LỜI CAM ĐOAN .i
MỤC LỤC.ii
DANH SÁCH CÁC BẢNG.iv
DANH SÁCH CÁC HÌNH.v
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT .vii
MỞ ĐẦU .1
CHƯƠNG 1. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU BIẾN ĐỘNG ĐỊA HÌNH VÙNG CỬA SÔNG VEN BIỂN.9
1.1. Những vấn đề chung.9
1.1.1. Khái niệm về cửa sông. 9
1.1.2. Phân loại cửa sông ở khu vực nghiên cứu . 11
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu vùng cửa sông ven biển.13
1.2.1. Trên thế giới. 13
1.2.2. Ở Việt Nam. 16
1.2.3. Ở Bắc Trung Bộ. 19
1.3. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu.20
1.3.1. Cách tiếp cận. 20
1.3.2. Các phương pháp nghiên cứu . 23
1.4. Tiểu kết chương.30
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN BIẾN ĐỘNG ĐỊA HÌNH VÙNG CỬA SÔNG VEN BIỂN BẮC TRUNG
BỘ .32
2.1. Yếu tố nội sinh.32
2.1.1. Đặc điểm địa chất . 32
2.1.2. Cấu trúc tân kiến tạo . 36
2.1.3. Hoạt động của đứt gẫy tân kiến tạo và hiện đại. 38
2.2. Yếu tố ngoại sinh.40
2.2.1. Dao động mực nước biển trong Holocen. 40
2.2.2. Chế độ khí hậu . 42
2.2.3. Chế độ dòng chảy sông và dòng bùn cát . 44
2.2.4. Sóng, triều và dòng chảy ven bờ. 49
2.2.5. Nước biển dâng hiện đại do biến đổi khí hậu . 55
2.3. Yếu tố nhân sinh.58
2.3.1. Xây dựng các công trình hồ chứa, đê, kè, đập, cống thoát nước . 58
140 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 17/02/2022 | Lượt xem: 415 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đặc điểm biến động địa hình các vùng cửa sông ven biển bắc trung bộ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đông. Từ Bắc xuống Nam của
khu vực nghiên cứu (từ VCSVB sông Mã đến sông Hương), hướng dòng chảy thay
đổi theo hình thế đường bờ và có hướng thay đổi từ Tây Nam đến Nam, Nam Đông
Nam. Tốc độ dòng ven bờ trung bình 20 - 25 cm/s. Như vậy, lượng xuất chuyển bùn
cát dọc bờ và đạt giá trị 3,5 triệu m3/năm (Bảng 2.7)
Bảng 2.7. Lượng xuất chuyển bồi tích do sóng dọc bờ tại trạm Cồn Cỏ
Hướng sóng Lượng xuất chuyển (m3/năm) Cộng tròn (m3/năm)
Tây bắc 298 996
2012.103
Bắc, tây bắc 26 675
Bắc 1 600 015
Bắc, đông bắc 67 174
Đông bắc 19 085
Đông bắc - 645 054
-1490.103
Bắc, đông bắc - 64 065
Đông - 756 719
Đông, đông nam - 23 013
Đông nam - 1 414
Tổng 3 502 210 522.103
Nguồn:[94]
53
2.2.4.2. Vai trò của sóng, triều và dòng ven bờ
Sóng là động lực chính gây nên sự biến động đường bờ. Dưới tác động của
sóng và dòng chảy sóng, bùn cát vùng ven bờ luôn được vận chuyển và phân phối
lại. Quá trình đó diễn ra không phải giống nhau trên tất cả các vị trí của đường bờ
biển mà tùy thuộc vào hình thái và địa hình của mỗi đoạn bờ biển. Những hiện
tượng đột biến bất thường xảy ra như bão và áp thấp nhiệt đới, làm cho năng lượng
của sóng tập trung vào một điểm cụ thể nào đó dẫn đến những thiệt hại nghiêm
trọng cho con người, nếu như không có biện pháp phòng chống thích hợp, giảm
thiểu thiệt hại kịp thời. Do hướng gió thay đổi theo mùa, nên quá trình biến động
địa hình ở các VCSVB Bắc Trung Bộ mang tính chất mùa khá điển hình. Hướng
sóng chính vào mùa đông ở các VCSVB sông Mã, Thạch Hãn và sông Hương, sóng
có tần suất và độ cao lớn, có hướng vuông góc với đường bờ, nên đường bờ biển bị
tác động khá mạnh mẽ, gây mài mòn, xói lở bờ biển. Khi mực nước dâng cao như
VCSVB sông Mã, sóng vỗ được vào lớp đất cao hơn của bờ biển, đê biển (thường
là lớp đất kém bền vững hơn các lớp thấp hơn), do vậy dễ gây xói lở hơn.
Thuỷ triều có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các VCSVB Bắc
Trung Bộ. Chế độ thuỷ văn vùng hạ du của các sông, nhất là trong mùa kiệt, chế độ
dòng chảy sông và dòng bùn cát đều bị chi phối bởi thủy triều. Tại VCSVB sông
Mã, chế độ triều là nhật triều không đều có độ cao 1,58 - 3,19 m. Như vậy, ở
VCSVB sông Mã tác động của dòng triều vào các dạng địa hinh là khá lớn, đôi khi
mực triều lớn nhất đo được ở Hoàng Tân lên tới 3,2 m và chân triều thấp nhất là -
1,81m. Sự chênh lệch này gây biến động khá mạnh tới đường bờ biến trong khu
vực. Trái lại, đối với khu vực ven biển sông Thạch Hãn và sông Hương dòng triều
có biên độ triều nhỏ, trung bình 0,5 m đã đóng vai trò không lớn trong hoạt động
làm thay đổi địa hình trong khu vực. Đặc biệt vào mùa lũ, dòng triều hầu như không
có khả năng ngăn cản dòng nước lũ từ thượng nguồn đổ về. Vào mùa kiệt, dòng
triều là yếu tố quy định chế độ dòng chảy ở cửa sông, song với trị số tốc độ không
lớn, làm khả năng di chuyển bùn cát, vật chất trao đổi giữa biển và cửa sông lại xảy
ra ở mức độ yếu.
Ở các VCSVB Bắc Trung Bộ, kết quả của sự tương tác giữa dòng triều và
dòng sông hình thành dòng chảy tổng hợp. Trong những ngày có lũ lớn, tốc độ dòng
54
chảy lũ triệt tiêu dòng triều, trong chu kỳ ngày đêm hầu như chỉ xuất hiện một
hướng chảy ra biển, mặc dù dao động mực nước triều vẫn diễn ra khá mạnh ở cửa
sông. Nước triều dồn ứ mạnh ở pha triều dâng làm xuất hiện nhiều vùng nước chạy
quẩn giữa hệ thống val, bãi ngầm, giữa các cồn và luồng lạch phụ ở cửa sông đưa
đến hiện tượng lắng đọng trầm tích. Ngược lại, khi triều rút dòng chảy tổng hợp có
tốc độ cao, gây nên hiện tượng xói sâu lòng dẫn ở cửa sông, phá vỡ các bar chắn
cửa sông. Ở khu vực ven bờ ngoài thềm biển nông, dòng tổng hợp là kết quả tương
tác của hầu hết các dòng thành phần, trong đó chủ yếu là dòng sông, dòng triều và
dòng sóng dọc bờ. Sự tương tác giữa chúng, hoặc triệt tiêu dần hoặc cộng hưởng tốc
độ làm cho cả hướng và trị số tốc độ luôn biến đổi phụ thuộc vào chu kỳ dao động
mực nước ngày đêm của thuỷ triều, của mùa gió tác động và chế độ thuỷ văn của
các sông ở Bắc Trung Bộ.
Các dòng ven bờ ở các VCSVB Bắc Trung Bộ có lượng xuất chuyển bùn cát
dọc bờ đạt 3,5 triệu m3/năm. Chính dòng chảy ven bờ đã hình thành các chuyển
động vật chất, tạo địa hình bờ. Do đó, vai trò của dòng ven bờ là rất lớn trong biến
động địa hình ở các VCSVB Bắc Trung Bộ. Chế độ dòng chảy ven bờ do dòng nhật
triều đóng vai trò chủ đạo như ở VCSVB sông Mã. Ở vùng biển nông ngoài đới
sóng vỡ đến độ sâu 20 m ở VCSVB sông Mã, dòng triều có phương ĐB-TN. Tính
chất nhật triều không đều biểu hiện rõ. Đó là vùng có địa hình phức tạp, sóng triều
bị biến dạng và năng lượng phân tán thành các sóng nước nông. Trong mùa cạn
dòng triều rút thường kéo dài từ 12 đến 15h, ngược lại, nước chảy vào sông khi
triều dâng từ 8 đến 11h. Điều đó chứng tỏ rằng, dòng chảy sông trong mùa cạn
không đáng kể, song cũng có ảnh hưởng đẩy sóng triều ra ngoài biển. Trong mùa lũ,
nước từ trong sông đổ ra nhiều, thời gian triều rút lớn hơn nhiều thời gian triều
dâng. Vào những ngày lũ lớn, sóng lũ đã lấn át sóng triều, đẩy sóng triều ra xa. Như
vậy, ở khu vực này dòng triều đóng một vai trò quan trọng trong quá trình động lực
hiện đại. Dòng triều không những chỉ có khả năng đưa các hạt trầm tích lơ lửng đi
xa, mà còn có khả năng bào mòn các bar, val cát ngầm, sườn bờ ngầm. Dòng sóng
ven bờ hình thành trong đới sóng vỡ, năng lượng sóng khi vỡ đã tạo ra dòng chảy.
Trên thực tế dòng chảy sóng xuất hiện gián đoạn và không liên tục giữa các chu kỳ
sóng vỡ. VCSVB sông Mã có địa hình khá bằng phẳng, song lại bị chia cắt nhiều
bởi đê biển và các bar, cồn cát trước cửa sông. Phía ngoài cùng là sườn bờ ngầm
thường xuyên ngập nước, giữa là các bãi triều rộng, phẳng và trong cùng là các cồn
55
cát nổi cao và các đê biển. Khi triều lên từ chân triều thấp đến đỉnh triều cao đã tạo
ra đới sóng vỡ. Tại sườn bờ ngầm, ven các chân đê và sườn bờ các cồn cát do độ
dốc đới bờ lớn, sóng bị phá huỷ trong dải hẹp tạo ra dòng sóng có trị số tốc độ cao.
Dòng chảy trôi do gió thuộc loại dòng chảy ổn định, phụ thuộc chủ yếu vào tốc độ
gió, hướng gió và thời gian tồn tại của hướng gió. Ngoài ra, dòng chảy trôi do gió
còn bị ảnh hưởng rất lớn của địa hình, ở mỗi khu vực khác nhau trị số tốc độ cũng
khác nhau. Các VCSVB Bắc Trung Bộ là vùng biển hàng năm chịu tác động mạnh
của gió mùa Đông Bắc, gió mùa Đông Nam và cũng thường xuyên chịu tác động
của bão, nên dòng trôi do gió ở đây tương đối phát triển. Nhìn chung, trong các
tháng mùa hè, dòng trôi ít phát triển hơn các tháng mùa đông do trường gió Đông
Bắc ổn định hơn trường gió Đông Nam. Mùa đông, dòng trôi do gió có xu thế mạnh
dần từ Bắc vào Nam. Ở VCSVB sông Mã, tốc độ dòng trôi phát triển khá mạnh đã
ảnh hưởng đến sự phát triển của các cồn, bar, val. Trên các VCSVB sông Thạch
Hãn và sông Hương, bờ biển thoáng, bị phá hủy, xói lở vì thiếu hụt phù xa bồi tích.
Đặc biệt, tại VCSVB sông Hương, với đường bờ biển thẳng, thoáng, sông Hương
trước khi đổ ra biển lại đổ vào phá Tam Giang, lượng bồi tích ít, lại đón hầu hết các
hướng sóng tác động mạnh trong mùa đông và mùa hè, nên ở đây bờ biển đang
trong tình trạng xói lở nghiêm trọng.
2.2.5. Nước biển dâng hiện đại do biến đổi khí hậu
2.3.5.1. Đặc điểm của nước biển dâng
Hiện nay, vấn đề biến đổi khí hậu và nước biển dâng được trú trọng quan
tâm không chỉ ở nước ta mà còn trên toàn thế giới. Nước biển dâng đã trở thành một
yếu tố rất nhạy cảm, tác động trực tiếp đến đời sống của con người. Chính vì vậy,
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng các kịch bản về nước biển dâng ở nước
ta (Bảng 2.8, 2.9).
Bảng 2.8. Xu thế biến đổi mực nước biển trung bình
(Đơn vị: mm/năm)
Tên trạm Thời gian
quan trắc
Xu thế
biến đổi
Chỉ số
kiểm
nghiệm
Đánh giá
Sầm Sơn 1998 - 2014 3,65 0,80 Tăng
Hòn Ngư 1961 - 2014 -5,77 0,71 Giảm
Cồn Cỏ 1981 - 2014 0,61 0,11 Không rõ xu thế
Sơn Trà 1978 - 2014 2,89 0,70 Tăng
Nguồn:[95]
56
Thực tế ở nước ta hiện nay, số liệu mực nước quan trắc tại các trạm Hải văn
ven biển Việt Nam cho thấy, xu thế biến đổi mực nước biển trung bình năm không
giống nhau. Hầu hết các trạm có xu hướng tăng, tuy nhiên, một số ít trạm lại không
thể hiện rõ xu hướng này. Xu thế biến đổi trung bình của mực nước biển dọc bờ
biển Việt Nam là khoảng 2,8 mm/năm. Số liệu mực nước đo đạc từ vệ tinh từ năm
1993 2010 cho thấy, xu thế tăng mực nước biển trên toàn Biển Đông là 4,7
mm/năm, phía đông của Biển Đông có xu thế tăng nhanh hơn phía Tây. Chỉ tính
cho dải ven bờ Việt Nam, ven biển Trung Trung Bộ và Tây Nam Bộ có xu hướng
tăng mạnh hơn, trung bình cho toàn dải ven biển Việt Nam tăng khoảng 2,9
mm/năm [95]. Điều đó chứng tỏ nước biển đang dâng lên, tiến vào đất liền trên suốt
dọc bờ biển của nước ta, dẫn đến nhiều đoạn bờ bị chìm ngập dưới mực nước biển
và năng lượng sóng truyền vào bờ cũng được tăng lên, kết quả là mức độ xói lở bờ
tăng lên. Theo số liệu quan trắc tại các trạm (Bảng 2.9) cho thấy, VCSVB sông Mã
đang chịu tác động mạnh của quá trình nước biển dâng, với biên độ 3,65 mm/năm.
Đặc biệt, theo kịch bản tính toán nước biển dâng trong tương lai thì mực nước biển
của các VCSVB Bắc Trung Bọ sẽ tăng trung bình là 13 cm vào năm 2030. Một số
nghiên cứu gần đây cho rằng, mực nước biển toàn cầu có thể tăng 50140 cm vào
năm 2100. Theo kịch bản Biến đổi khí hậu, Nước biển dâng ở Việt Nam của Bộ
Tài nguyên và Môi trường xây dựng năm 2012 cho thấy, vào cuối thế kỷ XXI,
Trung bình toàn Việt Nam, nước biển dâng trong khoảng từ 57 73 cm [11].
Bảng 2.9. Mực nước biển dâng theo kịch bản
(Đơn vị: cm)
Khu vực Các mốc thời gian của thế kỷ 21
2030 2040 2050 2060 2070 2080 2090 2100
Hòn Dáu-Đèo
Ngang
13
(8 ÷
19)
17
(10 ÷
25)
21
(13 ÷
31)
25
(16 ÷
38)
30
(18 ÷
44)
34
(21 ÷
51)
39
(24 ÷
58)
44
(27 ÷
65)
Đèo Ngang-Đèo
Hải Vân
13
(8 ÷
19)
17
(11 ÷
25)
21
(13 ÷
31)
26
(16 ÷
38)
30
(19 ÷
44)
35
(22 ÷
51)
40
(25 ÷
58)
44
(28 ÷
65)
Nguồn: [95]
Ngoài ra, trên các VCSVB Bắc Trung Bộ còn xuất hiện nước biển dâng do
bão. Theo thống kê, tính từ năm 1960 đến 2013 ở khu vực này có tất cả 83 cơn bão
57
có ảnh hưởng trực tiếp hoặc đổ bộ vào. Tính trung bình ở khu vực Bắc Trung Bộ có
1,5 cơn bão/năm. Hoạt động của bão diễn ra theo quy luật mùa. Mùa bão sớm nhất
bắt đầu từ tháng V và kéo dài đến tháng XI. Bão tập trung chủ yếu trong 2 tháng
(tháng IX và tháng X), nhiều nhất vào tháng IX (0,6 cơn/năm, chiếm 37%), tháng X
(0,4 cơn/năm, chiếm 28%). Đặc biệt, Trong tổng số 83 cơn bão, bão thường (cấp 8,
9) chiếm tỷ lệ lớn nhất 35% (29 cơn), rồi đến bão mạnh 34% (28 cơn), bão rất mạnh
18% (15 cơn) và nhỏ nhất là áp thấp nhiệt đới 11 cơn (13%). Trong bão, tốc độ gió
trung bình tăng và dẫn đến tăng độ cao của sóng, cuối cùng năng lượng sóng tác
động tới bờ biển tăng lên. Tốc độ gió trong bão từ 17,2 32,7 m/s sẽ gây sóng lớn
với độ cao từ 3,5 8,5 m. Gió trong bão còn gây nước dâng, làm cho tác động của
sóng và dòng chảy ven bờ vào bờ biển càng mãnh liệt hơn (Bảng 2.10).
Bảng 2.10. Nước dâng do bão ở các VCSVB Bắc Trung Bộ
Khu vực ven biển
Nước dâng do bão
cao nhất đã xảy ra
(cm)
Nước dâng do bão
cao nhất có thể xảy ra
(cm)
Quảng Ninh - Thanh Hóa 350 490
Nghệ An -Hà Tĩnh 440 500
Quảng Bình - Thừa Thiên Huế 390 420
Nguồn: [95]
2.2.5.1. Vai trò của nước biển dâng
Yếu tố nước biển dâng có vai trò lớn, tác động trực tiếp đến biến động địa
đại hình các VCSVB Bắc Trung Bộ, cả phần lục địa phía trong sông và toàn bộ dải
bờ biển phía ngoài sông. Quá trình dâng lên của mực nước biển đã thúc đẩy quá
trình phá huỷ, xói lở bờ biển, bờ sông và ngập lụt lâu dài của vùng hạ lưu các con
sông. Theo các Kịch bản Nước biển dâng: nếu nước biển dâng 1 m, sẽ có khoảng
trên 2,5% diện tích thuộc các tỉnh ven biển miền Trung có nguy cơ bị ngập; gần 9%
dân số các tỉnh ven biển miền Trung bị ảnh hưởng trực tiếp [95]. Nước biển dâng do
bão có ảnh hưởng lớn tới địa hình vùng cửa sông ven biển, đặc biệt tới đường bờ
biển và các cửa sông ở các VCSVB Bắc Trung Bộ. Các VCSVB sông Thạch Hãn
và sông Hương bị gánh chịu hậu quả của nước biển dâng lớn hơn nhiều so với
VCSVB sông Mã. Hậu quả của nó sẽ làm cho hệ sinh thái ven biển bị phá huỷ,
nhiều công trình ven biển như đê, đập, cầu cảng, khu du lịch, v.v bị tàn phá. Tốc độ
58
vận chuyển bùn cát sẽ tăng, có thể gây bồi lấp các cửa sông đang ở trạng thái ổn
định và chắn các cửa ra vào của các cảng biển. Bão còn đi kèm với mưa lớn, gây
ngập lụt, phá hủy các dạng địa hình trong sông và ven bờ sông như ở VCSVB sông
Hương. Nước biển dâng còn làm chậm quá trình tiến ra phía biển của các VCSVB
sông Mã.
2.3. Yếu tố nhân sinh
Các VCSVB Bắc Trung Bộ là nơi tập trung dân cư sinh sống, đồng thời
những hoạt động KT-XH của con người ngày càng phát triển đã ảnh hưởng trực tiếp
đến biến động môi trường tự nhiên nơi đây. Các tác động này có thể trực tiếp hoặc
gián tiếp ảnh hưởng đến sự biến động địa hình các VCSVB Bắc Trung Bộ; trong đó
phải kể đến là: hoạt động phát triển các khu tập trung dân cư, khu kinh tế, xây dựng
đô thị, các công trình kinh tế dân sinh; hoạt động xây dựng các công trình hồ chứa,
đê, đập, quai đê lấn biển; hoạt động nuôi trồng, thủy, hải sản, khai hoang mở rộng
đất đai sản xuất; hoạt động khai thác khoáng sản, vật liệu xây dựng, v.v.
2.3.1. Xây dựng các công trình hồ chứa, đê, kè, đập, cống thoát nước
Trên khu vực Bắc Trung Bộ đã và đang xây dựng hàng nghìn hồ chứa lớn
nhỏ, làm biến động mạnh mẽ trạng thái môi trường tự nhiên, trong đó làm biến
động mạnh mẽ địa hình hiện đại trên bề mặt Trái đất. Việc xây dựng các hồ chứa là
rất cần thiết, phục vụ tích cực cho cuộc sống của con người. Tuy nhiên, chúng cũng
làm cho địa hình hiện đại các VCSVB Bắc Trung Bộ bị biến động mạnh mẽ trong
thời gian gần đây, ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch phát triển KT-XH ở địa
phương. Xây dựng các công trình cảng, cầu cảng, kè nắn dòng vùng gần cửa sông
sẽ làm thay đổi trạng thái cân bằng của dòng sông, dòng chảy sẽ thay đổi cả về lưu
lượng, hướng dòng và dòng bùn cát. Do đó, động lực của dòng chảy cũng thay đổi
đã gây nên nhiều biến động địa hình ở VCSVB. Những biến động địa hình diễn ra
theo mùa rõ rệt. Vào mùa cạn, lưu lượng dòng chảy và lượng bùn cát giảm rất nhiều
do tích tụ lại ở thượng nguồn và trong các hồ chứa, làm cho diễn biến ở cửa sông,
bờ biển trở nên phức tạp. Tại các VCSVB, dòng triều chiếm ưu thế thúc đẩy quá
trình xói lở bờ sông, bờ biển.
Trên lưu vực sông Mã đã xây dựng hàng trăm hồ chứa, trong đó có hồ thủy
điện Cửa Đạt chứa hàng trăm triệu khối nước. Ở VCSVB sông Mã, lượng bùn cát
giảm đi rất nhiều khi hệ thống hồ chưa đi vào vận hành (Bảng 2.11). Động năng
dòng dẫn giảm rõ rệt, lòng dẫn bị bồi lấp, ảnh hưởng mạnh tới các hoạt động giao
thông thủy trên dòng sông Mã, thúc đẩy quá trình xói lở bờ sông phát triển. Một số
59
công trình thủy lợi sau khi đi vào hoạt động đã làm biến động mạnh mẽ địa hình ở
vùng cửa sông. Hậu quả nghiêm trọng xảy ra khi đập sông Bạng (ở Thanh Hóa) bị
vỡ năm 1978, làm xói lở ở một số xã ven sông, biển, gây mất nhà cửa của trên 200
hộ dân. Trên các lưu vực sông Cả, sông Gianh, sông Hương cũng tồn tại hàng nghìn
hồ chứa, trong đó có nhiều hồ thủy điện lớn như: Bản Vẽ, Phong Điền, Tả Trạch,
v.v. Kể từ khi các hồ đó đi vào hoạt động, phát điện, dòng chảy, dòng bùn cát ở các
VCSVB giảm rõ rệt, thúc đẩy các quá trình xói lở bờ sông Thạch Hãn, sông Hương
phát triển mạnh mẽ. Công trình hồ Đá Mài hoạt động làm xói lở bờ sông ở xã Nhân
Trạch, Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Bảng 2.11. Lượng bùn cát theo mùa, trước và sau khi có hồ trên sông Mã
Thời gian
Giai đoạn trước 2010
(1959-2010)
Giai đoạn sau 2010
(2011-2014)
Cẩm Thủy (tấn) Cẩm Thủy (tấn)
Mùa lũ 3.285.831 4.470.764
Mùa kiệt 177.032 555.713
Tổng năm 3.462.863 5.026.477
Nguồn:[93]
Hệ thống đê sông và đê biển đã được xây dựng, hình thành từ lâu đời và
ngày càng được tu bổ, gia cố cho ổn định lâu dài (Bảng 2.12). Đây là hệ thống công
trình để phòng chống lũ, lụt cho vùng đồng bằng và ven biển, đảm bảo sự bình yên
cho hàng triệu người trong mùa mưa, bão lũ. Hệ thống đê biển, ngoài việc ngăn các
loại sóng biển, thuỷ triều, nước biển dâng và ngăn mặn, còn tạo điều kiện để khai
hoang phát triển vùng đồng bằng ven biển, nuôi trồng, khai thác thủy hải sản. Ở
VCSVB sông Mã, sông Cả, phù sa sông hàng năm bồi đắp cho đồng bằng ngày
càng được mở rộng, tiến ra phía biển. Hệ thống đê đã triệt tiêu khả năng lắng đọng
phù sa ở bãi triều cao.
Bảng 2.12. Chiều dài đê biển và số lượng cống dưới đê
Tỉnh Chiều dài đê biển (km) Số cống dưới đê
Thanh Hóa 94,40 79
Nghệ An 184,00 109
Hà Tĩnh 321,00 158
Quảng Bình 110,00 55
Quảng Trị 93,70 26
Thừa Thiên Huế 162,00 59
Nguồn:[67]
60
2.3.2. Hoạt động nuôi trồng thủy, hải sản, khai hoang lấn biển, khai khoáng và
khai thác cát
Từ lâu, con người đã biết quai đê lấn biển, khai hoang phục hóa, mở mang
đất đai để canh tác, nuôi trồng thủy, hải sản. Hoạt động kinh tế này đã làm biến
động địa hình hiện đại các VCSVB Bắc Trung Bộ. Tính đến nay, diện tích có thể
phát triển nuôi trồng thủy sản toàn vùng Bắc Trung Bộ là 163.896 ha; trong đó, diện
tích nuôi nước ngọt 115.557 ha, mặn lợ 48.339 ha. Nuôi trồng thủy, hải sản mang
lại nguồn lợi kinh tế cao, nhưng chính việc gia tăng diện tích nuôi trồng thủy, hải
sản, chuyển đổi cơ cấu trông lúa sang nuôi trồng ở vùng mặn hóa ven biển, không
những làm biến động địa hình, mà còn làm gia tăng xâm nhập mặn ở VCSVB Bắc
Trung Bộ. Tác động làm suy giảm rừng ngập mặn, phá vỡ sự cân bằng của hệ sinh
thái rừng ngập mặn, đã làm thúc đẩy quá trình xói lở bờ sông, bờ biển ở khu vực
này. Việc khai hoang lấn biển ở VCSVB Bắc Trung Bộ, đặc biệt mạnh mẽ ở
VCSVB sông Mã, sông Cả cũng đã có những tác động không nhỏ đến biến động địa
hình khu vực. Việc quai đê lấn bãi ven sông quá mức đã thu hẹp lòng dẫn tự nhiên
và chiếm dụng vùng đất thấp, gây ra sự mất cân bằng tự nhiên, cân bằng cán cân
bùn cát - phù sa. Ví dụ như ở VCSVB sông Mã, nhiều đoạn bờ biển sau khi có đê
đã bị xói lở khá nghiêm trọng.
Trên các VCSVB Bắc Trung Bộ phân bố các mỏ khoáng sản có ý nghĩa kinh
tế như: các mỏ titan, sắt, vàng, v.v. Trong đó, phải kể đến là các mỏ titan có trữ
lượng lớn như ở Thừa Thiên Huế (4709451 tấn), Quảng Trị (587000 tấn), Quảng
Xương, Thanh Hóa (80198 tấn), Cửa Nhượng thuộc tỉnh Hà Tĩnh và Cửa Gianh
(23.688.000 tấn). Ngoài ra, nguồn bồi tích (cát, sạn, sét, v.v) trên các sông ở Bắc
Trung Bộ đã cung cấp nguồn vật liệu xây dựng lớn cho xây dựng các công trình ở
khu vực này. Trong quá trình khai thác sa khoáng inmenit ở dải cồn cát ven biển, bề
mặt địa hình các cồn cát và trật tự địa tầng của các lớp cát hoàn toàn bị xáo trộn và
thay đổi lớn so với ban đầu. Bề mặt địa hình đã bị biến động mạnh mẽ với sự hình
thành (những hố, hào, trũng có kích thước lớn, sâu 5 - 10m, hoặc 20m và những đụn
cát mới có độ cao tới 6 - 10m so với mặt bằng xung quanh, cấu thành từ những vật
liệu cát tơi xốp, luôn di động do gió. Mặt khác, việc khai thác khoáng sản đã phá
hủy rừng phòng hộ, làm cho tác động của biển vào đất liền càng mạnh mẽ hơn, địa
61
hình bề mặt càng bị biến động mạnh mẽ hơn, quá trình xói lở bờ phát triển.
Hoạt động khai thác cát, vật liệu xây dựng trên các sông Mã, Cả, Gianh,
Thạch Hãn, Hương, v.v chủ yếu vẫn sử dụng để làm vật liệu xây dựng đối với cát
thô và cát mịn sạch, đối với cát có nhiều thành phần tạp chất (bụi, sét) chủ yếu được
sử dụng để san lấp nền. Mức độ đô thị hóa ngày càng tăng cao, yêu cầu của phát
triển hạ tầng cơ sở, nên nhu cầu về lượng vật liệu xây dựng ngày càng lớn; trong khi
lượng phù sa ở các dòng sông bị giảm đi do việc xây dựng khá nhiều hồ chứa trên
lưu vực các sông. Hiện nay, việc khai thác cát thiếu quy hoạch đã gây thay đổi cán
cân bồi tích ở lòng sông và cửa sông, dẫn đến sự biến động lớn về lòng dẫn của
sông, hai bên bờ sông và ở cửa sông. Do dòng chảy thiếu hụt lượng bồi tích đã làm
thúc đẩy quá trình xói lở bờ, xâm thực lòng sông.
2.3.3. Hoạt động xây dựng các khu tập trung dân cư, khu kinh tế.
Các VCSVB Bắc Trung Bộ là nơi tập trung dân cư, phát triển các đô thị,
thành phố và các khu kinh tế. Bởi lẽ, nơi đây là nơi có nhiều điều kiện tự nhiên
thuận lợi cho cuộc sống của con người, cho phát triển KT-XH ở mỗi địa phương.
Theo thống kê, hàng năm dân số ở khu vực tăng lên theo cả 2 hướng tự nhiên và cơ
học (Bảng 2.13). Mật độ dân số tăng cao, đặc biệt nhanh như ở các huyện ven biển
tỉnh Quảng Trị (1137 người/km2), gây sức ép to lớn, ảnh hưởng nhiều đến đời sống,
kinh tế cũng như môi trường ở VCSVB.
Bảng 2.13. Dân số và mật độ dân số các tỉnh ven biển Bắc Trung Bộ
Tỉnh Dân số (nghìn người) Mật độ dân số (người/km2)
Thanh Hóa 3496,1 314
Quảng Trị 616,4 130
Thừa Thiên Huế 1131,8 225
Nguồn [13]
Địa hình bị biến động mạnh mẽ do sức ép về xây dựng các công trình an sinh
xã hội (trường học, bệnh viện, trụ sở hành chính, v.v), các khu tập trung dân cư, v.v.
Các thành phố Thanh Hóa và Sầm Sơn trên VCSVB sông Mã mở rộng về phía biển,
mở rộng xây dựng các công trình giao thông, khu dân cư, các công trình an sinh xã
hội đã làm cho địa hình hiện đại bị biến động mạnh mẽ. Trên các VCSVB sông
Thạch Hãn và sông Hương cũng vậy.
62
2.4. Tiểu kết chương
Địa hình ở các VCSVB Bắc Trung Bộ được hình thành, phát triển và biến
động bởi tác động của các yếu tố nội, ngoại và nhân sinh. Trong đó, các yếu tố nội
sinh phải kể đến là cấu trúc tân kiến tạo và hoạt động phá hủy đứt gẫy; các yếu tố
ngoại sinh bao gồm: chế độ dòng chảy, dòng bùn cát, sóng, triều, dòng ven bờ và
nước biển dâng; yếu tố nhân sinh phải kể đến là xây dựng các công trình hồ chứa,
đê, đập, kè, hoạt động nuôi trồng thủy, hải sản và khai hoang lấn biển, hoạt động
khai thác khoáng sản và xây dựng các khu tập trung dân cư và khu kinh tế.
Vai trò của mỗi yếu tố trong hình thành, phát triển và biến động địa hình mỗi
VCSVB Bắc Trung Bộ cũng khác nhau theo không gian và thời gian. VCSVB sông
Mã nằm ở đầu mút đông nam của các đới đứt gẫy phương TB-ĐN Sông Cả, vai trò
của yếu tố nội sinh đóng vai trò quan trọng, khống chế sự hình thành, phát triển
cũng như cấu trúc địa hình bề mặt Trái đất. Đồng thời, vai trò của các yếu tố do
sông, sông - biển chiếm ưu thế trong hình thành địa hình có nguồn gốc sông, sông -
biển phân bố rộng rãi ở VCSVB sông Mã. Trong khi các VCSVB sông Thạch Hãn
và sông Hương lại nằm trong cấu trúc hạ lún Quảng Trị - Huế phương TB-ĐN, song
song với bờ biển hiện đại, nên vai trò của yếu tố kiến tạo cũng đóng vai trò khống
chế sự hình thành và phát triển địa hình. Yếu tố biển, sông - biển nổi trội hơn trong
hình thành kiểu địa hình nguồn gốc biển, sông – biển phân bố rộng rãi ở các
VCSVB sông Thạch Hãn và sông Hương.
Các quá trình địa mạo động lực (xói lở, bồi tụ) ở các VCSVB Bắc Trung Bộ
chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố nội sinh (chuyển động hiện đại vỏ Trái Đất,
hoạt động phá hủy đứt gẫy tích cực, v.v), ngoại sinh (động lực dòng chảy, dòng bùn
cát, dòng ven bờ, sóng, triều, v.v) và nhân sinh (hoạt động kinh tế của con người).
Hoạt động tích cực của các đới đứt gẫy và chuyển động hạ lún cục bộ là một trong
những yếu tố chủ đạo phát sinh xói lở các VCSVB Bắc Trung Bộ. Phần lớn các
điểm xói lở đều phân bố tại những nơi có đới đứt gẫy hoạt động cắt qua: xã Hải Lộc
- Hậu Lộc, Hải Thịnh - Tĩnh Gia, Diễn Hải, Diễn Kim, Diễn Thịnh - Diễn Châ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_dac_diem_bien_dong_dia_hinh_cac_vung_cua_song_ven_bi.pdf