xã: Công
chức cấp xã đang trong thời gian tập sự được hưởng 85% bậc lương khởi điểm theo
trình độ đào tạo chuyên môn của ngạch công chức tuyển dụng; Đối với công chức
tập sự ở các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo thì trong thời gian
tập sự được hưởng 100% bậc lương khởi điểm tho trình độ đào tạo chuyên môn của
ngạch công chức được tuyển dụng.
- Chế độ nâng bậc lương thường xuyên đối với công chức cấp xã:
84
+ Công chức cấp xã có đủ điều kiện về thời gian giữ bậc cũ là 3 năm (đủ 36
tháng) đối với công chức xếp ngạch chuyên viên và 2 năm (24 tháng) đối với công
chức giữa ngạch cán sự hoặc văn thư đồng thời đạt đủ 2 tiêu chuẩn: Hoàn thành
nhiệm vụ được giao; Không bị một trong các hình thức kỷ luật khiển trách, cảnh
cáo, hạ bậc lương hoặc chịu hình phạt của tòa án.
Bên cạnh đó, Điều 6, Nghị định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 cũng quy
định trường hợp bị kéo dài thời gian nâng bậc lương như sau: Công chức cấp xã
không hoàn thành nhiệm vụ hoặc bị kỷ luật từ khiển trách, cảnh cáo thì thời gian
nâng lương bị kéo dài 06 tháng, nếu bị cách chức thì thời gian nâng lương bị kéo dài
12 tháng, kể từ ngày quyết định kỷ luật có hiệu lực.
Ngoài tiền lương, cán bộ, công chức cấp xã còn được hưởng các loại phụ cấp
như phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung, phụ cấp kiêm nhiệm
chức danh và phụ cấp theo loại xã. Theo đó, cán bộ, công chức cấp xã được hưởng
các chế độ phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung, giống như cán bộ, công
chức cấp huyện, tỉnh, trung ương. Bên cạnh đó, cán bộ, công chức cấp xã còn được
hưởng thêm chế độ phụ cấp đặc thù là phụ cấp kiêm nhiệm chức danh, phụ cấp theo
loại xã (xã loại 1: 10%, xã loại 2 được hưởng 5% theo mức lương hiện hưởng, kể cả
phụ cấp chức vụ lãnh đạo, phụ cấp thâm niên vượt khung (nếu có). Phụ cấp theo
loại xã không được dùng để tính đóng, hưởng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế.
Như vậy, cải cách chính sách tiền lương cán bộ, công chức năm 2004 đến nay
đã đạt được những thành công nhất định, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, công
chức cấp xã. Trong đó, cán bộ, công chức cấp xã được quan tâm hơn, được nhìn
nhận đúng hơn vai trò của cán bộ, công chức cấp xã trong phát triển kinh tế - xã hội,
đưa chủ trường đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước đến người dân địa
phương và đã có những cải tiến tích cực như (1) xóa bỏ chế độ sinh hoạt phí, thay
vào đó, cán bộ công chức cấp xã được hưởng lương theo chức vụ (đối với cán bộ)
và theo trình độ đào tạo giống như cán bộ, công chức các cấp cao hơn (cấp huyện,
tỉnh,...) đã góp phần nâng cao đời sống của cán bộ, công chức cấp xã. (2) Chế độ
nâng bậc lương được thực hiện như chế độ nâng bậc lương của công chức các cấp
(huyện, tỉnh, trung ương) và tính tiếp thời gian hưởng sinh hoạt phí ở giai đoạn
trước. Bên cạnh tiền lương, cán bộ, công chức cấp xã cũng được hưởng các loại phụ
cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung giống như công chức khác và còn được
85
hưởng phụ cấp đặc thù theo loại xã. Đây là điểm tích cực của chính sách tiền lương
đối với công chức cấp xã khi tính đến yếu tố đặc thù của cán bộ, công chức cấp xã.
3.3.2. Đánh giá chính sách tiền lương và thu nhập của công chức cấp xã theo các
tiêu chí
3.3.2.1. Đánh giá về mức độ công bằng và hiệu quả trong trả lương đối với công
chức cấp xã
Để đánh giá thực trạng tiền lương, thu nhập của công chức cấp xã, tác giả đã
tiến hành điều tra khảo sát với 500 công chức cấp xã ở 10 tỉnh trong cả nước. Sau
đây là phân tích kết quả của cuộc điều tra.
Bảng 3.3. Tiền lương bình quân tháng của công chức cấp xã qua các năm
Tiền lương bình quân
Năm
2015
Năm
2016
Chênh lệch
2016/2015
Tiền lương (cả phụ cấp)/BQ tháng năm 3,208,500 3,375,900 5.22
Tiền lương theo chế độ tháng BQ năm 2,898,000 3,049,200 5.217
(Nguồn: Kết quả điều tra)
Số liệu bảng 3.3. cho thấy, tiền lương bình quân tháng (kể cả phụ cấp lương)
của công chức cấp xã năm 2015 là 3.208.500 đồng/tháng, năm 2016 là 3.375.900
đồng/tháng. Tiền lương theo chế độ tháng (không tính phụ cấp lương) năm 2015 chỉ
là 2.898.000 đồng/tháng và năm 2016 là 3.049.200 đồng/tháng, tăng khoảng 5% so
với năm 2015 (tương đương mức tăng tiền lương cơ sở).
Biểu đồ 3.1. So sánh tiền lương bình quân của công chức cấp xã với tiền lương
bình quân công chức các cấp.
(Nguồn: Kết quả điều tra)
0
1000000
2000000
3000000
4000000
5000000
6000000
7000000
Các Bộ,
ngành
TW
Các Sở,
ngành
tỉnh
Các
Phòng
huyện
Các ban
cấp xã
6074200
49126004489100
3375900
Tiền lương
bình quân (kể
cả phụ cấp)
86
Như vậy, tiền lương bình quân tháng của công chức cấp xã khá thấp, thấp hơn
khá nhiều so với công chức các cấp khác (trung ương, tỉnh, huyện) và thấp hơn rất
nhiều so với mức lương bình quân khu vực sản xuất kinh doanh. Cụ thể, xem biểu đồ
3.1. so sánh mức lương bình quân của công chức cấp xã với công chức các cấp khác.
Biểu đồ 3.1 cho thấy, tiền lương bình quân tháng của công chức cấp xã thấp
hơn khá nhiều so với công chức các cấp (huyện, tỉnh, trung ương). Cụ thể, tiền
lương bình quân tháng của công chức cấp xã chỉ là 3.375.900 đồng/tháng, tiền
lương bình quân của công chức làm ở các phòng cấp huyện là 4.409.100
đồng/tháng; tiền lương bình quân của công chức làm ở cấp tỉnh và làm ở các Bộ,
ngành Trung ương lần lượt là 4.912.600 đồng và 6.074.200 đồng. Như vậy, tiền
lương bình quân của công chức cấp xã chỉ bằng 75,2% tiền lương bình quân của
công chức cấp huyện, bằng 68,72% công chức cấp tỉnh và chỉ bằng 55,58% công
chức làm ở các Bộ, ngành Trung ương.
Đặc biệt, So sánh tiền lương của công chức công chức cấp xã với tiền lương
của cán bộ, viên chức trong các đơn vị sự nghiệp có thu; sỹ quan, quân