MỞ ĐẦU.1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN CHỦ ĐỀ CỦA LUẬN ÁN.7
1.1. Tổng quan tài liệu về mô hình tăng trưởng kinh tế và chuyển đổi mô hình
tăng trưởng kinh tế .7
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài .7
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước .8
1.2. Tổng quan tài liệu về chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế trên thế giới
sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu, đặc biệt ở các quốc gia Đông Nam Á là Thái
Lan, Malaysia và Việt Nam.9
1.2.1. Các nghiên cứu ngoài nước.9
1.2.2. Các nghiên cứu trong nước .12
1.3. Những điểm đã thống nhất, khoảng trống và hướng nghiên cứu của luận án17
1.3.1. Những điểm đã thống nhất.18
1.3.2. Khoảng trống và hướng nghiên cứu của luận án .18
1.4. Câu hỏi nghiên cứu và khung phân tích của luận án .19
1.4.1. Câu hỏi nghiên cứu .19
1.4.2. Khung phân tích của luận án.19
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VÀ CHUYỂN ĐỔI MÔ HÌNH TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ.21
2.1. Những vấn đề lý luận cơ bản về mô hình tăng trưởng kinh tế.21
2.1.1. Một số khái niệm.21
2.1.2. Phân loại mô hình tăng trưởng kinh tế.24
2.1.3. Tốc độ và chất lượng tăng trưởng trong mô hình tăng trưởng kinh tế .26
2.1.4. Các thành tố của mô hình tăng trưởng kinh tế.38
2.1.5. Một số lý thuyết và mô hình tăng trưởng kinh tế.40
2.2. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh
tế sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 .45
2.2.1. Nguyên nhân chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.45
2.2.2. Mục đích chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế.51
179 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 10/03/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế của Thái Lan và Malaysia sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu và bài học cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Âu khác.
Theo Peter Warr (2007), trong giai đoạn 1980-2002, đóng góp cho tăng trưởng
của nền kinh tế Thái Lan có tới gần 71% là yếu tố vốn, trong khi yếu tố đầu vào lao
động chỉ đóng góp 14,7%, TFP đóng góp 10% cho tăng trưởng. Theo các nhà kinh tế,
một MHTT chủ yếu nhờ thâm dụng vốn, trong khi coi nhẹ đầu tư vào vốn con người
và đổi mới công nghệ sẽ không bền vững, vì như đã đề cập ở trên, đóng góp của TFP
vào TTKT của Thái Lan những năm qua là khá thấp. Và trên thực tế, đầu tư cho khoa
học công nghệ của nước này chưa thực sự được quan tâm đúng mức. Tổng chi tiêu
cho R&D của Thái Lan chỉ chiếm trung bình khoảng 0,2-0,25% GDP trong giai đoạn
1996-2008, thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác. Cụ thể, con số này thường từ
2% đến 3% ở các nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Úc, Singapore, và khoảng 1% ở
Trung Quốc.
Thứ hai, tăng trưởng nhanh nhưng chất lượng nguồn nhân lực thấp là một
trong những nguyên nhân giải thích cho năng suất lao động không cao ở Thái Lan.
Theo báo cáo của ILO (2010), trong giai đoạn 2001-2010, mặc dù trình độ giáo dục
của người dân Thái đã được nâng cao, song nhìn chung trình độ của người lao động
vẫn còn khá thấp. Phần lớn người lao động chỉ tốt nghiệp bậc trung học. Con số này
77
tuy đã giảm từ 80% năm 2001 xuống còn 70% năm 2010 song vẫn tương đối cao. Tỷ
lệ người lao động tốt nghiệp phổ thông và qua đào tạo nghề cũng như những người
lao động có trình độ giáo dục đại học và các bậc cao hơn chỉ ở mức trên 10% và
không thay đổi nhiều trong thời gian được xem xét. Như vậy, xét về vốn nhân lực,
Thái Lan vẫn đang đứng trước những thách thức về nâng cao số lượng cũng như chất
lượng nguồn nhân lực để thúc đẩy TTKT cao trong dài hạn [Hình 3.3].
Mặc dù Thái Lan ưu tiên phát triển các ngành kinh tế cần nhiều lao động, song
nguồn cung cấp lao động có kỹ năng, đã qua đào tạo lẫn lao động thông thường, từ nhiều
năm nay, không những thiếu mà còn không phù hợp với nhu cầu lao động ngày càng đa
dạng và phức tạp ở nước này. Và theo nhiều đánh giá, tình trạng này còn trầm trọng hơn
do những thay đổi về nhân khẩu trong tương lai khiến tuổi trung bình của công nhân ngày
càng cao. Mặc dù Thái Lan cũng đã tính đến chuyện dựa vào lao động nước ngoài, song
hiện nay đó không phải là một giải pháp thay thế thực tế, vì chỉ kéo dài thêm MHTT dựa
vào lao động giá rẻ, đang không bền vững. Hơn nữa, sự thịnh vượng và do đó, lương ngày
càng tăng tới mức không kém gì Thái Lan ở các nước láng giềng cũng khiến cho ngày
càng ít công nhân nước ngoài muốn bỏ nước sang Thái Lan làm việc.
Ghi chú:
- No education: Không được đào tạo
- Lower secondary: Trung học cơ sở
- Upper secondary: Trung học phổ thông
- Higher level: Trình độ trên phổ thông
Nguồn: ILO (2010)
Hình 3.3: Tỷ lệ lao động phân theo trình độ giáo dục của Thái Lan,
giai đoạn 2001-2010
78
Một trong những nguyên nhân căn bản và cố hữu của tình trạng đáng buồn đó
của nguồn nhân lực là do những khiếm khuyết và bất cập của các hệ thống giáo dục,
chăm sóc sức khoẻ và an sinh xã hội. Trên thực tế, so với các nước ASEAN khác,
Thái Lan đã đạt được những tiến bộ rất ấn tượng trong việc cung cấp giáo dục và
chăm sóc sức khoẻ cho hầu hết người dân, cũng như có những cải thiện nhất định về
hệ thống an sinh xã hội. Tuy vậy, vẫn còn tồn tại những khiếm khuyết rất lớn chưa dễ
khắc phục trong các lĩnh vực này. Một là, hệ thống giáo dục vẫn còn lạc hậu, sản
phẩm đào tạo ra vẫn chưa theo kịp được với đòi hỏi của thị trường lao động (Diễn
đàn kinh tế thế giới (WEF) đã xếp hạng Thái Lan đứng thứ tám về giáo dục đào tạo
trong số 10 quốc gia ASEAN. Hệ thống giáo dục của Thái Lan đang bị cho là ngày
càng tụt hậu so với các nước láng giềng. Học viện quốc tế phát triển quản lý giáo dục
(IMD) đã xếp giáo dục Thái Lan đứng hàng thứ 51 trong số 60 quốc gia trên toàn thế
giới. Thái Lan cũng chỉ đứng hàng thứ 50 trong số 65 quốc gia tham gia cuộc thi
PISA (Chương trình đánh giá sinh viên quốc tế)). Hai là, sự bất bình đẳng rất lớn cần
được giải quyết trong việc tiếp cận các dịch vụ giáo dục, nhất là đối với các hộ nghèo và
giữa các khu vực thành thị và nông thôn. Và ba là, chất lượng của các dịch vụ này cũng
cần được cải thiện để có thể đáp ứng được nhu cầu của người dân về giáo dục, y tế và
của thị trường lao động về nguồn nhân lực phù hợp [Lounkaew, Kiatanantha (2011)].
Thứ ba, tăng trưởng nhanh tạo ra sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập
của Thái Lan. Có thể thấy, phân phối thu nhập của Thái Lan đã bộc lộ sự bất bình
đẳng ngay trong giai đoạn đầu của quá trình CNH, tuy chưa lớn lắm. Tuy nhiên, phân
phối thu nhập càng trở nên bất bình đẳng và khoảng cách giàu nghèo càng lớn dần
khi nền kinh tế càng tăng trưởng nhanh. Giai đoạn tăng trưởng kinh tế nhanh nhất của
Thái Lan là giai đoạn từ năm 1987 đến trước năm 1997 khi nổ ra cuộc khủng hoảng
tài chính, tiền tệ châu Á. Theo Ngân hàng Thế giới, ở Thái Lan, năm 1990, có khoảng
18% dân cư sống dưới mức nghèo khổ. Đến năm 1992, con số đó trong toàn quốc là
13,1%, trong đó nông thôn là 15,5% và thành thị là 10,2%. Đến năm 1998, số dân
Thái Lan có mức sống dưới 1 USD/ngày chỉ còn chiếm khoảng 2%, nhưng số dân
sống dưới mức 2 USD/ngày vẫn còn chiếm tới 28,2%, chủ yếu ở khu vực nông thôn
[Trương Duy Hòa (2009)]. Năm 1976, hệ số GINI của Thái Lan là 0,436, cao hơn
nhiều so với các nước Đông Á khác, hệ số này đặc biệt tăng nhanh cùng với quá trình
CNH của Thái Lan và đạt đỉnh vào năm 1992, sau đó đã có xu hướng giảm từ năm
1994 và năm 2012 ở mức 0,393 [The World Bank (2015, 2016)]. Xét theo khu vực
địa lý, thu nhập của cư dân ở thủ đô Băng Cốc và những vùng phụ cận cao hơn nhiều
so với các khu vực khác ở Thái Lan, nhất là so với khu vực Đông Bắc. Nguyên nhân
79
của sự chênh lệch là do chính sách phát triển công nghiệp của Thái Lan chỉ tập trung
tại Băng Cốc và một số vùng phụ cận, khiến cho các nguồn vốn dồn về một số khu
vực, trong khi những khu vực khác cần vốn hơn lại không có. Điều này đã làm gia
tăng sự phân bổ mất cân đối nghiêm trọng giữa các vùng trong cả nước và càng làm
gia tăng chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng [Hình 3.4]. TTKT nhanh là cần thiết,
song Thái Lan chỉ chú trọng đến vấn đề đảm bảo TTKT nhanh mà chưa chú ý đến sự
lan tỏa của thành quả tăng trưởng từ Băng Cốc sang nhiều vùng khác, bởi vậy những
vùng lạc hậu càng lạc hậu hơn và khả năng đóng góp vào TTKT ngày càng bị thu hẹp
tương đối so với Băng Cốc.
Nguồn: The World Bank (2016)
Hình 3.4. Hệ số GINI của Thái Lan, giai đoạn 1981-2012
Thứ tư, bất bình đẳng về thu nhập là một trong những nguyên nhân hạn chế
người nghèo tiếp cận cơ hội giáo dục và y tế. Người nghèo không có nhiều cơ hội
nhận được các thành quả của tăng trưởng nhanh mang lại. Phân tích tỷ lệ tiếp cận
giáo dục của Thái Lan cho thấy, người nghèo không được bình đẳng trong tiếp cận
các cơ hội giáo dục, đặc biệt số người nghèo sinh sống ở khu vực nông thôn, vùng xa
xôi hẻo lánh và con cái của các lao động di cư. Tỷ lệ học đại học giữa nhóm người
giàu nhất và nhóm người nghèo nhất đã rộng ra rất nhiều. Mặc dù chính phủ đã có
những chính sách tích cực để thúc đẩy cho sinh viên nghèo vay tiền, song với những
khoản tài chính hạn chế trong ngắn hạn không đủ để loại trừ sự mất cân bằng trong
giáo dục ở quốc gia này [Bảng 3.2].
Bảng 3.2: Tổng quan hệ thống giáo dục của Thái Lan
Tuổi 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 13 14 15 16 17
Lớp 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Cấp học Mẫu giáo Tiểu học THCS THPT
Tiếp cận Tự nguyện Bắt buộc Tự nguyện
Chi phí Miễn phí
Nguồn: UNESCO Bangkok (2013)
80
Ngoài việc tiếp cận các cơ hội giáo dục bị hạn chế, người nghèo cũng chịu nhiều
thiệt thòi trong việc tiếp cận các dịch vụ y tế, do dịch vụ này được phân bổ không đồng
đều giữa các vùng. Người dân sinh sống ở khu vực thủ đô Băng Cốc có nhiều cơ hội
tiếp cận các dịch vụ y tế, trong khi người dân ở các vùng khác có ít cơ hội hơn. Hay
người nghèo ở các khu vực đô thị cũng ít có cơ hội tiếp cận các dịch vụ y tế hơn so với
người dân khá giả ở khu vực đô thị.
Thứ năm, cơ cấu tài chính của Thái Lan cũng là một trở ngại cho tăng trưởng
lâu dài. So với tiêu chuẩn quốc tế, thu nhập từ thuế ở Thái Lan luôn ở mức thấp, nên
chính phủ Thái thường không đủ nguồn lực để đầu tư hoặc vào phát triển cơ sở hạ
tầng cần cho tăng trưởng bền vững hoặc vào các chương trình phúc lợi xã hội và bảo
hiểm xã hội cần thiết cho việc tích luỹ nguồn nhân lực cho phát triển lâu dài.
Thứ sáu, sức mạnh độc quyền vẫn tồn tại trong các doanh nghiệp Nhà nước,
và có những quy định cấm cạnh tranh đầy đủ ở một số lĩnh vực vực kinh tế sống còn,
nhất là ở các lĩnh vực dịch vụ có giá trị gia tăng cao, như tài chính và viễn thông. Hậu
quả là sự năng động sáng tạo của khu vực kinh doanh, nhất là các doanh nghiệp tư
nhân nhỏ và vừa, không được phát huy tốt.
Khu vực tư nhân luôn ở tuyến đầu trong tăng trưởng kinh tế suốt nhiều thập kỷ
trước đây đã bị chia thành hai phần khác nhau: Chỉ có một ít công ty lớn đã trở nên có
sức cạnh tranh toàn cầu, còn tuyệt đại đa số là các doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không
thể có năng lực đổi mới và sáng tạo. Không thể leo lên được bậc thang cao hơn trong
chuỗi sản phẩm toàn cầu là lý do vì sao đầu tư tư nhân cùng với đầu tư công cộng lại
giảm mạnh so với những năm 1990.
Thứ bảy, những yếu kém về thể chế cộng với những bất ổn triền miên về chính
trị là trở ngại quan trọng nhất đối với tăng trưởng lâu dài của Thái Lan. Hậu quả là
các chính phủ và các đảng cầm quyền ở Thái Lan liên tục và phải chi quá nhiều tâm
sức để đối phó với những bất ổn chính trị, rất khó có điều kiện để có thể đưa ra được
những lựa chọn chính sách quan trọng, nhất quán, lâu dài và có tính khả thi. Và điều
đó cũng tác động tiêu cực và khiến Thái Lan rất khó duy trì được ổn định kinh tế vĩ
mô. Ví dụ, cho đến nay, hoàn toàn không có một chính phủ nào có được những chính
sách R&D và đổi mới tích cực cả. Hoàn toàn không hề có quyết tâm chính trị đưa đất
nước này trở lên sáng tạo [Lê Đăng Minh, 2018.]
Thứ tám, mặc dù Thái Lan đã rất thành công trong việc đạt được mục tiêu
TTKT nhanh, tăng GDP/đầu người, tuy nhiên những thành công đó đã khiến nước
này phải trả những cái giá quá đắt về các vấn đề môi trường, như ô nhiễm, khai thác
81
cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và tàn phá rừng. Với mức tiêu thụ năng lượng không
ngừng tăng để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và đạt mục tiêu tăng trưởng
kinh nhanh, Thái Lan đã phải trả giá đắt do ô nhiễm môi trường. Thủ đô Băng cốc
Thái Lan là nơi chịu ô nhiễm không khí nghiêm trọng nhất vì ở đây tập trung 20%
dân số cả nước và trên một nửa các nhà máy sản xuất tập trung ở khu vực thủ đô này.
Phát thải khí CO2 của Thái Lan thậm chí còn cao hơn so với lượng phát thải khí của
một số nước ĐNÁ khác có trình độ phát triển tương đương như Indonexia và
Philippines [ILO (2013), OECD (2013)]. Công nghiệp hóa nhanh cũng khiến cho
người dân Thái Lan phải chứng kiến cảnh ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất và suy
thoái nghiêm trọng nguồn tài nguyên rừng.
3.2.2. Định hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế
Thái Lan là một trong những nước điển hình trong việc đưa ra các kế hoạch
phát triển kinh tế rất cụ thể cho tổng thể nền kinh tế, cho từng thời kỳ phát triển, và
các kế hoạch đó mang tính công khai rõ nét. Việc Chính phủ Thái Lan triển khai các
kế hoạch phát triển kinh tế xã hội cho thấy các giai đoạn phát triển của nền kinh tế
được chia thành 3 giai đoạn chính như sau:
- Giai đoạn thứ nhất: Thái Lan tập trung vào tăng trưởng kinh tế nhanh. Giai
đoạn này kéo dài từ Kế hoạch thứ nhất cho đến hết Kế hoạch thứ 7 (từ năm 1961-
1996) với chiến lược chủ yếu là khai thác các nguồn lực tài nguyên và lao động.
Trong giai đoạn này có hai bước ngoặt lớn là: Từ Kế hoạch thứ 1 cho đến Kế hoạch
thứ 4, chính phủ Thái Lan chỉ tập trung vào tăng trưởng kinh tế và phát triển cơ sở hạ
tầng, tuy nhiên từ Kế hoạch thứ 5 cho đến Kế hoạch thứ 7 thì ngoài vấn đề tăng
trưởng kinh tế, vấn đề phát triển về mặt xã hội đã bắt đầu được nước này quan tâm.
- Giai đoạn thứ hai: Hướng tới một nền kinh tế đầy đủ. Giai đoạn này kéo dài
từ Kế hoạch lần thứ 8 cho đến Kế hoạch thứ 10 (từ 1997 - 2011). Giai đoạn này đặc
biệt tập trung đến vấn đề phát triển xã hội thông qua phát triển nguồn vốn con người,
song song với ổn định kinh tế.
- Giai đoạn thứ ba: Hướng tới nền kinh tế đầy đủ và phát triển bền vững. Giai
đoạn này bắt đầu từ Kế hoạch thứ 11 (từ 2012 - 2016), dựa trên sự kết hợp nhịp
nhàng giữa phát triển nguồn vốn con người, công nghệ và sự đổi mới [Tham khảo
thêm phụ lục 01].
Những định hướng trong chuyển đổi MHTTKT ở Thái Lan sau KHKTTC
được lồng ghép vào các kế hoạch 5 năm về phát triển kinh tế và xã hội quốc gia của
Thái Lan, tập trung trong các Kế hoạch lần thứ 10 và 11. Các Kế hoạch tuân theo
82
Triết lý của Nhà vua về “một nền kinh tế vừa đủ”, nhằm tăng cường “sức chống chịu”
của nền kinh tế bên cạnh mô hình tăng trưởng thông thường.
Kế hoạch phát triển lần thứ 10 (2007 - 2011) bao gồm 5 chiến lược phát triển
thuộc các lĩnh vực khác nhau, đó là: (1) Phát triển nguồn nhân lực và xã hội; (2) Thiết
lập các cộng đồng kinh tế lớn mạnh, tạo nền tảng vững chắc cho toàn quốc gia và
phát triển một nền kinh tế cộng đồng phụ thuộc lẫn nhau, hài hòa, cân đối với môi
trường tự nhiên và xã hội; (3) Cải tiến các biện pháp sản xuất để có thể cạnh tranh
trên toàn cầu, tạo ra các sản phẩm có giá trị gia tăng mang phong cách riêng và khác
biệt với các sản phẩm cạnh tranh khác, nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế, thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài; (4) Bảo vệ môi trường; (5) Xây dựng bộ máy chính quyền trong
sạch, không quan liêu tham nhũng. Và cũng từ thời điểm này, chiến lược phát triển
kinh tế tri thức được Thái Lan triển khai rất tích cực.
Kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội quốc gia lần thứ 11 (2012 - 2016) tiếp tục
thực hiện đường lối của “Triết lý về nền kinh tế vừa đủ”, đặc biệt nhấn mạnh đến
phát triển nguồn nhân lực quốc gia và an ninh con người, coi đây là vấn đề trung tâm
của Kế hoạch 11 và đường hướng phát triển đất nước trong tương lai. Lấy con người
là trung tâm phát triển, tăng cường sự tham gia rộng rãi của các thành phần nhằm đạt
mục tiêu phát triển cân bằng, toàn diện và thống nhất trong tầm nhìn chung về “một
xã hội hạnh phúc, công bằng, bình đẳng và bền bỉ”. Kế hoạch cũng bổ sung thêm các
định hướng về nền kinh tế xanh, xã hội xanh, hướng tới mục tiêu cơ bản là phát triển
bền vững.
Trong Kế hoạch 11, Thái Lan xây dựng 6 chiến lược phát triển ưu tiên bao gồm:
- Chiến lược 1: xây dựng xã hội công bằng. Các mục tiêu của chiến lược bao
gồm tạo cơ hội để tất cả mọi người được tiếp cận nguồn vốn, nguồn lực và thu nhập;
nâng cao thu nhập và tăng cường an sinh xã hội; trợ giúp người nghèo, người có hoàn
cảnh khó khăn, lao động nước ngoài, người lao động không chính thức và các nhóm
dân tộc để họ được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội; hỗ trợ các đối tác phát triển
để chung sức xóa bỏ bất công , giải quyết xung đột một cách hiệu quả và xây dựng
một xã hội chất lượng.
- Chiến lược 2: Phát triển nguồn nhân lực để xây dựng một xã hội không
ngừng học hỏi. Mục tiêu của chiến lược là phát huy tiềm năng của nhân dân Thái Lan
thông qua việc giáo dụccon ngườicó đầu óc có kỷ luật, tư duy tổng hợp, sáng tạo, tôn
trọng và có đạo đức; xây dựng gia đình, cộng đồng và môi trường xã hội phục vụ
việcphát triển con người và thích ứng được với những thay đổi kinh tế và xã hội.
83
- Chiến lược 3: Cân bằng an ninh lương thực và năng lượng. Mục tiêu của
chiến lược là phát triển khu vực nông nghiệp để sản xuất lương thực chất lượng cao,
đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và bảo đảm thu nhập của nông dân, bảo tồn các
giống cây thảo mộc và cân bằng sản xuất lương thực và năng lượng thay thế.
- Chiến lược 4: Xây dựng nền kinh tế tri thức và cải thiện môi trường kinh tế.
Mục tiêu của chiến lược là biến Thái Lan là trung tâm của các sản phẩm sáng tạo và
đổi mới trong khu vực. Công nghệ tri thức và sáng tạo là các yếu tố quan trọng đưa
nền kinh tế hướng tới tăng trưởng bền vững, cân bằng và toàn diện. Việc phát triển
các sản phẩm giá trị và có giá trị gia tăng sẽ được lồng ghép trong mỗi chuỗi cung
ứng hàng hóa và dịch vụ. Môi trường kinh doanh cần được cải thiện, cụ thể là phát
triển cơ chế thị trường tự do và bình đẳng hơn, xây dựng cơ sở hạ tầng và mạng lưới
logistic chất lượng và tăng cường quản lý rủi ro kinh tế.
- Chiến lược 5: Tăng cường hợp tác an ninh và kinh tế khu vực. Mục tiêu của
chiến lược là chuẩn bị và thích ứng trước các thách thức của khu vực và toàn cầu, cụ
thể là khi tham gia Cộng đồng ASEAN; tăng cường các lợi thế cạnh tranh về kinh tế
và nâng cao vai trò của quốc gia trên trường quốc tế, đồng thời loại bỏ những tác
động tiêu cực và các vấn đề quốc tế.
- Chiến lược 6: Quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Chiến
lược tập trung vào công tác bảo tồn và khôi phục tài nguyên thiên nhiên, sản xuất và
tiêu thụ theo hướng thân thiện với môi trường và thích nghi với biến đổi khí hậu.
Chiến lược về Mô hình Tăng trưởng mới của Thái Lan
Hiện tại, Thái Lan coi trọng việc đề ra các nguyên tắc cơ bản về phát triển
quốc gia với mục tiêu thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình” và trở thành quốc gia tiên
tiến trong tương lai. Chính phủ hoàng gia Thái Lan mới đây công bố “Các chiến lược
Phát triển đất nước”. Đây chính là MHTT mới của Thái Lan dựa trên việc nâng cao
tính cạnh tranh, tăng trưởng toàn diện, tăng trưởng xanh và quản trị trong nước tốt
hơn.
Thứ nhất: Tăng trưởng và cạnh tranh. Mục tiêu là duy trì TTKT và tăng
cường sức cạnh tranh giúp đất nước thoát khỏi “bẫy thu nhập trung bình” và bước
vào nhóm các nước thu nhập cao trong tương lai. Tốc độ tăng trưởng kinh tế trong dài
hạn đạt 5-6%. Các biện pháp chính bao gồm:
- Củng cố các ngành công nghiệp hiện tại, phát triển các ngành công nghiệp
tương lai để đem lại nguồn thu nhập mới.
84
- Tăng giá trị gia tăng trong khu vực dịch vụ và nông nghiệp, bảo đảm các
nguồn thu chính của đất nước và doanh nghiệp.
- Cải thiện môi trường thông qua ổn định kinh tế vĩ mô, đầu tư vào khoa học
công nghệ và đổi mới nhằm tạo ra các giá trị gia tăng, hoàn thiện khuôn khổ pháp luật
nhằm tăng cường sức cạnh tranh quốc gia và cung cấp lực lượng lao động, cơ sở hạ
tầng, mạng lưới logistic và công nghệ thông tin chất lượng quốc tế.
- Tăng cường sức cạnh tranh thông qua tận dụng lợi ích của quá trình hội nhập
ASEAN.
Thứ hai: Tăng trưởng toàn diện. Mục tiêu là giảm bất bình đẳng và phân
phối lợi ích của tăng trưởng toàn diện. Các biện pháp chính bao gồm:
- Tạo cơ hội tiếp cận nguồn lực và cơ sở hạ tầng, từ đó tạo ra việc làm và bảo
đảm thu nhập.
- Tạo cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội chất lượng.
- Bình đẳng trước pháp luật
- Bảo vệ quyền lợi của công nhân Thái Lan để chuẩn bị cho việc tham gia
cộng đồng ASEAN
- Thiết lập tiêu chuẩn lao động quốc tế để hỗ trợ di cư lao động trong tương lai.
- Hợp tác hiệu quả để ngăn chặn khủng bố, tội phạm, ma túy, thảm họa và dịch bệnh.
Thứ ba: Chiến lược tăng trưởng xanh tập trung vào phát triển thân thiện
với môi trường. Các biện pháp chính bao gồm:
- Giảm tiêu thụ năng lượng trong khu vực công nghiệp, vận tải và hộ gia đình.
- Tăng cường sử dụng năng lượng sạch
- Chuyển dần sang nền sản xuất ít các-bon.
- Bảo tồn tài nguyên thiên nhiên và tăng diện tích trồng rừng, giảm thiểu khí
nhà kính.
- Thích nghi và đối phó với biến đổi khí hậu toàn cầu.
- Hợp tác tích cực trong khu vực để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế bền vững không
gây hại tới môi trường.
Thứ tư: Quản trị trong nước. Mục tiêu là cải cách hệ thống hành chính công.
Các biện pháp bao gồm:
- Thống nhất các chiến lược tại mọi cấp nhằm thống nhất quản lý vì mục tiêu
chung.
85
- Kết nối chương trình nghị sự với các chiến lược theo khu vực, phù hợp với
nhu cầu địa phương để nhân dân được hưởng phúc lợi xã hội trọn đời.
- Tăng cường năng lực chính phủ, củng cố luật lệ và quy định tiên tiến, tăng
cường hệ thống luật pháp hiệu quả, đáp ứng mục tiêu phát triển kinh tế và hội nhập
ASEAN.
Như vậy, trước sự thay đổi của bối cảnh quốc tế và những vấn đề của bản thân
MHTT cũ cùng những đòi hỏi mới ở trong nước, để có thể thoát được bẫy thu nhập
trung bình, tạo ra sự ổn định và đưa Thái Lan thành nước có thu nhập cao, công bằng
và phát triển, các chính phủ nước này gần đây cũng đã cố gắng có những chính sách
và định hướng chuyển hướng chiến lược quan trọng. Sau đây là những lĩnh vực chính
sách mà Thái Lan xác định là quan trọng và then chốt để đảm bảo đạt được sự TTKT
cao và bền vững trong tương lai:
- Đa dạng hóa thị trường, giảm dần sự phụ thuộc vào các thị trường Mỹ và EU
để quay sang các thị trường khu vực, tiếp tục duy trì tính cạnh tranh tại châu Á và tập
trung nhiều hơn vào nền kinh tế nội địa;
- Tái cơ cấu ngành kinh tế theo hướng: i) Tái cơ cấu sản xuất nhằm nâng cao
NSLĐ và tăng thêm giá trị cho các hàng hóa và dịch vụ, trên cơ sở tri thức bản địa và
văn hóa Thái Lan; ii) xây dựng các hệ thống miễn nhiễm và quản lý rủi ro cho các
lĩnh vực hàng hóa và dịch vụ, thị trường tài chính, tài nguyên thiên nhiên, cũng như
hệ thống tài khóa; iii) phát triển nông nghiệp thành cơ sở cung cấp lương thực an toàn
và đầy đủ cho thế giới; iv) nâng cao chuỗi giá trị trong công nghiệp, thông qua việc
phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ, hợp nhất các khu vực khác nhau như phát
triển các cụm công nghiệp và ứng dụng các công nghệ giảm tiêu thụ năng lượng và
tài nguyên thiên nhiên nhằm bảo vệ môi trường.
- Khuyến khích tiết kiệm trong nước để tăng cường năng lực đầu tư của quốc
gia và thực hiện an sinh xã hội, và giảm bớt mức độ phụ thuộc vào vốn nước ngoài,
nhất là vốn vay và vốn cổ phần ngắn hạn.
- Quản lý hợp lý tài chính để tạo ra cân đối ngân sách trong tầm trung hạn và
tạo điều kiện cho sản xuất trong nước bằng cách huy động vốn theo hướng hình thành
các khu vực hiệu quả.
- Tái cơ cấu hình thức phân phối theo hướng cạnh tranh và phân phối của cải bình
đẳng và thúc đẩy phân phối công bằng các lợi ích kinh tế do tăng trưởng mang lại.
86
- Nâng cao hiệu quả tiêu thụ năng lượng và phát triển các nguồn năng lượng
thay thế nhằm giảm mức độ nhạy cảm về năng lượng và mức độ phụ thuộc vào nhập
khẩu.
3.2.3. Những chính sách đã thực hiện
- Thái Lan đã theo đuổi chính sách tự do hóa dựa trên việc thực thi một loạt
các chiến lược tiếp cận thị trường thích hợp, nhưng chỉ tập trung vào một số ngành
và một số sản phẩm trong mỗi ngành mà nước này có thế mạnh nhằm nâng cao năng
lực cạnh tranh để từ đó gia tăng xuất khẩu. Thái Lan chọn lựa 5 ngành công nghiệp
có thế mạnh là du lịch, sản xuất ô tô, thực phẩm, thời trang, và phần mềm. Với ngành
ô tô, để biến Thái Lan trở thành “Detroit của châu Á”, chính phủ Thái Lan chủ trương
nâng cao giá trị gia tăng thông qua việc chuyên môn hóa sản xuất xe bán tải. Với
ngành du lịch, Thái Lan hướng đến phát triển loại hình du lịch MICE – du lịch kết
hợp hội nghị, hội thảo, sự kiện,... sử dụng các lợi thế về văn hóa, con người, tài
nguyên du lịch, để trở thành điểm đến du lịch MICE hấp dẫn nhất khu vực. Với
ngành thời trang, Thái Lan áp dụng chiến lược nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm
thông qua cải thiện tay nghề cho công nhân và xây dựng các thương hiệu thể hiện
truyền thống của dân tộc Thái Lan.
Rõ ràng tăng cường tính cạnh tranh chính là bước đầu tiên trong hành trình
hướng tới phát triển bền vững của Thái Lan và các quốc gia láng giềng. Thái Lan là 1
trong 10 thành viên của ASEAN. Ba trụ cột trong Cộng đồng ASEAN và Kế hoạch
tổng thể về Kết nối ASEAN sẽ góp phần tạo ra một thị trường và mạng lưới sản xuất
chung, qua đó giúp hình thành chuỗi cung ứng khu vực và tăng cường tính cạnh tranh
của các nền kinh tế ASEAN. Mặc dù mỗi nước có thế mạnh cạnh tranh riêng,
ASEAN chỉ có thể đạt được mức độ cạnh tranh cao hơn và phát huy hết tiềm năng
thông qua tăng cường kết nối.
Trong chính sách kinh tế vĩ mô, Thái Lan xác định xuất khẩu là động lực phát
triển nền kinh tế với kim ngạch xuất khẩu chiếm 60% GDP. Xuất khẩu của Thái Lan
năm 2015 đạt 214 tỉ USD, năm 2016 đạt 214 tỉ USD, năm 2017 đạt 235 tỉ USD. Nhập
khẩu năm 2015 đạt 187 tỉ USD, năm 2016 đạt 178 tỉ USD, năm 2017 đạt 203 tỉ USD.
Trong đó, 10 mặt hàng xuất khẩu chính của Thái Lan bao gồm lúa gạo; hải sản; ôtô và
phụ tùng ôtô; đá quý và trang sức; sản phẩm từ cao su; hóa phẩm; nhiên liệu; phụ tùng
máy móc; điều hòa nhiệt độ và linh kiện; sắt và thép. Các đối tác thương mại chính của
Thái Lan (dựa trên số liệu thống kê về xuất nhập khẩu) là: Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản,
Hồng Kông, Việt Nam, Australia, Malaysia, Indonesia, Singapore, Philippine.
87
Hiện nay, Thái Lan đang tập trung triển khai nền kinh tế 4.0 với mục tiêu tăng
cường đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật số
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_chuyen_doi_mo_hinh_tang_truong_kinh_te_cua_thai_lan.pdf