Luận án Công tác xã hội nhóm đối với nữ sinh viên trong phòng ngừa quấy rối tình dục

MỞ ĐẦU. 1

1 Tính cấp thiết. 1

2.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. 2

3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án. 3

4.Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu. 3

5.Đóng góp mới về khoa học của luận án . 5

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án. 5

7. Kết cấu của luận án . 6

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU . 7

1.1 Các nghiên cứu về quấy rối tình dục . 7

1.2. Các nghiên cứu về công tác xã hội nhóm trong phòng ngừa và can thiệp

quấy rối tình dục. 27

1.2.1. Các nghiên cứu về CTXH nhóm trong phòng ngừa quấy rối tình dục . 27

1.2.2. Các nghiên cứu về công tác xã hội nhóm trong can thiệp, trị liệu quấy rối

tình dục. 33

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu. 34

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC XÃ HỘI NHÓM ĐỐI VỚI NỮ

SINH VIÊN TRONG PHÒNG NGỪA QUẤY RỐI TÌNH DỤC. 37

2.1. Phòng ngừa quấy rối tình dục. 37

2.1.1. Quấy rối tình dục . 37

2.1.2. Phòng ngừa. 42

2.1.3. Phòng ngừa quấy rối tình dục . 43

2.2. Công tác xã hội nhóm. 44

2.2.1. Định nghĩa. 44

2.2.2. Đặc trưng của công tác xã hội nhóm . 45

2.2.3. Các loại hình công tác xã hội nhóm. 45

2.3. Nữ sinh viên. 47

2.4. Công tác xã hội nhóm đối với nữ sinh viên trong phòng ngừa quấy rối tình dục. 49

2.4.1. Khái niệm công tác xã hội nhóm đối với nữ sinh viên trong phòng ngừa

quấy rối tình dục. 49

pdf232 trang | Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 500 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Công tác xã hội nhóm đối với nữ sinh viên trong phòng ngừa quấy rối tình dục, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư số 16/2009/TT-BYT); Các cơ sở y tế đã triển khai, phổ biến Thông tư số 24/2017/TT- YT đến các nhân viên y tế và tổ chức tiếp nhận, cấp cứu, điều trị người bệnh là nạn nhân bạo lực gia đình theo đúng quy định. Tuy nhiên từ năm 2016 đến nay, tại các cơ sở khám, chữa bệnh trực thuộc Sở không tiếp nhận người bệnh nào là nạn nhân bạo lực gia đình đến khám, điều trị. - Triển khai các dịch vụ, mô hình hỗ trợ, can thiệp để phòng ngừa và giảm thiểu bạo lực trên cơ sở giới cho nạn nhân và gia đình nạn nhân: Triển khai cơ sở cung cấp dịch vụ ứng phó với bạo lực trên cơ sở giới: Theo kế hoạch, năm 2017 Sở Lao động – Thương inh và Xã hội đã triển khai và chỉ đạo Trung tâm Bảo trợ xã hội tổ chức tiếp nhận nạn nhân bị bạo lực xảy ra tại các địa phương có nhu cầu tạm lánh. Thực hiện mô hình địa chỉ tin cậy – nhà tạm lánh tại cộng đồng: Ủy ban nhân dân thành phố đã chỉ đạo thực hiện lồng ghép với mô hình địa chỉ tin cậy - tạm lánh tại cộng do Sở VHTT và Hội LHPN chủ trì. Đến nay, các cấp Hội LHPN thành lập và duy trì 40 Câu lạc bộ Phòng chống bạo lực trên cơ sở giới; 109 nhóm, tổ tư vấn phòng chống bạo lực gia đình; 122 tổ phản ứng nhanh, 33 tổ hòa giải, 714 địa chỉ tin cậy tại cộng đồng; Năm 2017, được sự hỗ trợ của Bộ Lao 87 động - TBXH, Sở đã tham mưu thành phố chọn phường Hòa Minh, quận Liên Chiểu để triển khai thí điểm mô hình “Địa chỉ tin cậy – nhà tạm lánh tại cộng đồng”, địa điểm tại trạm y tế phường. Mô hình đã được trang bị đầy đủ các trang thiết bị cần thiết cho công tác tạm lánh, kinh phí mua sắm 30 triệu đồng và đi vào hoạt động từ đầu năm 2018, với kinh phí hỗ trợ hoạt động 25 triệu đồng. Kết quả đến nay đã thành lập Ban quản lý mô hình với 07 thành viên gồm lãnh đạo UBND, các cán bộ Công an, y tế, Hội Liên hiệp phụ nữ. Trong tìm hiểu và đánh giá thực trạng, việc lắng nghe ý kiến của những người trong cuộc, đã từng có trải nghiệm với các loại hình hoạt động CTXH này là điều cần thiết bởi chính họ sẽ có cách nhìn nhận chính xác nhất về hiệu quả của từng loại hình hoạt động CTXH (chuyên nghiệp hoặc bán chuyên nghiệp) trong phòng ngừa quấy rối tình dục. Quá trình khảo sát 618 nữ sinh viên, nghiên cứu lọc được 170 khách thể (chiếm 27,5%) đã từng tham gia ít nhất một hoạt động hoặc dịch vụ giúp phòng ngừa hoặc can thiệp với QRTD. Họ có thể là nạn nhân của QRTD từng sử dụng các dịch vụ trợ giúp hoặc là những cá nhân chưa từng bị, chứng kiến QRTD nữ sinh nhưng đã tham gia các hoạt động phòng ngừa hoặc tham gia với tư cách là thành viên hoặc tình nguyện viên tham gia tổ chức hoạt động. Sau đó, nghiên cứu thực hiện các phỏng vấn bán cấu trúc qua đó làm rõ vai trò của CTXH hiện nay trong hỗ trợ cho nữ SV nhằm phòng ngừa với QRTD. Kết quả bảng 4.4 cho thấy nữ sinh viên có những trải nghiệm với các loại hình CTXH trong phòng ngừa QRTD với những mức độ khác nhau. Hỗ trợ về giáo dục, hỗ trợ tâm lý và hỗ trợ về y tế, chăm sóc sức kho là ba loại hình có phần trăm lựa chọn nhiều hơn cả. Có 154/170 khách thể cho biết bản thân có trải nghiệm với các hoạt động liên quan đến hỗ trợ về giáo dục (86,5%). Hỗ trợ về tâm lý có 120/170 nữ sinh từng trải nghiệm, chiếm 60,6% (thứ bậc 2), hỗ trợ về y tế và chăm sóc sức kho là 53,5 % (xếp thứ bậc 3). Các loại hình khác như có phần trăm khách thế lựa chọn thấp hơn, dao động từ 11-22% là hỗ trợ pháp lý, chỗ ở an toàn và hỗ trợ cho gia đình nạn nhân. Nhằm hiểu rõ hơn về nội dung cũng như nguồn cung cấp của các hoạt động giúp phòng ngừa với QRTD mà nữ sinh viên được trải nghiệm từ trước đến nay, phân tích định tính cho thấy đối với sinh viên, các hoạt động hay chương trình liên quan đến hỗ trợ giáo dục chủ yếu được đề cập trong môn học giáo dục giới tính và phương pháp giáo dục giới tính - thuộc chương trình đào tạo cho sinh viên chính qui của trường ĐHSP, ĐH Đà Nẵng, hầu hết sinh viên đều được học môn này, trong đó có một nội dung giúp nhận biết về quấy rối tình dục, xâm hại tình dục cũng như các hành vi bạo lực liên quan đến tình dục, tuy nhiên nội dung khá cơ bản, chủ yếu đề cập định nghĩa, hình thức chứ chưa đề cập đến các kỹ năng giúp nữ sinh viên phòng ngừa. 88 “Trong học phần giáo dục giới tính và phương pháp giáo dục giới tính chúng em có được học một nội dung liên quan đến quấy rối tình dục, xâm hại tình dục giúp chúng em nhận biết được biểu hiện của hành vi đó, tuy nhiên thật sự kết thúc môn học chúng em vẫn chưa biết kỹ năng phòng ngừa và ứng phó hiệu quả nếu bị quấy rối tình dục” (PVS; SV năm 3, Ngành CTXH, Trường ĐHSP) Trong các hoạt động phong trào, các nội dung giúp nữ SV phòng ngừa với QRTD cũng chưa được quan tâm vì nhiều lí do, phần vì nội dung này là “khá nhạy cảm”, phần vì nghĩ rằng muốn phòng ngừa thì sinh viên “chỉ cần học võ là xong”. Trong giai đoạn khi còn là học sinh phổ thông, các nội dung liên quan đến phòng ngừa QRTD được nhắc đến trong 1-2 buổi nói chuyện chuyên đề trong trường học do công an phối hợp với nhà trường tổ chức hoặc được tích hợp trong một số môn học. Trong 618 bạn được khảo sát thì câu trả lời cho phần này khá khiêm tốn (N= 84). Vì nhiều lí do khác nhau, dường như các hoạt động này vẫn chưa đáp ứng được như mong đợi của nữ sinh. Theo dữ liệu các báo cáo về quản lý công tác giáo dục phòng ngừa quấy rối tình dục cho học sinh tại Thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2015-2018 cho thấy gần như trong nhà trường phổ thông hiện nay, hoạt động phòng ngừa QRTD cho học sinh cũng chưa được quan tâm và thực hiện đúng mức. Kết quả nghiên cứu này phản ánh công tác giáo dục đạo đức cho học sinh nói chung và công tác giáo dục phòng ngừa quấy rối tình dục cho học sinh nói riêng trong những năm qua đã có nhiều cố gắng và đạt được kết quả nhất định, tuy nhiên vẫn chưa được thực hiện đầy đủ. Việc quan tâm giáo dục đạo đức và quản lý giáo dục phòng ngừa QRTD cũng còn nhiều bất cập, yếu kém: Bộ máy tổ chức quản lí giáo dục phòng ngừa QRTD chưa thật đồng bộ, thiếu sự phối hợp trong công tác; năng lực của đội ngũ thực hiện công tác giáo dục phòng ngừa QRTD còn nhiều hạn chế chưa được bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ nên còn gặp khó khăn, lúng túng trong quá trình thực hiện. Khâu xây dựng và tổ chức, chỉ đạo thực hiện kế hoạch giáo dục phòng ngừa QRTD cho học sinh chưa sát thực tế, thiếu mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình thức cụ thể, còn bị động trong triển khai và thực hiện; chưa phát huy hết việc phối kết hợp của các lực lượng giáo dục trong và ngoài nhà trường. Nhiều lực lượng xã hội chưa chủ động, tích cực tham gia cùng nhà trường trong việc thực hiện mục tiêu giáo dục thế hệ tr và yêu cầu giáo dục phòng ngừa QRTD. Do đó chưa tạo được sự thống nhất trong toàn xã hội. Các hình thức, nội dung, giải pháp còn mang nặng tính hình thức, nghèo nàn chưa thu hút được học sinh, thiếu linh hoạt, các hoạt động chưa đan xen, lồng ghép nhau; các phương pháp tạo lập hành vi và điều chỉnh thái độ chưa được chú trọng. Công tác kiểm tra đánh giá chưa thực hiện thường xuyên, thiếu qui định cụ thể; Việc khen thưởng, kỷ 89 luật chưa kịp thời; chưa đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, tài chính cho công tác giáo dục phòng ngừa QRTD cho học sinh vì thế chưa đủ mạnh để động viên, khuyến khích các đối tượng tham gia hoạt động này. Các loại hình hỗ trợ liên quan đến tâm lý, pháp lý hay y tế và sức kho chủ yếu do các nữ sinh chủ động tiếp cận sau khi có trải nghiệm (bị) quấy rối tình dục. Khi có trải nghiệm với quấy rối tình dục, nguồn cung cấp các hỗ trợ về tâm lý chủ yếu vẫn đến từ người quen, bạn bè, gia đình và thầy cô nhiều hơn là tìm đến các cơ sở cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp, hình thức chủ yếu là làm việc cá nhân. “Khi em gặp tình huống bị quấy rối tình dục và thủ phạm là giảng viên, em đã rất bối rối và lo sợ, em cũng không biết phải nhờ ai giúp đỡ, phần vì ngại, phần thì sợ chuyện lộ ra ngoài, em đã viết email cho một cô giáo đã dạy em khi năm nhất mà em rất quí, kể câu chuyện đó với cô và nhờ cô ấy tư vấn cách giải quyết”. ( PVS, SV năm 2, ngành SP Toán, Đại học Sư phạm) Trong số 170 nữ sinh cho rằng bản thân từng tham gia các hoat động CTXH nhằm phòng ngừa bị QRTD có một số SV tiếp cận với các hoạt động phòng ngừa QRTD từ góc độ là tình nguyện viên, thành viên tham gia thực hiện các hoạt động phòng ngừa cho cộng đồng thông qua các dự án của các tổ chức NGO hoặc từ hoạt động tình nguyện mùa hè xanh trong trường đại học, tuy nhiên, các hoạt động này về cơ bản chưa mang đầy đủ đặc điểm và qui trình của phương pháp CTXH với nhóm. Đối tượng các hoạt động này hướng đến là phòng ngừa XHTD cho tr em. “Chúng em (4 bạn) được kết nối với tổ chức Csaga và trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Đà Nẵng để tham gia hỗ trợ cho các em nhỏ từng bị xâm hại tình dục, chúng em chủ yếu đến chơi với em, dẫn em đi khám hoặc trợ giúp cho các em trong các hoạt động học tập.Tuy nhiên chúng em muốn các tổ chức huấn luyện nhiều hơn cho chúng em về các kỹ năng hỗ trợ cho nạn nhân bởi chúng em chưa có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này”. (PVS, SV năm 3, ngành CTXH, Đại học Sư phạm). Hoặc “Thời gian vừa qua nhóm chúng em gồm 10 bạn được tập huấn chương trình giáo dục phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em, chủ yếu thầy cô giới thiệu về chương trình và chúng em tự nghiên cứu, sau đó chúng em được ứng dụng chương trình đó trong các học phần thực hành công tác xã hội”. (PVS, SV năm 3, ngành CTXH, Đại học Sư phạm). Và “ Em và 5 bạn nữa được tham gia vào nhóm tình nguyện viên cho chương trình phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em qua môi trường mạng do tổ chức Tầm nhìn thế giới tổ chức, chúng em được tập huấn các kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng tổ chức trò chơi và nội dung chương trình phòng ngừa, nếu chúng em đạt thì sẽ được tham gia tập huấn lại với trẻ em tại cộng đồng ”. (PVS, SV năm 2, ngành Tâm lý học, Đại học Sư phạm). 90 Có thể thấy số sinh viên được trải nghiệm với các hoạt động như vậy là không nhiều, một phần vì các hoạt động này được triển khai ở qui mô nhỏ, đối tượng chính hướng đến là tr em, một phần nếu thầy cô không dẫn dắt, chủ động kết nối thì sinh viên hoặc còn chưa chủ động hoặc không biết để tham gia. Bảng 4.4: Mức độ đáp ứng của các loại hình công tác xã hội trong phòng ngừa quấy rối tình dục so với nhu cầu của nữ SV (N=170) Kết quả phỏng vấn sâu đại diện một số cơ sở cung cấp các dịch vụ CTXH trên địa bàn Thành phố Đà Nẵng hiện nay góp phần khẳng định những ý kiến của nữ sinh là tin cậy. Theo đó, tại Đà Nẵng hiện nay chỉ mới có các hoạt động CTXH trong phòng ngừa QRTD cho phụ nữ và tr em gái nói chung, còn các hoạt động CTXH đặc thù cho sinh viên và nữ sinh viên là gần như chưa có. Loại hình hỗ trợ chủ yếu làm việc/can thiệp cho cá nhân và gia đình. Một số mô hình truyền thông có được triển khai tuy nhiên mới chỉ mang tính CTXH chứ chưa phải là CTXH chuyên nghiệp, mới hướng đến đối tượng học sinh, tr em là chủ yếu. “Hiện nay, tại trung tâm có cung cấp đa dạng các loại hình CTXH, khá nhiều mô hình trong chăm sóc và bảo vệ trẻ em như “Mô hình xã phường làm tốt CTXH với trẻ em”; Mô hình “Chăm sóc thay thế” trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt; Hỗ trợ kỹ thuật cho dự án “Hành trình yêu thương” của Sở Giáo dục thực hiện mô hình “Tham vấn học đường”. Trong phòng ngừa XHTD, RTD trước m t đối tượng hướng đến chủ yếu dành cho trẻ em, ngoài đường dây nóng 111 trong chống xâm hại, bạo hành trẻ em, hiện nay trung tâm cũng đang phối hợp với tổ chức Tầm nhìn Thế giới triển khai dự án về “Phòng ngừa xâm hại tình dục trẻ em qua mạng” (PVS, cán bộ quản lý, Trung tâm cung cấp dịch vụ CTXH Tp Đà Nẵng) “Hoạt động phòng chống bạo lực phụ nữ và trẻ em gái nói chung và quấy rối tình dục nữ sinh nói riêng hiện nay chủ yếu hướng vào nạn nhân hơn là đối tượng gây ra hành vi đó, cần tiếp cận để truyền thông và thúc đẩy cộng đồng đặc biệt là nam giới tham gia vào hoạt động phòng chống lại vấn nạn này, đồng thời cần xây dựng hoạt động giáo dục phòng ngừa QRTD và tổ chức các hoạt động giáo dục TT Các loại hình hỗ trợ Đã từng trải nghiệm Mức độ đáp ứng với nhu cầu N % ĐTB ĐLC 1 Hỗ trợ tâm lý 120 60,6 2,02 0,95 2 Hỗ trợ giáo dục 154 86,5 2,28 0,84 3 Hỗ trợ pháp lý 69 21,8 1,19 1,25 4 Hỗ trợ y tế và chăm sóc sức khỏe 114 53,5 2,02 1,19 5 Hỗ trợ chỗ ở an toàn 67 20 1,34 1,42 6 Hỗ trợ gia đình nạn nhân 54 11,8 0,80 1,14 91 phòng ngừa QRTD cho thanh niên từ đó giúp họ tự bảo vệ bản thân và hơn nữa có thể chung tay phòng ngừa QRTD cho cộng đồng ”. (PVS; Cán bộ quản lý; Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng) Như vậy, kết quả từ phân tích cho thấy trong thời gian gần đây, các cấp chính quyền cũng như các đơn vị, tổ chức đã bắt đầu có dành sự quan tâm hơn cho công tác phòng chống bạo lực phụ nữ và tr em, đặc biệt là để bảo vệ tr em. Hầu hết các hoạt động tuyên truyền, giáo dục được đẩy mạnh với nhiều hình thức, theo nhóm đối tượng, tạo sức lan tỏa; Nhiều hoạt động tranh thủ được các nguồn lực, nguồn viện trợ của các tổ chức phi chính phủ cho công tác bình đẳng giới, phòng chống bạo lực đối với phụ nữ và tr em; một số mô hình hay được thực hiện và thu được những kết quả nhất định và rất cần lan toả rộng rãi hơn. Nhưng thực tế cho thấy, phần lớn các hoạt động này đang tập trung cho hình thức bạo lực trong gia đình hoặc các dạng bạo lực giới nói chung hoặc phòng ngừa QRTD tại nơi làm việc. Không phủ nhận rằng thông qua các hoạt động này phần nào gián tiếp phòng chống quấy rối tình dục phụ nữ và tr em gái, nữ sinh viên; Tuy nhiên, các hoạt động nhằm phòng ngừa cũng như can thiệp chuyên sâu cho phụ nữ và tr em gái với quấy rối tình dục là gần như còn rất ít về số lượng và chưa đa dạng về hình thức; Các hoạt động CTXH nhóm trong phòng ngừa QRTD dành cho nữ sinh viên trên địa bàn mang đặc trưng và đúng tiến trình công tác xã hội nhóm là gần như chưa thực hiện. 4.2.2. Hiệu quả của các hoạt động công tác xã hội nhóm đối với nữ sinh viên trong phòng ngừa quấy rối tình dục Nhằm đánh giá, xem xét hiệu quả của các loại hình hoạt động CTXH nhóm đối với nữ sinh viên trong phòng ngừa QRTD có thể thực hiện qua nhiều kênh đánh giá về các phương diện/khía cạnh khác nhau. Đánh giá năng lực phòng ngừa với QRTD của nữ sinh viên – với tư cách là chủ thể của hoạt động phòng ngừa là việc làm cần thiết bởi năng lực của sinh viên có được ở mức độ nào chính là minh chứng rõ nhất cho thấy ý nghĩa, hiệu quả của hoạt động đó mang lại. Làm rõ được kiến thức và kỹ năng phòng ngừa của nữ sinh viên, hiểu được khả năng của các em đang ở mức độ nào, đã được trang bị điều gì và còn thiếu hụt như thế nào về nhận thức và kỹ năng phòng ngừa, ứng phó với QRTD cũng là cơ sở quan trọng để đề xuất các biện pháp công tác xã hội nhằm phòng ngừa QRTD cho nữ sinh viên và đó cũng chính là mục đích hướng đến của nghiên cứu này. Để làm rõ hiệu quả của các hoạt động CTXH được tổ chức, so sánh về kiến thức và kỹ năng phòng ngừa QRTD của 2 nhóm sinh viên đã tham gia và không tham gia các hoạt động này đã được thực hiện với kỳ vọng là kiến thức và kỹ năng của nhóm đã tham gia phải hơn hẳn nhóm không tham gia. Kết quả so sánh cho thấy cụ thể như sau: 92 4.2.2.1. Hiệu quả trong việc nâng cao hiểu biết của nữ sinh viên về quấy rối tình dục và phòng ngừa quấy rối tình dục a. Hiểu biết của nữ sinh viên về các biểu hiện của quấy rối tình dục Bảng 4.5: So sánh khả n ng nhận diện biểu hiện quấy rối tình dục giữa nhóm có tham gia và không tham gia các loại hình CTXH nhóm Stt Tình huống Loại hành vi (%) P Trêu đùa Tán tỉnh Quấy rối tình dục Xâm hại tình dục Bình thường 1 Trên đường vắng một k cứ lẽo đẽo đi theo “liếc mắt đưa tình” Không tham gia 54,5 25,4 18,8 0,0 1,4 0,55 Có tham gia 50,6 30,4 18,5 0,0 0,6 2 Nam giới huýt sáo, cười cợt, bình phẩm về chỗ nhạy cảm trên cơ thể của bạn gái, Không tham gia 27,0 3,7 68,2 1,1 0,0 0,38 Có tham gia 31,0 3,0 63,7 1,8 0,6 3 Một k cứ nhìn chằm chằm vào bộ phận nhạy cảm trên cơ thể cô gái Không tham gia 2,7 2,5 89,7 2,7 2,3 0,61 Có tham gia 1,2 1,8 92,3 3,6 1,2 4 Người khác sờ mó, đụng chạm một cách cố ý vào bộ phận cơ thể bạn nữ tại nơi công cộng Không tham gia 0,5 0,5 49,4 49,7 0,0 0,62 Có tham gia 0,0 0,6 45,2 54,2 0,0 5 Bạn gái đang đi bộ , một k cứ lẽo đẽo theo rất lâu và buông lời tán tỉnh Không tham gia 12,6 49,2 36,4 0,9 0,9 0,2 Có tham gia 10,1 44,6 42,9 2,4 0,0 6 Bạn gái đi làm thêm vào buổi tối và gặp một k cố ý phô bày bộ phận sinh dục Không tham gia 2,1 2,1 85,6 10,3 0,0 0,33 Có tham gia 1,2 4,2 86,9 7,7 0,0 7 Người khác gửi tin nhắn hoặc email liên quan đến tình dục tục tới bạn Không tham gia 5,7 67,3 20,8 0,7 5,5 0,57 Có tham gia 7,1 65,5 17,9 1,2 8,3 8 Nữ sinh bị ép xem ảnh khiêu dâm Không tham gia 2,1 2,3 79,6 15,8 0,2 0,80 Có tham gia 1,2 3,0 81,5 13,7 0,6 9 Người khác quay Không 22,9 2,3 51,3 20,6 3,0 0,79 93 chụp/phát tán hình ảnh cá nhân của bạn tham gia Có tham gia 20,8 3,6 54,8 17,9 3,0 10 Nữ sinh bị hiếp dâm Không tham gia 0,2 0,5 6,2 91,3 1,8 0,50 Có tham gia 0,6 1,2 3,6 93,5 1,2 11 Cố tình kể những câu chuyện tình dục tục tĩu với bạn Không tham gia 30,4 1,8 56,1 6,2 5,5 0,39 Có tham gia 23,2 3,0 63,1 5,4 5,4 12 Bạn trai nhiều lần đề nghị quan hệ tình dục với bạn dù bạn rất ngại, không muốn. Không tham gia 0,7 3,4 60,9 22,9 12,1 0,15 Có tham gia 0,6 3,6 62,5 28,0 5,4 13 Xe vắng khách, tài xế khi cúi xuống lấy đồ đã cố ý đặt tay vào vùng kín của nữ sinh Không tham gia 0,5 0,2 39,6 59,3 0,5 0,85 Có tham gia 0,0 0,0 38,1 61,3 0,6 14 Giáo viên nam quàng tay ôm nữ sinh viên khi cùng đi hát karaoke giao lưu Không tham gia 9,8 7,1 57,4 13,0 12,6 0,10 Có tham gia 8,9 12,5 60,7 9,5 8,3 15 Nhiều lần thầy giáo hẹn nữ sinh viên đến nhà riêng để hướng dẫn bài tập mà vợ thầy đi vắng khiến nữ sinh viên khó xử Không tham gia 2,7 16,7 67,7 7,8 5,0 0,07 Có tham gia 0,0 12,5 75,0 9,5 3,0 Kết quả bảng 4.5 cho thấy có những khác biệt nhất định trong nhận diện các biểu hiện của QRTD của hai nhóm sinh viên, tuy nhiên hai nhóm có độ chênh không đáng kể, sự khác biệt không có ý nghĩa về mặt thống kê. Ngoại trừ tình huống 15 “Nhiều lần thầy giáo hẹn nữ sinh viên đến nhà riêng để hướng dẫn bài tập mà vợ thầy đi v ng khiến nữ sinh lo l ng, khó x ” (p= 0,07). Trong đó % nữ sinh xác định đúng loại hành vi của nhóm có tham gia các hoạt động CTXH giúp phòng ngừa QRTD cao hơn nhóm không tham gia (Nhóm tham gia: 75% và nhóm không tham gia: 67,7%). Nhìn chung, nữ sinh viên (cả hai nhóm) có những hiểu biết nhất định nhưng chưa thật sự thống nhất và chưa chính xác trong một số biểu hiện QRTD. Những tình huống quấy rối tình dục mang tính thể chất như “động chạm, sờ mó” được khách thể nhận diện tương đối tốt, phần lớn cho rằng đó chính là quấy rối tình dục hoặc xâm hại tình dục và có xu hướng thiên về cho rằng đó là biểu hiện của xâm hại tình dục nhiều hơn. Chẳng hạn như tình huống “Người khác sờ mó, đụng chạm một cách cố ý vào bộ 94 phận cơ thể bạn nữ tại nơi công cộng (bến xe, ga tàu, công viên, xe buýt,)” (48,9 % xác định đó là quấy rối tình dục và 50,3 % xác định đó là xâm hại tình dục). Có thể lí giải điều này là do trong khái niệm về xâm hại tình dục và quấy rối tình dục trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong một số nghiên cứu khoa học, tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng có một số biểu hiện cụ thể về hành vi thì giống nhau, đặc biệt là các biểu hiện liên quan đến hành vi thể chất nặng nề như “bị hiếp dâm” (91,7 % xác định đó là xâm hại tình dục). Những biểu hiện được nữ sinh xác định đó là quấy rối tình dục có tính đồng nhất cao là “Một kẻ cứ nhìn chằm chằm vào bộ phận nhạy cảm trên cơ thể của cô gái” (90,3%); “Bạn gái đi làm thêm vào buổi tối và gặp một kẻ cố ý phô bày bộ phận sinh dục khiến bạn thấy xấu hổ, bất an” (85,9 %); “Nữ sinh bị ép xem ảnh khiêu dâm dù bạn ấy không muốn và từ chối” (80,4%); “Nam giới huýt sáo, cười cợt, bình phẩm về chỗ nhạy cảm trên cơ thể của bạn gái, ví dụ như “ôi mông em bự thế!” khiến bạn ấy xấu hổ”(66,7%). Nhóm biểu hiện này đều có trên 60% khách thể xác định đó chính là hành vi QRTD. Những biểu hiện khác có số lượng lựa chọn không nhiều nhưng cũng quá bán liên quan đến các tình huống gắn với QRTD trong học đường “Thầy giáo quàng tay ôm nữ sinh viên khi cùng đi hát karaoke giao lưu khiến bạn ấy rất ngại” (58,4%); “Nhiều lần thầy giáo hẹn nữ sinh viên đến nhà riêng để hướng dẫn bài tập mà vợ thầy đi v ng khiến nữ sinh lo l ng, khó x ” (67,7%). Số phần trăm còn lại dao động từ 18- 28% cho rằng đó chỉ là trêu đùa, tán tỉnh. Các hành vi QRTD khác có sự lựa chọn thấp, rơi vào tình huống 1 gắn với biểu hiện “liếc m t đưa tình” (chỉ 18,9 %), lẽo đẽo đi theo rất lâu và buông lời tán tỉnh, gạ tình (38,2%), ép nghe những câu chuyện liên quan đến tình dục ( 28,4 %), g i tin nh n, email liên quan đến tình dục ( 20,4 %). Với các hành vi này, khá nhiều nữ sinh nhầm lẫn với hình thức trêu đùa, tán tỉnh, thậm chí có những khách thể cho rằng đó chỉ là những hành vi bình thường. Đây là những hành vi mà trong cuộc sống hiện nay chúng ta cũng thường hay gặp, trong những bối cảnh thông thường, rất nhiều người nghĩ rằng đó chỉ là trêu đùa, tán tỉnh nhưng trong những tình huống này nó được xem là quấy rối tình dục bởi nó gắn với đặc điểm chính của quấy rối tình dục. Tóm lại, khả năng nhận diện các biểu hiện QRTD của nữ sinh viên vẫn còn nhiều hạn chế, hoặc chưa thật sự thống nhất hoặc nhầm lẫn giữa quấy rối tình dục với trêu đùa, tán tỉnh. Những kết quả này cũng đồng hướng với kết luận trong nghiên cứu của Ei và owen (2002). 95 b. Hiểu biết về hậu quả của quấy rối tình dục So sánh hiểu biết của nữ sinh viên tham gia và không tham gia các loại hình hoạt động CTXH và CTXH nhóm đối với nữ sinh viên trong phòng ngừa QRTD cho thấy nhận thức của hai nhóm nữ sinh viên về khía cạnh này cũng khá tương đồng. Ngoại trừ nội dung item 6 (Xem bảng 4.6) “ QRTD làm giảm hiệu quả công việc, bỏ việc từ đó giới hạn khả năng phát triển nữ giới ” là sự chênh lệch có ý nghĩa. (p= 0, 013), % lựa chọn của nhóm được tham gia cao hơn nhóm không được tham gia. QRTD có thể gây ra nhiều hệ lụy đối với cá nhân lẫn gia đình và xã hội. Nhìn chung, kết quả từ bảng 3.6 cũng cho thấy, nhóm phương án có trên 80% khách thể lựa chọn liên quan đến những tác động trực tiếp về thể chất và tâm lý của nạn nhân - những đối tượng có nguy cơ cao bị quấy rối tình dục. Quấy rối tình dục khiến nạn nhân xuất hiện những cảm xúc tiêu cực như “lo l ng, bất an, sợ, tức giận, xấu hổ với mọi người xung quanh”, gây ra những “tổn thương thể chất” (mang thai trước tuổi, m c các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục,) và cản trợ các mối quan hệ xã hội của nữ giới vì nạn nhân có thể rơi vào trạng thái “Lảng tránh, ngại tiếp xúc, luôn trong trạng thái đề phòng khi tiếp xúc người khác giới”. Ngoài những hậu quả đối với nạn nhân, hành vi QRTD là một trong những yếu tố gây “Gây bất ổn xã hội” thậm chí “Làm xấu hình ảnh của cộng đồng, quốc gia” . Quấy rối tình dục có thể gây ra những hậu quả đối với gia đình nạn nhân, khiến “bầu không khí gia đình bị xáo trộn” (74,6%), “Phá vỡ sự ổn định của gia đình (li hôn, chuyển nhà, bố mẹ phải nghỉ việc chăm con,)” (79,8%). Nhóm các phương án có phần trăm khách thể lựa chọn không nhiều bằng nhưng quá bán là “Ngại đi ra ngoài hoặc đến các nơi công cộng”; “Chán học, học hành sa sút, bỏ học”; “Rối nhiễu hành vi, thay đổi cảm xúc (buồn nôn, dễ cáu giận và giận dữ, mất ngủ, giảm cân, khóc không kiểm soát, tìm đến chất gây nghiện để giải toả những chấn thương)”, tỷ lệ phần trăm dao động từ 50%-70%. Nhóm hậu quả có thể xảy ra nhưng tỷ lệ % lựa chọn là phần nhỏ gồm “Làm suy giảm kinh tế gia đình”, “Làm giảm sự phát triển kinh tế của quốc gia”, “Tăng chi phí an sinh, phúc lợi xã hội”; “Bị đỗ lỗi, người khác đàm tiếu, nói xấu, bị cô lập”. Các phương án này có phần trăm dao động từ 19%- 46%. 96 Bảng 4.6: So sánh hiểu biết về hậu quả của QRTD giữa nhóm nữ SV có tham gia và không tham gia các loại hình CTXH nhóm trong phòng ngừa QRTD Các hậu quả So sánh p Không tham gia Có tham gia Lo lắng, bất an, sợ, tức giận, xấu hổ với mọi người xung quanh N 389 153 0,46 % 89,0 91,1 Lảng tránh, ngại tiếp xúc, luôn trong trạng thái đề phòng khi tiếp xúc với người khác giới N 356 138 0,88 % 81,5 82,1 Bị đổ lỗi, người khác đàm tiếu, nói xấu, bị cô lập N 211 86 0,52 % 48,3 51,2 Ngại đi ra ngoài hoặc đến các nơi công cộng N 282 108 0,95 % 64,5 64,3 Chán học, học hành sa sút, bỏ học N 216 94 0,15 % 49,4 56,0 Giảm hiệu quả công việc, bỏ việc từ đó giới hạn khả năng phát triển nữ giới N 185 90 0,01 % 42,3 53,6 Tổn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfluan_an_cong_tac_xa_hoi_nhom_doi_voi_nu_sinh_vien_trong_phon.pdf
Tài liệu liên quan