Luận án Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai

MỞ ĐẦU . 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU . 7

1.1. Tình hình nghiên cứu ở ngoài nước. 7

1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước . 10

1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án . 20

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỨNG MINHTRONG TỐ

TỤNG HÌNH SỰ. 25

2.1 Cơ sở phương pháp luận của chứng minh trong tố tụng hình sự. 26

2.2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích và ý nghĩa chứng minh trong tố tụng hình sự. 30

2.3. Đối tượng chứng minh và giới hạn chứng minh trong tố tụng hình sự . 44

2.4. Quá trình chứng minh trong tố tụng hình sự . 55

2.5. Chứng minh trong các mô hình tố tụng và một số nước trên thế giới. 66

Chương 3: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG MINH TRONG TỐ

TỤNG HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI TỈNH ĐỒNG NAI . 76

3.1. Quy định của pháp luật về chứng minh trong tố tụng hình sự. 76

3.2. Thực tiễn chứng minh trong tố tụng hình sự tại tỉnh Đồng Nai . 95

Chương 4: YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG

CHỨNG MINH TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ. 119

4.1. Yêu cầu và các giải pháp nâng cao chất lượng chứng minh trong tố tụng hình

sự từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai . 119

4.2. Các giải pháp bảo đảm thực hiện quy định của pháp luật hiện hành về chứng

minh trong tố tụng hình sự . 124

4.3. Tiếp tục hoàn thiện quy định của pháp luật về chứng minh trong tố tụng hình

sự. 139

KẾT LUẬN. 149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

pdf214 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 11/03/2022 | Lượt xem: 349 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chứng minh trong tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
chết người hoặc giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh; lừa đảo và lạm dụng tín nhiệm để chiếm đoạt tài sản; cướp tài sản và cưỡng đoạt tài sản;... Sai sót trong việc thu giữ, bảo quản và xử lý vật chứng như: Lập biên bản thu giữ vật chứng sơ sài không mô tả chi tiết mẫu vật thu giữ; không tiến hành niêm phong; không có người chứng kiến,... nên khi gửi mẫu vật đi giám định đã không được cơ quan chức năng công nhận. Việc bảo quản vật chứng ở nhiều địa phương chưa đảm bảo, có trường hợp làm hư hỏng vật chứng, thậm chí để mất hoặc đánh tráo vật chứng. Có trường hợp Cơ quan điều tra đã thu giữ cả những đồ vật không liên quan gì đến vụ án. Tóm lại, Những thiếu sót, tồn tại trên trong hoạt động chứng minh trong quát trình tố tụng của Cơ quan điều tra đã gây khó khăn hoặc kéo dài việc xử lý vụ án ở các giai đoạn tiếp theo của quá trình TTHS, điều đó được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau đây:Nhiều trường hợp đề nghị truy tố của Cơ quan điều tra không được Viện kiểm sát chấp nhận cụ thể về tội danh, điều khoản BLHS sự áp dụng, về tình tiết định khung tăng nặng, các tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sựMột số vụ án bị đình chỉ vì không có căn cứ khởi tố theo quy định của pháp luật, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đã hết, người phạm tội chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, hành vi không đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nhiều trường hợp bỏ lọt tội phạm... Trả hồ sơ để điều tra bổ sung do thu thập chưa đầy đủ chứng cứ, vi phạm thủ tục tố tụng... Thực tiễn chứng minh trong giai đoạn truy tố: Về việc xác định đối tượng chứng minh: Sự phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã thực hiện nghiêm túc trong việc xác định đối tượng chứng minh, thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, đặc biệt là sự bắt buộc việc hỏi cung (phúc cung) bị can của Kiểm sát viên đối với tất cả các vụ án sau khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra đề nghị truy tố nhằm bảo đảm sự thận trọng, tính khách quan, toàn diện trong việc thu thập, đánh giá chứng cứ đảm bảo cho việc truy tố đúng người, đúng tội. Kiểm sát viên được phân công giải quyết vụ án phải rà soát, kiểm tra chặt chẽ quá trình tố tụng của vụ án, 102 nhất là biện pháp ngăn chặn đang áp dụng có liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân nhằm chống oan, bỏ lọt, hạn chế sai sót dẫn đến việc Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Do đó, tỉ lệ giải quyết án ở giai đoạn truy tố đạt chất lượng cao, không có trường hợp nào VKS truy tố mà Tòa tuyên không phạm tội.Trên cơ sở nghiên cứu kỹ nội dung vụ án, đánh giá toàn diện các chứng cứ buộc tội và gỡ tội, cáo trạng truy tố đảm bảo đầy đủ chứng cứ, đúng tội danh, đúng thời hạn, Kiểm sát viên chủ động phúc cung bị can trước khi dự thảo cáo trạng, nhất là các bị can không nhận tội, kêu oan nhưng hồ sơ thể hiện đầy đủ chứng cứ xác định hành vi phạm tội của bị can. Tuy nhiên, việc xác định đối tượng chứng minh được kiểm tra lại, chính vì vậy phát hiện được những sai sót của giai đoạn trước đó nhằm khắc phục, thể hiện qua việc số lượng các vụ án bị trả hồ sơ điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ chiếm tỷ lệ rất cao do quá trình điều tra, thu thập chứng cứ còn có nhiều thiếu sót, đây cũng là cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự đối với bị can, bị cáo và cũng là cơ sở và trách nhiệm chứng minh sự vô tội của các cơ quan tiến hành tố tụng đối với người phạm tội (phụ lục số 3). Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can không có căn cứ pháp luật, không chứng minh được các yếu tố cấu thành tội phạm, có trường hợp hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế. (xem mục 1 phụ lục số 13). Tình trạng các cơ quan tiến hành tố tụng đã bỏ qua không điều tra xác minh hoặc không đánh giá đầy đủ, toàn diện đối với các chứng cứ gỡ tội, các chứng cứ chứng minh tình trạng ngoại phạm của bị cáo dẫn đến trường hợp xử lý oan người vô tội, có trường hợp qua nhiều cấp xét xử. (xem mục 5 phụ lục số 13) Ở giai đoạn này việc thu thập chứng cứ còn có những thiếu sót như: Sau khi nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên được phân công đã đề xuất của phê chuẩn các quyết định, lệnh tạm giam bị can theo đề nghị của Cơ quan điều tra không đúng quy định của pháp luật. Có trường hợp Viện kiểm sát đã ra quyết định đình chỉ điều tra không đúng thẩm quyền hoặc không có căn cứ pháp luật quy định, lý do đình chỉ điều tra không phù hợp với tính chất hành vi phạm tội. Việc thực hiện các quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam chưa đúng với quy định của BLTTHS. Không ít trường hợp sau khi một thời gian bị can bị tạm giam, thì vụ án phải đình chỉ điều tra vì không có hành vi phạm tội xảy ra; hành vi không cấu thành tội phạm hoặc được miễn trách nhiệm hình sự,... 103 Khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc khởi tố, kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố tại phiên tòa, một số Kiểm sát viên không xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ buộc tội và các chứng cứ gỡ tội. Các chứng cứ mâu thuẫn với nhau về chứng cứ ngoại phạm của bị can. Về thời gian, địa điểm xảy ra vụ án. Công cụ, hung khí thực hiện hành vi;... Không phát hiện được các chứng cứ còn thiếu, hoặc những chứng cứ mâu thuẫn với nhau để yêu cầu Cơ quan điều tra hoặc tự mình bổ sung chứng cứ, tiến hành xét hỏi, đối chất tại phiên tòa để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án. Một số Kiểm sát viên còn ỷ lại cho rằng các chứng cứ, tài liệu đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã đầy đủ nên không làm tốt công tác chuẩn bị kế hoạch xét hỏi, chuẩn bị lời luận tội hoặc dự kiến các tình huống có thể phát sinh trong đối đáp với Luật sư, bị cáo và các đương sự hoặc chủ quan chuẩn bị qua loa, chiếu lệ cho việc tham gia phiên tòa nên bị động, lúng túng và không bảo vệ được cáo trạng, nhất là trong các trường hợp tại phiên tòa các bị cáo, người làm chứng,... phản cung, chối tội. (xem mục 3 phụ lục số 13) Việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ còn nhiều sai sót: Nhiều trường hợp Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá chưa đúng về các chứng cứ, tài liệu các tình tiết về vụ án,... nên không phát hiện kịp thời các trường hợp hành vi vi phạm không cấu thành tội phạm. Do không xem xét, đánh giá đúng và đầy đủ về các chứng cứ, tài liệu của vụ án nên xác định không chính xác về ý thức chủ quan của bị can và đề xuất việc truy tố không đúng đối với hành vi không phải là tội phạm và khi xét xử Toà án đã tuyên bị cáo không phạm tội. (xem mục 2 phụ lục số 13). Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm không chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo, nên sau khi cấp phúc thẩm hủy án đã đình chỉ không đúng với quy định của pháp luật nhằm né tránh trách nhiệm(xem mục 4 phụ lục số 13).Việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát cấp trên (cấp tỉnh) đối với hoạt động xét xử của các Tòa án cấp dưới và kiểm tra hoạt động của Viện kiểm sát cấp dưới trong những năm qua cũng còn nhiều bất cập. Công tác tổng kết, rút kinh nghiệm về các sai sót, vi phạm ở các Viện kiểm sát cấp huyện chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời. (xem mục 6 và mục 7 phụ lục số 13). Tóm lại, số vụ án bị đình chỉ và tạm đình chỉ chiếm tỉ lệ thấp, cụ thể số thụ lý vụ án và số bị can thì số vụ án bị đình chỉ điều tra và số vụ án bị tạm đình chỉ điều tra chiếm tỷ lệ thấp, điều này chứng tỏ trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện tốt trách nhiệm của mình khi 104 thực hiện trong quá trình điều tra, truy tố (phụ lục số 4).Số lượng các vụ án bị Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai trả hồ sơ để điều tra bổ sung trong giai đoạn truy tố chiếm tỷ lệ thấp, chứng minh được trách nhiệm chứng minh tội phạm của cơ quan điều tra trong giai đoạn khởi tố, điều tra (phụ lục số 5).Số vụ án VKSND tỉnh Đồng Nai ra quyết định đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án từ năm 2008 đến năm 2017 thể hiện số liệu có nhiều năm rất cao, tuy nhiên việc đình chỉ và tạm đình chỉ đều thực hiện đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự (phụ lục số 6). Thực tiễn chứng minh trong giai đoạn xét xử: Các vi phạm chủ yếu trong giai đoạn xét xử: Áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ không đúng, áp dụng chưa đúng khoản của điều luật, hình phạt đối với bị cáo chưa nghiêm, chưa tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội do bị cáo gây ra, vi phạm về thời hạn giao bản án qua Viện kiểm sát, trả hồ sơ điều tra bổ sung không đúng theo Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22/12/2017. Vẫn còn một số vụ ánbị hủy án có lỗi chủ quan của Kiểm sát viên. Những sai sót trong việc xác định đối tượng chứng minh: Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cấp sơ thẩm đã vi phạm trong việc chứng minh về việc miễn trách nhiệm hình sự dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm, qua xét hỏi công khai tại phiên tòa đã có đủ căn cứ chứng minh hành vi đồng phạm.(xem mục 1 phụ lục số 14). Việc phát hiện về việc nhập vụ án không đúng của cơ quan điều tra và Viện kiểm sát (xem mục 2 phụ lục số 14). Quá trình điều tra Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát chưa thực hiện việc giám định tốc độ nên chưa chứng minh được tốc độ của xe (xem mục 3 phụ lục số 14).Trong nhiều trường hợp ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa khi nghiên cứu hồ sơ đã không phát hiện kịp thời việc điều tra không đầy đủ, phiến diện, những vi phạm thủ tục tố tụng của Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ ở giai đoạn điều tra, truy tố, không phát hiện ra các căn cứ không được khởi tố vụ án... nên vẫn ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Các sai sót này dẫn đến khi xét xử vụ án tại phiên tòa Hội đồng xét xử phải tra hồ sơ vụ án yêu cầu điều tra bổ sung, đình chỉ vụ án hoặc kết tội bị cáo không có căn cứ pháp luật. (xem mục 4 phụ lục số 14).Căn cứ chứng minh hành vi phạm tội và trách nhiệm chứng minh về các yếu tố cấu thành tội phạm chưa thống nhất với nhau (xem mục 5 phụ lục số 14). Sai sót trong việc thu thập chứng cứ: Trong vụ án cố ý gây thương tích, Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát đã có nhiều thiếu sót như chưa điều tra làm rõ hung 105 khí trong vụ án, việc giám định thương tích chưa đầy đủ. Thiếu sót trong việc chứng minh làm rõ nhân thân, lý lịch của bị cáocủa cơ quan diều tra và Viện kiểm sát. Cơ quan điều tra và viện kiểm sát cấp sơ thẩm chưa chứng minh vai trò đồng phạm và vi phạm về việc thu giữ giấy tờ tài liệu. Thiếu sót của cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc chứng minh làm rõ tình tiết tăng nặng. Chưa có căn cứ chứng minh các yếu tố cấu thành tội phạm, chưa chứng minh được hành vi phạm tội của bị can, vai trò đồng phạm và bỏ lọt tội phạm, có dấu hiệu ép cung đối với bị cáo. (xem mục 6 đến mục 12 phụ lục số 14). Việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ không toàn diện, đầy đủ, không khách quan, bỏ qua các chứng cứ, tình tiết gỡ tội hay buộc tội, các mâu thuẫn giữa lời khai của bị cáo, đương sự, người làm chứng; kết luận giám định pháp y,... nên đã dẫn đến xét xử làm oan người vô tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Nguyên nhân chủ yếu của thiếu sót này là sự hạn chế về trình độ chuyên môn. Qua số liệu thống kê về kết quả số vụ án do Tòa án nhân dân cấp huyện trả hồ sơ điều tra bổ sung cho thấy còn rất cao với các nguyên nhân chủ yếu là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, có căn cứ để chứng minh về đồng phạm là khá phổ biến, điều này thể hiện quá trình đấu tranh tội phạm và diễn biến công khai tại phiên tòa thể hiện lời khai của bị cáo tại phiên tòa là cơ sở để tiếp tục điều tra và là cơ sở để khởi tố và truy tố đối với các đối tượng là đồng phạm trong vụ án, hoặc cần phải khắc phục những thiếu sót vừa làm cơ sở vững chắc khi chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo, vừa đảm bảo việc giải quyết vụ án được chính xác, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội(phụ lục số7). Số vụ án bị đình chỉ và tạm đình chỉ từ năm 2008 đến năm 2017 đều đúng theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự. Đối với án tạm đình chỉ với lý do cần giám định tâm thần đối với bị cáo, còn đối với án đình chỉ chủ yếu với lý do người yêu cầu khởi tố rút yêu cầu trước ngày mở phiên tòa. Không có vụ án nào bị khiếu nại. Đặc biệt năm 2010 có 01 vụ/01 bị cáo Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên không phạm tội, thể hiện sự độc lập trong việc chứng minh tội phạm giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án (phụ lục số 8). Qua phụ lục số 9 cho thấy việc Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai khi giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm, số lượng các vụ án bị trả hồ sơ để điều trả bổ sung còn nhiều, đặc biệt có năm chiếm đến 30%, điều này thể hiện việc điều tra, truy tố còn chưa thu thập đầy đủ chứng cứ tài liệu hoặc chưa thực hiện đúng các quy định của 106 BLTTHS về việc thu thập chứng cứ dẫn đến vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Qua đó chất lượng về việc chứng minh trong tố tụng hình sự của các Cơ quan tiến hành tố tụng, cụ thể là Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát còn nhiều thiếu sót. Với số lượng án nhiều được thể hiện qua các năm nhưng kết quả xét xử giải quyết đạt được tỷ lệ cao, số vụ án bị đình chỉ và tạm đình chỉ chiếm tỷ lệ thấp. Các vụ án bị đình chỉ và tạm đình chỉ đều đúng quy định của pháp luật, không có vụ án nào bị khiếu nại. Qua đó thể hiện trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự của các cơ quan tố tụng cấp tỉnh đã thực hiện đúng quy định của BLTTHS (phụ lục số 10). Qua kết quả xét xử phúc thẩm từ năm 2008 đến năm 2017 cấp phúc thẩm đã giải quyết được số lượng án nhiều, đối với số án bị sửa có năm chiếm đến 31% chiếm tỷ lệ rất cao, án hủy có năm chiếm 3,7%, qua đó thể hiện trách nhiệm chứng minh tội phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện còn nhiều thiếu sót, hạn chế. Tuy nhiên, năm 2010 cấp phúc thẩm đã giữ nguyên bản án sơ thẩm về việc tuyên 01 vụ/01 bị cáo không phạm tội, điều này càng chứng tỏ sự độc lập trong chứng minh tội phạm (phụ lục số 11). Tóm lại: Nguyên nhân, thiếu sót do trong quá trình điều tra ĐTV, KSV chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án; KSV không phát hiện được những thiếu sót trong quá trình điều tra vụ án của ĐTV, đến khi Cơ quan điều tra kết thúc điều tra chuyển hồ sơ sang Viện kiểm sát thì mới phát hiện thiếu sót mà không thể khắc phục được nên phải trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra để điều tra bổ sung; hoặc khi hoàn tất hồ sơ chuyển sang Tòa truy tố thì Thẩm phán nghiên cứu hồ sơ đã phát hiện những thiếu sót trong quá trình thu thập chứng cứ, hoặc có đồng phạm khác trong vụ án, hoặc bị can còn có hành vi phạm tội khác nên đã trả hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra bổ sung. Các vi phạm của các cơ quan tiến hành tố tụng của cấp sơ thẩm: Vi phạm do áp dụng không đúng các quy định pháp luật dẫn đến sai sót, bỏ lọt tội phạm. Vi phạm dẫn đến kháng nghị theo trình tự phúc thẩm. Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm bỏ lọt tội phạm. Nhận thức và áp dụng không đúng các quy định pháp luật trong quá trình xét xử dẫn đến việc chứng minh có nhiều sai sót. Đường lối xử lý không phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết khác dẫn đến việc đánh giá chứng cứ khi quyết định hình phạt của các Tòa án không chính xác. (xem mục 13 và mục 14 phụ lục số 14). 107 Tổng kết thực tiễn từ ngày 01/12/2017 đến ngày 31/5/2019 về việc thực hiện hoạt động chứng minh theo quy định BLTTHS năm 2015 tại tỉnh Đồng Nai: Qua thực tiễn công tác phát hiện ra một số vi phạm cụ thể: vi phạm về việc để tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố quá hạn luật định; vi phạm về việc tiếp nhận, điều tra, thu thập chứng cứ; vi phạm về xác minh ban đầu, hạn chế thụ lý những nguồn tin không phải tố giác, tin báo về tội phạm; phân công điều tra viên chưa kịp thời; không chuyển các quyết định tố tụng và hồ sơ giải quyết cho Viện kiểm sát để kiểm sát. Công tác giám định mất nhiều thời gian.Giám định viên tư pháp còn thiếu nhất là trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng dẫn đến việc ra kết luận giám định phải mất rất nhiều thời gian, trong khi luật không quy định thời gian giám định là bao lâu. Số lượng KSV và ĐTV còn thiếu so với nhu cầu công tác. Vẫn còn án tạm đình chỉ, trường hợp đình chỉ điều tra do không phạm tội còn xảy ra, hành vi không cấu thành tội phạm, không có sự việc phạm tội, một số vụ án phải trả cơ quan điều tra để điều tra bổ sung do thiếu chứng cứ, làm rõ vai trò đồng phạm, có căn cứ khởi tố bị can về tội phạm khác. Còn có trường hợp hết thời hạn truy cứu trách nhiệm hình sự, hành vi không cấu thành tội phạm, không có sự việc phạm tội, số lượng án bị huỷ để điều tra xét xử lại nhiều do vi phạm tố tụng,thời hạn truy tố ngắn đặc biệt là đối với những vụ án kinh tế-tham nhũng, những vụ án có nhiều bị can, nhiều tội danhthể hiện qua phụ lục số 15 và phụ lục số 16 3.2.2. Đánh giá thực tiễn chứng minh trong tố tụng hình sự tại tỉnh Đồng Nai Những kết quả đạt được: Đồng Nai là tỉnh có số lượng án đứng thứ 3 của cả nước chỉ sau TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, đặc biệt số vụ án hình sự ngày càng gia tăng, tính chất, mức độ phạm tội ngày càng tinh vi và phức tạp, nhưng các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đã nổ lực phấn đấu trong việc chứng minh trách nhiệm hình sự, điều này thể hiện qua số liệu giải quyết án hình sự của cấp sơ thẩm và phúc thẩm trên địa bàn tỉnh Đồng Nai. Tuy nhiên, số lượng án phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung còn nhiều, phản ánh chất lượng điều tra, truy tố phần nào còn có nhiều thiếu sót, hạn chế trong quá trình chứng minh trách nhiệm hình sự. 108 Đặc biệt là sự phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và sự độc lập trong trách nhiệm chứng minh trong tố tụng hình sự, điều này thể hiện qua số liệu trả hồ sơ để điều tra bổ sung nhằm chứng minh và là cơ sở mang tính pháp lý, đảm bảo đúng quy định của pháp luật tố tụng hình sự, vừa đảm bảo đúng thủ tục tố tụng, vừa bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo, tránh việc oan, sai khi chứng minh trách nhiệm hình sự. Sự độc lập này còn thể hiện qua việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đã xét xử và tuyên 01 vụ/01 bị cáo không phạm tội, thể hiện tinh thần thượng tôn pháp luật, thể hiện đầy đủ nguyên tắc tranh tụng và nguyên tắc suy đoán vô tội. Những hạn chế, vướng mắc: Hạn chế, vướng mắc trong việc xác định đối tượng chứng minh: Cơ quan cảnh sát điều tra tiến hành khởi tố vụ án rất chậm, thậm chí không thực hiện các hoạt động điều tra hoặc điều tra chưa đầy đủ, dể dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Tình trạng hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế, hành chính, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay việc dân sự hóa hình sự khá phổ biến, dẫn đến nhiều sai phạm khi khởi tố vụ án, khởi tố bị can. Sai sót trong việc chứng minh nhân thân người phạm tội: Việc điều tra xác minh về tiền án, tiền sự, độ tuổi của bị can hoặc của nạn nhân, nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tội phạm của người chưa thành niên;... cũng là những tồn tại trong hoạt động chứng minh của Cơ quan điều tra. Giai đoạn truy tố là giai đoạn kế tiếp của giai đoạn điều tra. Hoạt động chứng minh của Viện kiểm sát mang tính chất kiểm tra, đánh giá hoạt động chứng minh về vụ án của Điều tra viên và bổ sung chứng cứ, tài liệu về vụ án nếu thấy cần thiết để ra quyết định xử lý vụ án theo quy định của pháp luật như: trả hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ điều tra hoặc tạm đình chỉ điều tra vụ án; truy tố bị can ra Tòa án để xét xử. Chính vì vậy, hoạt động chứng minh của Viện kiểm sát có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nó là điều kiện bảo đảm để xử lý vụ án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm đồng thời không làm oan người vô tội. Xuất phát từ vị trí và vai trò của Viện kiểm sát như đã nêu trên, có thể nói rằng các sai sót, vi phạm của Cơ quan điều tra trong quá trình thu thập, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ, tài liệu về vụ án cũng chính là sai sót, vi phạm của Viện kiểm sát nếu khi tiến hành kiểm sát điều tra, truy tố, Viện kiểm sát không phát hiện được và không áp dụng các biện pháp theo quy định của pháp luật để khắc phục những sai sót của Cơ quan điều tra. Bên cạnh những kết quả đạt được như đã đề cập ở trên, hoạt động chứng minh 109 của Viện kiểm sát các cấp cũng có nhiều bất cập thể hiện ở một số điểm cụ thể sau đây cần được khắc phục: Việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can không có căn cứ pháp luật, không chứng minh được các yếu tố cấu thành tội phạm, có trường hợp hình sự hóa các quan hệ dân sự, kinh tế; Năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế và trách nhiệm của một số Kiểm sát viên còn nhiều hạn chế: rất nhiều trường hợp, việc nghiên cứu hồ sơ vụ án không kỹ, không phát hiện ra các thiếu sót, vi phạm thủ tục tố tụng của Cơ quan điều tra khi tiến hành các hoạt động thu thập, kiểm tra, xác minh, đánh giá chứng cứ, tài liệu về vụ án như khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thu giữ vật chứng, trưng cầu giám định, không lấy lời khai của những người biết về những tình tiết quan trọng về vụ án, chứng cứ ngoại phạm. Vì vậy, phải trả hồ sơ điều tra bổ sung nhiều lần mới đủ chứng cứ hoặc phải đình chỉ điều tra vì không thu thập đủ chứng cứ chứng minh tội phạm. Sau khi nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên được phân công đã đề xuất phê chuẩn các quyết định, lệnh tạm giam bị can theo đề nghị của Cơ quan điều tra không đúng quy định của pháp luật. Có trường hợp Viện kiểm sát đã ra quyết định đình chỉ điều tra không đúng thẩm quyền hoặc không có căn cứ pháp luật quy định, lý do đình chỉ điều tra không phù hợp với tính chất hành vi phạm tội. Việc thực hiện các quy định về bắt, tạm giữ, tạm giam chưa đúng với quy định của BLTTHS. Không ít trường hợp sau khi một thời gian bị can bị tạm giam, thì vụ án phải đình chỉ điều tra vì không có hành vi phạm tội xảy ra; hành vi không cấu thành tội phạm hoặc được miễn trách nhiệm hình sự,... Nhiều trường hợp Kiểm sát viên nghiên cứu hồ sơ vụ án, đánh giá chưa đúng về các chứng cứ, tài liệu các tình tiết về vụ án,... nên không phát hiện kịp thời các trường hợp hành vi vi phạm không cấu thành tội phạm. Do không xem xét, đánh giá đúng và đầy đủ về các chứng cứ, tài liệu của vụ án nên xác định không chính xác về ý thức chủ quan của bị can và đề xuất việc truy tố không đúng đối với hành vi không phải là tội phạm và khi xét xử Toà án đã tuyên bị cáo không phạm tội; Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm không chứng minh được hành vi phạm tội của bị cáo, nên sau khi cấp phúc thẩm hủy án đã đình chỉ không đúng với quy định của pháp luật nhằm né tránh trách nhiệm, tình trạng Viện kiểm sát đã bỏ qua không điều tra xác minh hoặc không đánh giá đầy đủ, toàn diện đối với các chứng cứ gỡ tội, các chứng cứ chứng minh tình trạng ngoại phạm của bị cáo dẫn đến trường hợp xử lý oan người vô tội, có trường hợp qua nhiều cấp xét xử. Việc thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát cấp trên (cấp 110 tỉnh) đối với hoạt động xét xử của các Tòa án cấp dưới và kiểm tra hoạt động của Viện kiểm sát cấp dưới trong những năm qua cũng còn nhiều bất cập. Công tác tổng kết, rút kinh nghiệm về các sai sót, vi phạm ở các Viện kiểm sát cấp huyện chưa được tiến hành thường xuyên, kịp thời. Hoạt động xét xử là khâu trung tâm của hoạt động tư pháp và giữ vai trò quyết định đối với toàn bộ quá trình TTHS. Khác với các giai đoạn tố tụng trước (điều tra, truy tố), hoạt động chứng minh ở giai đoạn xét xử được tiến hành công khai tại phiên tòa với sự tham gia đầy đủ nhất của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng. Quá trình chứng minh bao gồm cả thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ là cuộc điều tra công khai, toàn diện và chính thức để xác định sự thật khách quan về vụ án. Hội đồng xét xử ra phán quyết về vụ án trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu đã được kiểm tra, xác minh, đánh giá công khai, bình đẳng và dân chủ tại phiên tòa. Qua công tác kiểm tra công tác xét xử của quý III và Quý IV năm 2017 của Tòa án nhân dân cấp huyện trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thì việc nhận thức trong việc áp dụng pháp luật về tội phạm đánh bạc theo quy định tại Điều 248 BLHS năm 1999 chưa đúng do vậy dẫn đến việc áp dụng pháp luật không đúng và trách nhiệm chứng minh tội phạm có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Vì chưa hiểu đúng bản chất số tiền trên chiếu bạc và số tiền tham gia đánh bạc nên có một số đối tượng đã bị cơ quan điều tra xử phạt hành chính nhưng khi xét xử Tòa án phải có trách nhiệm chứng minh số tiền trên chiếu bạc để có hướng xử lý đúng trách nhiệm hình sự của các đối tượng đã bị cơ quan điều tra xử phạt vi phạm hành chính là không đúng tinh thần theo Điều 248 BLHS năm 1999. Ngoài ra, đường lối xử lý không phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo và các tình tiết khác. Sai sót này thường xảy ra trong đánh giá chứng cứ khi quyết định hình phạt của các Tòa án. Nguyên nhân chủ yếu của thiếu sót này là sự hạn chế về trình

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_chung_minh_trong_to_tung_hinh_su_viet_nam_tu_thuc_ti.pdf
Tài liệu liên quan