- Thời điểm mởthừa kếlà thời điểm người có tài sản chết, làm phát
sinh quyền và nghĩa vụcủa người thừa kếvà những người liên quan đến di
sản. Xác định thời điểm mởthừa kếcó ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định di sản thừa kế, người thừa kếvà những người liên quan đến việc thừa
kế, thời điểm có hiệu lực của di chúc.
- Địa điểm mởthừa kếlà nơi cưtrú cuối cùng của người đểlại di
sản, nếu không xác định được nơi cưtrú cuối cùng thì địa điểm mởthừa
kếlà nơi có toàn bộhoặc phần lớn tài. Địa điểm mởthừa kếcó ý nghĩa xác
định các vấn đềsau:
- Nơi làm phát sinh các quyền và nghĩa vụcủa người thừa kế;
- Tòa án có thẩm quyền sẽgiải quyết việc thừa kế;
- Cơquan nhà nước có thẩm quyền giải quy ết tranh chấp di sản thừa kế.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3595 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Cơ sở lý luận và thực tiễn của những qui định chung về thừa kế trong Bộ luật Dân sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uyền thừa kế là một trong các quyền của công dân, vì thế cá nhân
được phép thực hiện các quyền của mình mà không bị pháp luật cấm. Hiện
nay, khoa học pháp lý thừa nhận quyền thừa kế là quyền để lại tài sản cho
người khác hưởng, là quyền hưỏng tài sản của người để lại thừa kế. Quan
niệm này sẽ hạn chế phạm vi quyền tài sản của cá nhân, vì vậy luận án phát
triển khái niệm quyền thừa kế của cá nhân theo hướng mở rộng các quyền
tài sản trong giao lưu dân sự như nhận, chuyển nhượng, tặng cho, cầm cố,
thế chấp, bảo lãnh quyền hưởng di sản.
- Thời điểm mở thừa kế là thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của
người thừa kế và các chủ thể khác.
- Di sản là tài sản thuộc quyền sở hữu của người đã chết. Đây là khái
niệm “đóng”, không thấy sự vận động, phát triển của vật chất, dẫn đến hạn
chế quyền tài sản của cá nhân. Trong cơ chế thị trường còn nhiều tài sản
khác là di sản phát sinh sau khi người để lại thừa kế chết, như hoa lợi, lợi
6
tức, quyền và các lợi ích khác phát sinh từ di sản, từ việc thừa kế. Phát
triển khái niệm di sản, tạo tiền đề cho viêc mở rộng đối tượng điều chỉnh
pháp luật dân sự.
- Trong khoa học pháp lý coi nhận là hành vi thực tế tiếp thu tài sản
làm phát sinh quyền sở hữu của người thừa kế. Luận án mở rộng khái niệm
nhận di sản là ý thức chủ quan của người thừa kế được thể hiện bằng các
hành vi khách quan như: tuyên bố nhận di sản, nhận di sản khi chia thừa
kế, hoặc quản lý, khai thác sử dụng di sản, bán, chuyển quyền nhận di sản
thừa kế cho người khác. Nhận di sản làm phát sinh quyền sở hữu của
người thừa kế đối với di sản, vì vậy họ có các quyền và nghĩa vụ của
người để lại thừa kế.
- Di tặng là hành vi pháp lý đơn phương của người lập di chúc, nhằm
tặng cho người khác tài sản của mình sau khi chết. Di tặng là hợp đồng
tặng cho có điều kiện làm phát sinh hiệu lực, vì vậy người hưởng di tặng
có quyền và nghĩa vụ theo hợp đồng tặng cho mà không có nghĩa vụ của
người thừa kế. Khái niệm này lần đầu được xây dựng trong khoa học pháp
lý.
- Phát triển và hoàn thiện lý luận về mối quan hệ giữa quyền thừa kế
và quyền sở hữu tư nhân, đó là quan hệ tương tác giữa các sự kiện pháp lý
làm phát sinh, chấm dứt quan hệ sở hữu và thừa kế.
- Luận án đã đưa ra phương án sửa đổi, bổ sung các Điều: 632, 634,
635, 636, 637, 642, 643, 644, 645 BLDS.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận án được bố cục thành 3 chương.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA NHỮNG QUI ĐỊNH CHUNG
VỀ THỪA KẾ
1.1. Khái niêm quyền thừa kế và những qui định chung về thừa
kế
1.1.1. Khái niệm về thừa kế và quyền thừa kế
- Thừa kế tồn tại và phát triển cùng với xã hội loài người, là việc
chuyển dịch tài sản (của cải) của người chết cho người khác còn sống theo
truyền thống, phong tục tập quán của từng dân tộc. Người hưởng tài sản,
có nghĩa vụ duy trì, phát triển giá trị vật chất, giá trị tinh thần và truyền
thống, tập quán do thế hệ trước để lại. Trong xã hội có giai cấp, quan hệ
thừa kế là đối tượng điều chỉnh của pháp luật, Nhà nước điều chỉnh quan
hệ thừa kế nhằm đạt những mục đích nhất định.
- Quyền thừa kế là quyền chủ quan của cá nhân có quyền để lại tài
sản, thành quả lao động, các quyền và lợi ích của mình cho người khác
hưởng. Người thừa kế có quyền nhận di sản và hưởng giá trị vật chất, giá
trị tinh thần và các lợi ích khác phát sinh từ di sản. Mặt khác, người thừa
kế và những người tham gia vào quan hệ thừa kế có nghĩa vụ giữ gìn bảo
vệ các giá trị văn hoá đó.
- Theo nghĩa khách quan, quyền thừa kế là tổng hợp các qui phạm
pháp luật điều chỉnh việc chuyển dịch tài sản của người chết cho những
người khác theo ý chí của người đó khi còn sống hoặc theo một trình tự
nhất định. Mặt khác, các qui phạm pháp luật ghi nhận và qui định trình tự
8
thực hiện và bảo vệ các quyền của người có tài sản, quyền của người thừa
kế và các chủ thể khác trong quan hệ thừa kế.
- Quyền sở hữu của cá nhân là tiền đề phát sinh quyền thừa kế,
ngược lại quyền thừa kế là một căn cứ quan trọng làm phát quyền sở hữu
tư nhân. Từ mối quan hệ đó cho thấy nghiên cứu về thừa kế cần xuất phát
từ bản chất của quan hệ sở hữu trong các xã hội khác nhau.
1.1.2. Khái niệm những qui định chung về thừa kế
- Quan hệ dân sự, kinh tế trong cơ chế thị trường còn nhiều biến
động, thay đổi sâu sắc, vì thế cần nghiên cứu để hoàn thiện BLDS và các
luật khác là nhu cầu cần thiết. Để tiếp tục hoàn thiện BLDS cần phải
nghiên cứu, hệ thống và phát triển khoa học pháp lý về dân sự, trong đó có
các vấn đề về thừa kế. Trên cơ sở xây dựng, hoàn thiện các khái niệm khoa
học của các qui định về thừa kế, sửa đổi, bổ sung và xây dựng các qui
định về thừa kế ngày càng hoàn thiện hơn. Các khái niệm được phát triển
và xây dựng trong phần này gồm:
- Qui định chung về thừa kế là những quan điểm của Nhà nước về vấn
đề thừa kế, là các nguyên tắc và căn cứ pháp lý mà dựa vào đó để phân chia di
sản theo di chúc hoặc theo pháp luật.
- Chủ thể của thừa kế là những cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ
thừa kế có các quyền và nghĩa vụ do pháp luật qui định và do thoả thuận.
- Nhận di sản là hành vi khách quan thể hiện việc tiếp nhận di sản bằng
hành vi thực tế hoặc định đoạt quyền nhận di sản cho người khác như nhường
quyền nhận di sản. Kể từ thời điểm nhận, di sản thuộc quyền sở hữu của người
thừa kế, cho nên họ có quyền định đoạt.
- Di sản thừa kế là tài sản thuộc quyền sở hữu của người đã chết và
hoa lợi, lợi tức phát sinh từ di sản, tài sản và các lợi ích khác do pháp luật
qui định.
9
- Di tặng là ý chí của người lập di chúc nhằm tặng cho người khác
tài sản sau khi chết. Người hưởng di tặng không phải thực hiện nghĩa vụ
của người thừa kế.
- Thời hiệu của thừa kế là thời hạn do pháp luật qui định, cho phép
các chủ thể khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp về thừa kế và các
quyền lợi khác liên quan đến di sản, hết thời hạn đó, các chủ thể mất
quyền khởi kiện.
1.1.3. Quá trình phát triển kinh tế-xã hội và nhu cầu, mục tiêu
điều chỉnh pháp luật các quan hệ thừa kế
1.13.1. Sự cần thiết của việc điều chỉnh các quan hệ thừa kế trong
việc phát triển kinh tế-xã hội
Mục tiêu chính của luật dân sự là điều chỉnh các quan hệ tài sản
nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội và tạo điều kiện đáp ứng nhu cầu
vật chất và tinh thần của nhân dân. Quá trình phát triển kinh tế-xã hội gắn
liền với sự phát triển của các quan hệ sở hữu. Trong các chế độ xã hội
khác nhau thì nhu cầu điều chỉnh các quan hệ sở hữu khác nhau. Tuy nhiên
quan hệ sở hữu là tiền đề của quan hệ thừa kế. Ngược lại thừa kế sẽ củng
cố phát triển quan hệ sở hữu tư nhân. Do vậy, pháp luật phải điều chỉnh
quan hệ thừa kế và quan hệ sở hữu phù hợp với điều kiện phát triển kinh
tế-xã hội của đất nước.
1.1.3.2. Vai trò của chế định thừa kế trong điều chỉnh các quan hệ
dân sự
- Chế định thừa kế có vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện
cho sở hữu tư nhân tồn tại và phát triển. Việc chuyển dịch tài sản trong các
giao lưu dân sự (trong đó có thừa kế) gắn liền với quá trình phát triển các
quan hệ kinh tế-xã hội, các quan hệ sở hữu trong đó có sở hữu tư nhân.
- Pháp luật về thừa kế đóng vai trò quan trọng trong việc giữ gìn và
10
phát huy bản sắc văn hoá của dân tộc. Quan hệ thừa kế có tính đặc trưng là
mang yếu tố tình cảm. Thừa kế không những chuyển dịch tài sản, mà còn
kế thừa các giá trị văn hoá, tinh thần của gia đình, dòng tộc liên quan đến
phong tục, tập quán, truyền thống của nhân dân, đảm bảo tình đoàn kết
trong gia đình.
- Pháp luật về thừa kế có vai trò tạo ra môi trường ổn định cho việc
thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Trong thời đại ngày nay, khi kinh tế thế giới có tính toàn cầu hoá,
thì sự hình thành và phát triển của các quan hệ tài sản, sự giao thoa giữa
các nền văn hoá mang tính tất nhiên. Ở mỗi quốc gia, pháp luật về thừa kế
có đặc thù mang bản sắc văn hoá của dân tộc, bảo vệ lợi ích của cá nhân
của Nhà nước, tuy nhiên việc điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố
nước ngoài phù hợp với tập quán quốc tế và bảo quyền lợi của các nhà đầu
tư để họ an tâm đầu tư lâu dài.
1.2. Những qui định chung về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt
Nam qua các thời kỳ phát triển
1.2.1. Những qui định chung về thừa kế trong pháp luật dân sự Việt
Nam từ thể kỷ XV đến năm 1945
Ở Việt Nam, thời kỳ phong kiến, thừa kế được qui định trong Luật
Hồng Đức và Luật Gia Long. Tuy nhiên, chế định thừa kế không qui định
thành chương phần riêng nhưng hai Bộ luật này đều qui định những vấn đề
cơ bản là di sản, hương hoả, người quản lý di sản, người thừa kế.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, ở Việt Nam tồn tại ba Bộ luật, Bộ luật
Nam Kỳ giản yếu1882, Dân luật Bắc kỳ(DLBK)1931 và Hoàng Việt Trung
Kỳ Hộ luật(HVTKHL) 1936. Hai Bộ luật: DLBK và HVTKHL được xây
dựng dựa trên cơ sở của Bộ luật Dân sự Pháp 1804.
- Các Bộ luật điều chỉnh rất linh động về thừa kế của những người
có quyền thừa kế của nhau chết cùng một thời điểm thì suy đoán theo tuổi
11
tác, tình trạng sức khoẻ để xác định người chết trước, do vậy đảm bảo
được quyền lợi những người thừa kế của người chết sau.
- Hai Bộ luật trên, điều chỉnh về thừa kế thế vị trong ba trường hợp,
cha hoặc mẹ chết trước, chết cùng, hoặc không có quyền nhận di sản, thì
cháu thế vị cha hoặc mẹ nhận di sản của ông hoặc bà. Hiện nay luật dân sự
của nước ta mới điều chỉnh hai trường hợp là cha (mẹ) chết cùng hoặc chết
trước ông (bà) thì cháu thế vị.
1.2.2. Sự phát triển những qui định chung về thừa kế từ năm 1945
đến nay
- Hệ thống pháp luật nói chung và về dân sự nói riêng từ năm 1945
đến năm 1954, Nhà nươc ta chưa xây dựng pháp luật riêng mà áp dụng các
Bộ luật Dân sự Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ giản yếu. Những nguyên
tắc, qui định phù hợp với lợi ích của nhân dân thì tiếp tục được áp dụng.
- Từ ngày 10/7/1959 ở miền Bắc không áp dụng pháp luật của chế độ
cũ, các tranh chấp dân sự giải quyết theo đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước.
- Từ năm 1959 đến những năm đầu của thời kỳ đổi mới (1986-
1988) ở nước ta hầu như không có văn bản về dân sự. Bởi vì thời kỳ này là
chế độ bao cấp, nên các quan hệ dân sự được hành chính hoá.
- Sau khi đất nước thống nhất TANDTC ban hành Thông tư 81 ngày
24/7/1981 điều chỉnh các quan hệ thừa kế trên phạm vi cả nước. Thông tư
này được pháp điển hoá trong Pháp lệnh Thừa kế 1990.
Tóm lại, suốt thời kỳ bao cấp, Nhà nước ta không ban hành văn bản
pháp luật dân sự. Bởi lẽ, thời kỳ này, hàng hoá được lưu thông theo cơ chế
phân phối, do đó các quan hệ dân sự được hành chính hoá, các tranh chấp
dân sự phần lớn được giải quyết bằng đường lối xét xử của TANDTC.
Năm 1995, Bộ luật Dân sự được ban hành và được sửa đổi bổ sung
năm 2005. Trong Bộ luật Dân sự, các qui định chung về thừa kế thể hiện
12
trình độ pháp điển hoá pháp luật dân sự nói chung và các qui định chung
về thừa kế nói riêng đã đạt đến trình độ cao, gồm các qui định như: thời
điểm mở thừa kế, địa điểm mở thừa kế, di sản, người thừa kế, quyền của
người thừa kế, thời hiệu thừa kế…
1.3. Kinh nghiệm xây dựng những qui định chung về thừa kế
của các nước
Ở Việt Nam chúng ta đã học tập và tiếp thu kinh nghiệm lập pháp
của ông cha ta và các nước tiên tiến trên thế giới như Pháp, Đức, Nga,
Nhật....Vì vậy, chúng ta đã xây dựng được Bộ luật Dân sự tương đối toàn
diện, có cấu trúc khoa học.
Bộ Luật Dân sự của Pháp, Nhật Bản, Thái Lan, Liên Bang Nga... có
nhiều nét tương đồng với Bộ luật Dân sự của nước ta. Tuy nhiên, các Bộ
luật này điều chỉnh một số trường hợp cụ thể có tính khoa học và hợp lý
hơn BLDS Việt Nam.
Pháp luật của Pháp, Nhật, Nga đều qui định các hành vi sau đây là
nhận di sản: bán, cho, hoặc nhường quyền thừa kế, hết thời hạn từ chối
nhận di sản thì coi là mặc nhiên nhận di sản. Trường hợp người thừa kế từ
chối nhận di sản để trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ với người thứ ba thì
chủ nợ có quyền yêu cầu toà án chia di sản của người để lại thừa kế và cho
nhận thay phần của người từ chối nhận di sản
Các Bộ luật Dân sự của Pháp, Đức, Nga, Nhật đều qui định thời
hiệu xác lập quyền sở hữu và thời hiệu tố tụng là một, có nghĩa là hết thời
hiệu khởi kiện thì di sản sẽ thuộc quyền sở hữu của người đang chiếm hữu
ngay tình di sản đó.
Về vấn đề này, chúng ta cần phải học tập phương pháp điều chỉnh
các loại thời hiệu trong BLDS, đặc biệt là thời hiệu thừa kế Đ.645 BLDS
và thời hiệu xác lập quyền sở hữu Đ.247 BLDS
13
Kết luận chương 1
Quyền thừa kế không những là quyền dân sự của cá nhân mà là
quyền con người, cho nên Nhà nước cần tạo mọi điều kiện cho cá nhân
thực hiện quyền thừa kế của mình một cách tốt nhất. Mọi hoạt động của
Nhà nước phải hướng tới con người và vì con người. Để thực hiện tốt
phương châm đó, khi xây dựng, sửa đổi, bổ sung văn bản pháp luật cần
phải đảm bảo các quyền của con người được thực hiện trong khuôn khổ
pháp luật.
Để tiếp tục hoàn thiện Bộ luật Dân sự, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cần rà soát toàn diện từng qui định của BLDS, trong đó có các qui
định về thừa kế. Bộ luật Dân sự tuy mới được sửa đổi, bổ sung nhưng
phần thừa kế còn nhiều qui định không phù hợp hoặc không rõ ràng như
quyền của người thừa kế và đặc biệt là thời hiệu thừa kế (10 năm) không
phù hợp với căn cứ xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu (30 năm).
Chương 2
NỘI DUNG VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG NHỮNG QUI ĐỊNH
CHUNG VỀ THỪA KẾ
2.1. Quyền thừa kế của cá nhân
- Xuất phát từ nguyên tắc của luật dân sự là tự do, tự nguyện, pháp
luật cho phép cá nhân có quyền lập di chúc định đoạt tài sản của mình cho
cá nhân, tổ chức hưởng. Người lập di chúc có quyền chỉ định người thừa
kế, truất quyền hưởng di sản của người thừa kế, dành một phần di sản để
di tặng hoặc làm di sản thờ cúng, chỉ định người quản lý di sản, người
phân chia di sản. Trường hợp không lập di chúc thì di sản chia theo pháp
luật.
- Cá nhân có quyền bình đẳng trong việc nhận di sản và thực hiện
nghĩa vụ của người chết để lại. Không phân biệt nam nữ, tuổi tác, tình
14
trạng sức khỏe, tôn giáo, mọi cá nhân đều có quyền hưởng di sản theo di
chúc, theo pháp luật. Người hưởng di sản phải thực hiện nghĩa vụ của
người chết để lại trong phạm vi di sản được hưởng. Tuy nhiên, pháp luật
khuyến khích thực hiện toàn bộ nghĩa vụ của người chết.
2.2. Thời điểm, địa điểm mở thừa kế
- Thời điểm mở thừa kế là thời điểm người có tài sản chết, làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế và những người liên quan đến di
sản. Xác định thời điểm mở thừa kế có ý nghĩa quan trọng trong việc xác
định di sản thừa kế, người thừa kế và những người liên quan đến việc thừa
kế, thời điểm có hiệu lực của di chúc.
- Địa điểm mở thừa kế là nơi cư trú cuối cùng của người để lại di
sản, nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa
kế là nơi có toàn bộ hoặc phần lớn tài. Địa điểm mở thừa kế có ý nghĩa xác
định các vấn đề sau:
- Nơi làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế;
- Tòa án có thẩm quyền sẽ giải quyết việc thừa kế;
- Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp di sản thừa kế.
2.3. Di sản và phân loại di sản
- Di sản gồm các loại tài sản thuộc quyền sở hữu của người đã chết
mà trước khi chết họ chưa định đoạt hết và các tài sản khác phát sinh khi
người để lại thừa kế chết như tiền bảo hiểm tính mạng, sức khoẻ, hoa lợi,
lợi tức phát sinh từ di sản.
- Khối di sản có thể được dùng một phần thanh toán nghĩa vụ, để
thờ cúng hoặc di tặng, phần còn lại được chia cho người thừa kế.
- Sau khi mở thừa kế, di sản thuộc quyền sở hữu của người thừa kế
kể từ thời điểm người thừa kế nhận di sản, đồng thời phải thực hiện nghĩa
vụ của người chết trong phạm vi di sản hưởng. Xác định thời điểm phát
15
sinh quyền và nghĩa vụ của người thừa kế có ý nghĩa về lý luận và thực
tiễn.
2.4. Người thừa kế, Người quản lý di sản
- Người thừa kế theo pháp luật là những người có quan hệ gia đình
với người để lại di sản. Người thừa kế theo pháp luật là cá nhân còn sống
vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết (sinh ra trong vòng
300 ngày sau khi mở thừa kế).
- Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân hoặc tổ chức được
chỉ định trong di chúc. Tổ chức còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì
được hưởng di sản. Nếu đình chỉ hoạt động trước thời điểm chia di sản thì
coi như không có người thừa kế theo di chúc, vì thành viên của tổ chức
không có tư cách chủ thể hưởng di sản.
- Sau khi mở thừa kế, vấn đề chia di sản có thể được đặt ra ngay,
điều này phụ thuộc vào những người thừa kế. Tuy nhiên, trong thực tế có
rất nhiều trường hợp sau một thời gian dài, những người thừa kế mới yêu
cầu chia di sản. Như vậy, trong thời gian chưa chia di sản, thì cần phải có
người quản lý di sản để tránh sự hư hỏng, mất mát.
- Người quản lý di sản có thể là quản lý di sản thừa kế, hoặc quản lý
di sản dùng vào việc thờ cúng. Phụ thuộc vào mục đích quản lý di sản mà
người quản lý di sản sẽ có các quyền và nghĩa vụ tương ứng. Sau khi mở
thừa kế, nếu di sản chưa chia thì người quản lý di sản sẽ quản lý cho đến
khi nào những người thừa kế có yêu cầu chia di sản.
2.5. Những người có quyền thừa kế của nhau nhưng được coi là
chết cùng một thời điểm
Nếu những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết trong
cùng một thời điểm hoặc được coi là chết trong cùng một thời điểm do
16
không thể xác định được người nào chết trước, thì họ không được hưởng
di sản của nhau và di sản của mỗi người do người thừa kế của người đó
hưởng. Trường hợp, bố (mẹ) chết trước hoặc chết cùng ông (bà) thì các
cháu sẽ thế vị bố (mẹ) nhận di sản của ông (bà).
2.6. Thời hiệu khởi kiện về thừa kế
Điều 645 BLDS qui định thời hiệu thừa kế là 10 năm, trong thời
hạn đó người thừa kế có quyền yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa
kế của mình, bác bỏ quyền thừa kế của người khác.
Theo qui định, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản trong
vòng 6 tháng. Như vậy, hết 6 tháng mà người thừa kế không từ chối nhận
di sản thì phải coi là nhận di sản. Nếu sau 10 năm, người thừa kế chưa yêu
cầu chia di sản, thì họ có quyền yêu cầu chia tài sản chung với những
người thừa kế khác. Sau 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế, người nào
đang quản lý di sản thì tài sản thuộc về người đó (Điều 247 BLDS).
Kết luận chương 2
- Qua việc phân tích, đánh giá và bình luận các qui định chung về
thừa kế cần phải hiểu rằng mặc dù pháp luật không qui định cụ thể quyền
và nghĩa vụ của người thừa kế, nhưng trong thực tiễn khi giải quyết các
tranh chấp về di sản phải xem xét các quyền và nghĩa vụ của người thừa kế
trong mối quan hệ biện chứng với các quyền và nghĩa vụ dân sự phù hợp
với nguyên tắc của luật dân sự, để bảo vệ quyền lợi cho người thừa kế.
- Trong thực tiễn vấn đề xác định di sản là quyền sử dụng đất rất
phức tạp, bởi lẽ các chính sách về đất đai thay đổi liên tục. Mặt khác, thủ
tục hành chính liên quan đến cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rất
phiền hà đã làm cho việc thực hiện Luật Đất đai bị cản trở. Để tạo điều
kiện cho các giao dịch liên quan đến đất đai thông thoáng, Nhà nước cần
phải nhanh chóng cấp GCNQSDĐ.
17
- Tranh chấp di sản chủ yếu là quyền sử dụng đất nhưng Bộ luật
Dân sự qui định thời hiệu 10 năm là ngắn. Mặt khác, không phù hợp các
loại thời hiệu xác lập quyền sở hữu. Vì vậy, khi giải quyết tranh chấp về
thừa kế, cần phải xem xét thời điểm phát sinh quyền sở hữu tài sản của
người thừa kế từ khi mở thừa kế. Nếu hết 10 năm người thừa kế không
kiện chia di sản mà họ sẽ kiện chia tài sản sản chung theo phần của những
người thừa kế. Tuy nhiên, nếu sau 30 năm kể từ thời điểm mở thừa kế,
nguời thừa kế không kiện chia tài sản chung thì quyền sở hữu xác lập đối
với người đang quản lý tài sản một cách liên tục ngay tình công khai.
18
Chương 3
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN NHỮNG QUI
ĐỊNH CHUNG VỀ THỪA KẾ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Nhu cầu hoàn thiện những qui định chung về thừa kế
3.1.1. Sự cần thiết hoàn thiện những qui định chung về thừa kế
Hoàn thiện Bộ luật Dân sự nói chung và các qui định chung nói
riêng rất cần thiết vì những yêu cầu sau đây:
- Hiện nay việc quản lý kinh tế của nước ta đang dần dần hoàn thiện
cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có tác động mạnh mẽ
đến các giao lưu dân sự trong tương lai đó là các quan hệ sở hữu, hợp
đồng.
- Các quan hệ sở hữu đang phát triển theo cơ chế thị trường, cho
nên pháp luật điều chỉnh những quan hệ này phải phù hợp với quá trình
phát triển của các quan hệ sở hữu. Vì vậy, Bộ luật Dân sự cần phải tiếp tục
hoàn thiện các chế định sở hữu, hợp đồng và thừa kế...để tạo cơ sở phát
triển kinh tế- xã hội và thoả mãn nhu cầu vật chất tinh thần của nhân dân
- Chế định thừa kế đã phát huy được hiệu quả điều chỉnh các quan
hệ thừa kế. Tuy nhiên, còn hạn chế, bất cập cần tiếp tục hoàn thiện, đó là
các vấn đề về di sản, nhận di sản, từ chối nhận di sản, di sản thờ cúng, thời
hiệu khởi kiện.
3.1.2 .Phương hướng hoàn thiện những qui định chung về thừa kế
- Trong cơ chế thị trường, cá nhân được phép làm những gì pháp
luật không cấm và không trái với đạo đực xã hội, vì thế cần phải mở rộng
phạm vi quyền của người thừa kế. Hiện nay pháp luật qui định người thừa
kế có quyền nhận di sản và quyền từ chối nhận di sản nhưng trong thực tế
người thừa kế có thể nhường quyền thừa kế cho người thừa kế khác. Để
tạo điều kiện cho các giao lưu dân sự phát triển, cần qui định người thừa
19
kế có quyền bán, tặng cho người khác quyền nhận di sản.
- Còn một số qui định chung chưa cụ thể, hoặc hiểu theo nhiều
nghĩa, cho nên cần cụ thể hoá các điều luật này để không cần thiết có văn
bản hướng dẫn.
- Xây dựng các qui định chung tương thích với các qui định khác
trong Bộ luật Dân sự như: thời hiệu, di sản dùng vào việc thờ cúng, xác lập
quyền sở hữu theo thời hiệu…
3.2. Giải pháp hoàn thiện những qui định chung về thừa kế
3.2.1. Quyền của người thừa kế
Điều 632 BLDS qui định người thừa kế có quyền nhận di sản theo
di chúc hoặc theo pháp luật. Trong điều luật này dùng từ hoặc có thể dẫn
đến sự hiểu không chính xác như người thừa kế nhận di sản theo di chúc,
thì không nhận di sản theo pháp luật. Vì vậy, thay từ hoặc thành từ và.
Theo nghĩa này, người lập di chúc định đoạt một phần di sản, phần còn lại
chia theo pháp luật. Nếu người thừa kế được hưởng một phần di sản theo
di chúc, phần di sản không định đoạt trong di chúc chia theo pháp luật thì
người thừa kế tiếp tục hưởng theo pháp luật.
3.2.2. Di sản (Điều 634)
- Di sản bao gồm tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, hoa lợi,
lợi tức từ di sản và các tài sản khác do pháp luật qui định.
Theo qui định như trên, các tài sản khác phát sinh sau khi chết là di
sản, như tiền bảo hiểm tính mạng của người để lại thừa kế khi họ tham gia
vào hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, hoa lợi phát sinh từ di sản thừa kế khi chưa
chia, quyền kế tiếp thực hiện hợp đồng khi chưa hết thời hạn.
3.2.3. Di sản dùng vào việc thờ cúng (Điều 670)
1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần không
quá một phần năm (1/5) di sản dùng vào việc thờ cúng …
20
Việc qui định một phần di sản là bao nhiêu, vấn đề này xuất phát từ
cơ sở thực tiễn có tính lịch sử. Theo truyền thống của ông cha ta từ xưa,
lập hương hoả không quá 1/20 điền sản ( Điều 390 LHĐ). Theo Điều 406
BLTK, hương hoả không quá 1/5 tài sản. Như vậy, các Bộ luật trước đây
đều khống chế một số lượng tài sản để làm hương hoả. Vì thế, trong
BLDS cần phải qui định rõ ràng vấn đề này. Theo truyền thống của cha
ông ta gần đây dùng 1/5 tài sản là hợp lý.
- Đoạn bốn khoản 1 Điều 670 BLDS cần bổ sung như sau :
Trong trường hợp tất cả những người thừa kế đều đã chết và thời
hiệu thừa kế đã hết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang
quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo
pháp luật.
Di sản thờ cúng được giao cho người chỉ định trong di chúc quản
lý. Nếu người này chết, di sản tiếp tục được chuyển cho người khác quản
lý. Trường hợp thời hiệu về thừa kế đã hết và tất cả người thừa kế hàng thứ
nhất đều đã chết, thì di sản thuộc về người đang quản lý di sản là người
trong diện thừa kế. Như vậy di sản này không dùng để thờ cúng nữa, nếu
thoả mãn hai điều kiện là không còn người thừa kế mà lẽ ra được hưởng
phần di sản thờ cúng nếu người lập di chúc không dành phần đó làm di sản
thờ cúng. Mặt khác, thời hiệu thừa kế đã hết thì di sản sẽ thuộc về người
thực tế đang quản lý di sản đó.
- Khoản 2 Điều 670 BLDS được bổ sung như sau:
2. Trong trường hợp phần di sản còn lại của người chết không đủ để
thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì thì phải dùng phần di sản
dùng vào việc thờ cú
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cơ sở lý luận và thực tiễn của những qui định chung về thừa kế trong Bộ luật Dân sự.pdf