Luận án Đảng bộ quân đội lãnh đạo công tác tư tưởng từ năm 1986 đến năm 1996

MỤC LỤC

Trang

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 5

Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 10

1.1. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án 10

1.2. Giá trị của các công trình khoa học đã tổng quan và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu 27

Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI VỀ CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG (1986 - 1991) 33

2.1. Những yếu tố tác động đến Đảng bộ Quân đội lãnh đạo công tác tư tưởng 33

2.2. Chủ trương của Đảng bộ Quân đội về công tác tư tưởng 48

2.3. Đảng bộ Quân đội chỉ đạo thực hiện công tác tư tưởng 57

Chương 3 CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ QUÂN ĐỘI VỀ TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC TƯ TƯỞNG (1991 - 1996) 80

3.1. Những yếu tố mới tác động đến Đảng bộ Quân đội lãnh đạo tăng cường công tác tư tưởng 80

3.2. Đảng bộ Quân đội chủ trương tăng cường công tác tư tưởng 94

3.3. Sự chỉ đạo của Đảng bộ Quân đội tăng cường công tác tư tưởng 100

Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 123

4.1. Nhận xét quá trình Đảng bộ Quân đội lãnh đạo công tác tư tưởng (1986 - 1996) 123

4.2. Kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ Quân đội lãnh đạo công tác tư tưởng (1986 - 1996) 141

KẾT LUẬN 164

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 168

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 169

PHỤ LỤC 193

 

doc199 trang | Chia sẻ: quyettran2 | Ngày: 27/12/2022 | Lượt xem: 287 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảng bộ quân đội lãnh đạo công tác tư tưởng từ năm 1986 đến năm 1996, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mới, trước bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến chuyển mới, nhanh chóng, phức tạp; công cuộc đổi mới thu được những thành quả quan trọng nhưng còn nhiều nguy cơ, thách thức. Từ chủ trương của Đảng, đặt ra yêu cầu khách quan đòi hỏi Đảng bộ Quân đội xác định chủ trương lãnh đạo tăng cường công tác tư tưởng bảo đảm giữ vững trận địa tư tưởng trong Quân đội. Đồng thời, đây là cơ sở quan trọng để Đảng bộ Quân đội quán triệt, vận dụng sáng tạo, đề ra chủ trương lãnh đạo công tác tư tưởng phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. 3.2. Đảng bộ Quân đội chủ trương tăng cường công tác tư tưởng  3.2.1. Phương hướng, mục tiêu 3.2.1.1. Phương hướng Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ V (4-1991) khẳng định phương hướng công tác tư tưởng trong Quân đội: Tăng cường sự lãnh đạo vững chắc của Đảng, xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, trong sạch về tổ chức, thắt chặt quan hệ máu thịt với nhân dân, thực sự cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, kiên định mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, kiên định công cuộc đổi mới, luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, của Tổ quốc và Nhân dân, kiên quyết bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần giữ vững ổn định chính trị để xây dựng và phát triển đất nước, thực hiện thắng lợi cương lĩnh và chiến lược kinh tế - xã hội của Đảng trong mọi tình huống [38, tr.460]. Phương hướng trên có sự thống nhất cao với phương hướng, tư tưởng chỉ đạo công tác tư tưởng được xác định trong Nghị quyết số 01-NQ/ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương Về triển khai nhiệm vụ quốc phòng 5 năm (1991 -1995) với những nội dung cốt lõi là: Thứ nhất, “phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, khắc phục tư tưởng ỷ lại, bi quan, dao động; nắm chắc âm mưu và hành động của các lực lượng phản động trong nước và ngoài nước, cùng với toàn dân ngăn ngừa và kịp tời đập tan mọi hoạt động phá hoại” [80, tr.20]. Thứ hai, “nâng cao trình độ giác ngộ về chủ nghĩa xã hội, tinh thần cảnh giác cách mạng, ý chí chiến đấu, tinh thần tự lực, tự cường, ý thức tổ chức và kỷ luật của cán bộ, đảng viên và bộ đội” [80, tr.21]. Công tác tư tưởng góp phần bảo đảm cho quân đội vững mạnh về chính trị trong mọi tình huống, là một lực lượng trung kiên của Đảng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần đắc lực xây dựng chủ nghĩa xã hội và kiên trì làm tốt nghĩa vụ quốc tế trong tình hình mới. Hội nghị đại biểu Đảng bộ Quân đội giữa nhiệm kỳ (3-1994) tiếp tục khẳng định: Công tác tư tưởng hướng vào thực hiện “xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó” [40, tr.558]. 3.2.1.2. Mục tiêu Mục tiêu chung Công tác tư tưởng góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; củng cố và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội, bảo đảm Đảng luôn nắm chắc quân đội trong mọi tình huống. Góp phần trực tiếp “bảo đảm Quân đội luôn luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng của nhân dân; hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh chính trị trong mọi tình huống mà cấp bách trước mắt là chống âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch”[38, tr.461]. Mục tiêu cụ thể Một là, bồi dưỡng lập trường quan điểm giai cấp công nhân, nâng cao tinh thần yêu nước và bản lĩnh chính trị cho bộ đội, quán triệt và củng cố sự nhất trí đối với Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng, kiên định mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, củng cố lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, vào sự nghiệp đổi mới, tích cực thực hiện cương lĩnh chính trị của Đảng. Hai là, nâng cao cảnh giác và kiên quyết đấu tranh với những quan điểm sai trái, phản động, cơ hội trọng điểm là những quan điểm về “đa nguyên”, “đa đảng”, dân chủ không giới hạn, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ định sự lãnh đạo của Đảng và thành quả cách mạng [84, tr.8]. Ba là, ngăn ngừa, đập tan âm mưu và hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của kẻ thù nhằm xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta và sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống phức tạp khác có thể xảy ra [84, tr.8]. 3.2.2. Nhiệm vụ và giải pháp Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị. Công tác giáo dục chính trị, tiếp tục quán triệt, thực hiện các quan điểm tư tưởng của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết số 01-NQ/ĐUQSTW ngày 10-01-1991 của Đảng ủy Quân sự Trung ương Về triển khai nhiệm vụ quốc phòng 5 năm (1991 - 1995). Tập trung quán triệt và thực hiện nghiêm phương hướng chỉ đạo: Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “vững mạnh về chính trị, nâng cao trình độ giác ngộ về chủ nghĩa xã hội, tinh thần cảnh giác cách mạng, ý chí chiến đấu, tinh thần tự lực, tự cường, ý thức tổ chức và kỷ luật của cán bộ, chiến sĩ” [80, tr.27]. Trong giáo dục chính trị: “Thực hiện đổi mới một cách cơ bản nội dung, chương trình giáo dục chính trị tại trường và tại chức” [81, tr.24]. Bảo đảm quân đội vững mạnh về chính trị trong mọi tình huống, là một lực lượng trung kiên của Đảng, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần đắc lực xây dựng chủ nghĩa xã hội và kiên trì làm tốt nghĩa vụ quốc tế trong tình hình mới. Nghị quyết số 79-NQ/ĐUQSTW ngày 27-8-1992 của Đảng ủy Quân sự Trung ương Về việc quán triệt và thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương ba khóa VII về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong Đảng bộ Quân đội xác định: “Tập trung vào việc củng cố vững chắc trận địa tư tưởng của Đảng trong Quân đội, chủ động, nhạy bén tiến công địch trên mặt trận chính trị, tư tưởng, nâng cao trình độ và bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ” [84, tr.10]. Giáo dục chính trị làm cho cán bộ, chiến sĩ kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa và sự nghiệp đổi mới, nhất trí cao đối với đường lối, quan điểm, cương lĩnh, chiến lược cách mạng, củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường. Tích cực khắc phục những biểu hiện giảm sút ý chí và lòng tin, bi quan, dao động, bảo thủ, giáo điều và kiên quyết chống mọi biểu hiện cơ hội, xét lại [84, tr.10]. Nghiên cứu, quán triệt đường lối quan điểm tư tưởng quân sự của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn với tổng kết thực tiễn vận dụng sáng tạo đáp ứng yêu cầu mới về nhiệm vụ quân sự và quốc phòng [84, tr.10]. Coi trọng việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn đáp ứng việc nâng cao năng lực lãnh đạo chính trị tăng cường sức chiến đấu trên mặt trận tư tưởng của các tổ chức Đảng trong tình hình mới. Quán triệt và triển khai các nghị quyết Bộ Chính trị về khoa học và công nghệ và về công tác lý luận, khắc phục sự yếu kém, chậm trễ trên lĩnh vực này [84, tr.11]. Nâng cao trình độ chính trị, bồi dưỡng kiến thức về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội, pháp luật Tích cực đổi mới nâng cao chất lượng chương trình, nội dung và phương pháp giáo dục chính trị trong hệ thống học viện, nhà trường và đơn vị. Hai là, tăng cường công tác tuyên truyền, cổ động, thi đua. Tổ chức quán triệt, thực hiện nghiêm Nghị quyết số 174-BC/ĐUQSTW ngày 19-11-1991 của Đảng ủy Quân sự Trung ương Về tình hình thực hiện nhiệm vụ quốc phòng năm 1991 và phương hướng nhiệm vụ quốc phòng năm 1992: “Tăng cường công tác thông tin kịp thời góp phần định hướng tư tưởng cho bộ đội Hết sức coi trọng bồi dưỡng và phát huy bản chất truyền thống tốt đẹp của quân đội, phẩm chất, đạo đức và lối sống cách mạng. Phát huy nhân tố tích cực, khắc phục tiêu cực trong nội bộ, tích cực góp phần chống tiêu cực và tệ nạn xã hội” [81, tr.24]. Trong các hoạt động tuyên truyền cần quán triệt sâu sắc nội dung Nghị quyết số 79-NQ/ĐUQSTW ngày 27-8-1992 của Đảng ủy Quân sự Trung ương đã chỉ ra: Tăng cường công tác thông tin cả thông tin nội bộ và đại chúng với định hướng đúng, sát với từng cấp, từng ngành. Chú trọng nghiên cứu và xử lý tư tưởng từ dưới lên. Dành ngân sách đáp ứng đủ tiêu chuẩn sách, báo và phương tiện “nghe nhìn” để chuyển nhanh thông tin đến đông đảo quần chúng ở cơ sở đặc biệt là bộ đội làm nhiệm vụ ở các vùng xung yếu, hải đảo, vùng xa xôi, hẻo lánh. Giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ nhận rõ đối tượng cách mạng, đối tượng tác chiến trực tiếp cụ thể, âm mưu thủ đoạn chống phá cách mạng của các thế lực thù địch, những nhân tố có thể gây mất ổn định về chính trị, cảnh giác rất cao chủ động phòng ngừa và sẵn sàng đối phó thắng lợi với những tình huống có thể xảy ra, nhất trí và quyết tâm thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ trong tình hình mới [84, tr.10]. Giáo dục, rèn luyện đạo đức, lối sống cách mạng, truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” cho tất cả các lứa, lớp cán bộ, đảng viên, nâng cao ý thức làm chủ, tự giác của mọi người, trong mọi hoàn cảnh. Đấu tranh và khắc phục những hành động thoái hóa, thực dụng, tự do vô kỷ luật [84, tr.12] Ba là, tăng cường công tác văn hóa văn nghệ. Nghị quyết số 79-NQ/ĐUQSTW ngày 27-8-1992 của Đảng ủy Quân sự Trung ương nêu rõ: “Tăng cường lãnh đạo quản lý, nâng cao chất lượng về công tác văn hóa nghệ thuật (cả chuyên nghiệp và quần chúng)” [84, tr.11]. Công tác văn hoá văn nghệ cần: “Kiện toàn đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa nghệ thuật, từng bước đổi mới trang bị kỹ thuật của ngành văn hóa, văn nghệ” [84, tr.12]. Trong chỉ đạo và tổ chức thực hiện các hoạt động văn hoá, văn nghệ cần thực hiện tốt các nội dung: Thứ nhất, “khắc phục mọi khó khăn bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần bộ đội” [84, tr.21]. Tổ chức hoạt động nghệ thuật quần chúng và hoạt động của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp, Trường Văn hóa nghệ thuật quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tăng cường phối hợp, giao lưu văn hóa, văn nghệ với địa phương khu vực đóng quân vừa thường xuyên, vừa tập trung các dịp có ngày lễ kỷ niệm lớn của đất nước, quân đội, đơn vị; làm chuyển biến cơ bản, nâng cao chất lượng và hiệu quả phục vụ của các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp xứng đáng là những đơn vị của “binh chủng chiến đấu” trên mặt trận văn hóa, văn nghệ. Thứ hai, đẩy mạnh các phong trào, các cuộc vận động: “Xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú”, “Sáng tác các tác phẩm về đề tài chiến tranh cách mạng và lực lượng vũ trang” trong toàn quân. Cùng với các cuộc vận động khác, cuộc vận động được Đảng ủy Quân sự Trung ương xác định là một trong những nội dung quan trọng của nhiệm vụ xây dựng Quân đội. Thứ ba, đổi mới một cách cơ bản hoạt động của hệ thống phòng Hồ Chí Minh; hệ thống bảo tàng, nhà truyền thống trong Quân đội Đổi mới tổ chức, nội dung, quy chế và phương thức hoạt động của phòng Hồ Chí Minh ở cấp tiểu đoàn và tương đương với tổng số 1400 phòng Hồ Chí Minh để phòng Hồ Chí Minh trở thành trung tâm hoạt động tinh thần, văn hóa của đơn vị cơ sở. Làm chuyển biến mạnh mẽ hoạt động của hệ thống bảo tàng, nhà truyền thống trong Quân đội; điện ảnh quân đội, tạp chí văn hóa nghệ thuật quân đội. Bốn là, tăng cường công tác báo chí, xuất bản Nghị quyết số 79-NQ/ĐUQSTW ngày 27-8-1992 của Đảng ủy Quân sự Trung ương: “Tăng cường lãnh đạo quản lý, nâng cao chất lượng về công tác báo chí, xuất bản” [84, tr.11]. Cấp ủy và chỉ huy các cấp và cơ quan có thẩm quyền: Tiếp tục rà soát để sắp xếp, điều chỉnh hệ thống báo chí, xuất bản in trong quân đội; “coi trọng lãnh đạo giáo dục nâng cao nhận thức tư tưởng, trách nhiệm chính trị, phẩm chất đạo đức, phương pháp tác phong công tác cho mọi cán bộ, đảng viên, nhân viên hoạt động trong ngành báo chí, xuất bản, in và phát hành” [84, tr.11], làm cho mọi người nhận rõ vị trí đặc biệt quan trọng của báo chí. Thứ nhất, tập trung chỉ đạo, đầu tư để nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động các cơ quan tạp chí, báo in, báo hình, phát thanh, nhà xuất bản. Thứ hai, Bộ Quốc phòng phối hợp với Bộ Văn hóa Thông tin và Thể thao, tăng cường các biện pháp tổ chức quản lý và kiểm tra công tác xuất bản, in, phát hành sách, báo, tạp chí. Thứ ba, Tổng cục Chính trị phối hợp với Bộ Tổng Tham mưu nghiên cứu, ban hành các quy chế, quy định nhằm quản lý chặt chẽ công tác báo chí, xuất bản, in, phát hành văn hóa phẩm trong Quân đội nhân dân Việt Nam. 3.3. Sự chỉ đạo của Đảng bộ Quân đội tăng cường công tác tư tưởng 3.3.1. Chỉ đạo tăng cường công tác giáo dục chính trị Một là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tại đơn vị. Sự nghiệp củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang bảo vệ Tổ quốc đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng và điều hành của Nhà nước. Thực hiện chủ trương của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Tổng Tham mưu ra Chỉ lệnh số 70-CL/TM, ngày 15-01-1991 về việc chấn chỉnh, kiện toàn lực lượng 5 năm (1991 - 1995), đã nêu rõ từ năm 1991 đến năm 1995 chủ yếu điều chỉnh lực lượng từ phía Bắc vào phía Nam phù hợp với thế bố trí của kế hoạch tác chiến chiến lược, đáp ứng yêu cầu và ứng phó được các tình huống xảy ra. Về mặt tổ chức giữ ổn định, không gây xáo trộn lớn, từng bước nâng cao chất lượng của các tổ chức đã được xác định trong kế hoạch (cả thời bình và thời chiến); tập trung nâng cao chất lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương, bảo đảm quân số và trang bị đồng bộ. Như vậy, công tác tư tưởng phải tập trung giáo dục làm tốt công tác giáo dục, tuyên truyền làm cho các đối tượng hiểu rõ chủ trương, đường lối của Đảng; mục đích, nhiệm vụ, nâng cao trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ. Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng 1991 - 1995 và các chủ trương công tác lớn năm 1991 và chỉ lệnh huấn luyện chiến đấu của Tổng Tham mưu trưởng, ngày 12-3-1991 Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 69/CT Về công tác đảng, công tác chính trị trong nhiệm vụ huấn luyện chiến đấu, nêu rõ: Tăng cường công tác giáo dục làm cho cán bộ, chiến sĩ nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, nhận rõ âm mưu hành động của kẻ thù; quán triệt đi đến nhất trí cao đối với ba nhiệm vụ cơ bản của quân đội đã được xác định trong Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương và vận dụng vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của đơn vị mình; sẵn sàng đánh thắng mọi kiểu chiến tranh xâm lược và hành động “diễn biến hòa bình” của địch, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa; phát huy tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng quân đội trong công tác huấn luyện và xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt. Thường xuyên giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng cho mọi cán bộ, chiến sĩ; duy trì nghiêm ngặt điều lệnh quản lý bộ đội và các quy định về phòng gian giữ bí mật, quy tắc thao trường, quy tắc sử dụng và bảo quản vũ khí, khí tài trang bị, bảo đảm an toàn tuyệt đối về người, vũ khí trang bị của đơn vị. Khắc phục khó khăn, bảo đảm vật chất cho huấn luyện, khắc phục tình trạng huấn luyện “chay”; tổ chức tốt đời sống cả vật chất và tinh thần cho bộ đội, có biện pháp bố trí thời gian, phương pháp tập luyện cho phù hợp với từng mùa, thời tiết khác nhau. Ngày 01-02-1991, Bộ Quốc phòng ký Quyết định số 45/QĐ-QP Về ban hành Điều lệnh quản lý bộ đội. Điều lệnh quản lý bộ đội mới ban hành gồm 8 chương, 277 điều, 7 phụ lục trên cơ sở kế thừa, bổ sung các điều lệnh đã ban hành, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân đội trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Ngày 14-3-1991, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 78-CT/CT Về tổ chức học tập, quán triệt, thực hiện Điều lệnh quản lý bộ đội theo Quyết định của Bộ Quốc phòng. Chỉ thị nhấn mạnh phương châm chỉ đạo: “Triệt để thực hiện dân chủ quân sự trong quản lý bộ đội, cán bộ lãnh đạo chỉ huy các cấp phải gương mẫu trong học tập và thực hiện để nêu gương tốt cho chiến sĩ” [165, tr.3]. Gắn chặt huấn luyện bộ đội với rèn luyện cán bộ, chiến sĩ tự giác chấp hành điều lệnh, điều lệ, kỷ luật quân đội. Thực hiện Nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, Chỉ thị của Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị ban hành Chỉ thị số 385-CT/CT ngày 28-12-1991 Về đổi mới chương trình nội dung, phương pháp học tập chính trị cho các đối tượng tại đơn vị (1992 - 1995) và chương trình giáo dục chính trị năm 1992. Chỉ thị nêu rõ: “Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng là khâu căn bản trung tâm và là định hướng cho toàn bộ nội dung đổi mới hoạt động của công tác đảng, công tác chính trị” [168, tr.8]. Đổi mới công tác giáo dục chính trị góp phần quyết định việc hình thành tư tưởng tiến bộ, bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức cách mạng cho quân nhân. Chỉ thị nhấn mạnh một số nội dung trọng tâm công tác giáo dục chính trị: Chuẩn bị và tiến hành thật tốt đợt học tập chính trị tập trung cho cán bộ từ cấp trên xuống cấp dưới, trọng điểm là cán bộ chủ trì, cán bộ trung cao cấp, cán bộ ở cơ quan chiến lược, bồi dưỡng một số vấn đề về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm cách mạng và quan điểm quân sự cơ bản trong Nghị quyết Đại hội VII của Đảng và một số vấn đề cần thiết để nâng cao trình độ nhận thức, lập trường, quan điểm chính trị để vận dụng vào nhiệm vụ trong tình hình mới. Tăng cường quán triệt yêu cầu nhiệm vụ chính trị của Quân đội trong tình hình mới, quán triệt và cụ thể hóa quan điểm quân sự của Đảng, trước hết là quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp, quan điểm thực tiễn, quan điểm quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân, quan điểm độc lập tự chủ, tự lực tự cường, cần kiệm xây dựng quân đội, xây dựng đất nước, quan điểm chiến lược con người của Đảng. Tiếp đó, Đảng ủy Quân sự Trung ương ra Chỉ thị số 37-CT/ĐUQSTW ngày 14-3-1993 Về việc đẩy mạnh xây dựng chính quy quân đội nhân dân lên một bước mới. Nội dung Chỉ thị nêu rõ: Cần đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ góp phần nâng cao trình độ chính quy về trang phục, lễ tiết, tác phong quân nhân. Thực hiện có nền nếp quy định Điều lệnh Quản lý bộ đội, chú trọng thực hiện tốt chế độ trong ngày, chế độ sẵn sàng chiến đấu, nhiệm vụ huấn luyện quân sự, công tác giáo dục chính trị, công tác quản lý vũ khí, trang bị, kỹ thuật. Để tiếp tục cụ thể hóa và đẩy mạnh việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VII của Đảng, Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3 và Nghị quyết 79-NQ/ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương, từ ngày 27-3 đến 04-4-1993, Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương đã triệu tập Hội nghị tổ chức toàn quân lần thứ 6. Mục đích nhằm phát huy trách nhiệm và trí tuệ của các cấp bàn biện pháp xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh, làm nòng cốt xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, nâng cao sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ Quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Trên cơ sở đánh giá những ưu điểm, hạn chế của đội ngũ đảng viên trong quân đội, chỉ rõ những nguyên nhân ưu điểm, nguyên nhân hạn chế, nhất là những nguyên nhân thuộc về công tác giáo dục chính trị tư tưởng trong Đảng bộ Quân đội. Xuất phát từ tình hình thực tiễn, Hội nghị xác định phương hướng, mục tiêu và giải pháp đẩy mạnh nâng cao chất lượng đảng viên, xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh. Về công tác giáo dục chính trị, Hội nghị đề ra một số nội dung biện pháp cần tập trung: Tăng cường công tác giáo dục chính trị nhằm góp phần xây dựng các tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh làm nòng cốt nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội, thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống. Nội dung giáo dục chính trị cần quán triệt quan điểm sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, bản chất giai cấp công nhân; vai trò của tổ chức cơ sở đảng và đội ngũ đảng viên trong việc củng cố và phát huy bản chất giai cấp công nhân của quân đội; bảo đảm cho quân đội luôn là chính trị trung thành, tin cậy của Đảng. Tăng cường giáo dục chính trị để quân đội thực hiện tốt chức năng đội quân công tác của Đảng trong tình hình mới; xây dựng quân đội vững mạnh toàn diện, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, khâu trung tâm quan trọng nhất là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng. Các tổ chức đảng trong quân đội, nhất là các tổ chức cơ sở đảng phải xây dựng trong sạch, vững mạnh làm nòng cốt để xây dựng đơn vị vững mạnh mọi mặt, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao. Các cấp ủy nắm chắc vấn đề cốt lõi là bồi dưỡng, củng cố và phát huy bản chất giai cấp công nhân của đảng viên, đề phòng và chống lại sự sa sút, xói mòn về bản chất giai cấp trong bối cảnh và thực tiễn mới. Về chính trị tư tưởng, phải xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho đội ngũ đảng viên trong quân đội: Có niềm tin sắt đá vào mục tiêu, lý tưởng cách mạng, đường lối, quan điểm đổi mới của Đảng; có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, có lối sống trong sạch lành mạnh, nêu gương tốt cho quần chúng; đoàn kết nội bộ vững chắc, đề cao ý thức tổ chức kỷ luật, liên hệ mật thiết với quần chúng trong đơn vị và đoàn kết gắn bó với nhân dân; có tinh thần cảnh giác chính trị cao, luôn dũng cảm đấu tranh bảo vệ lý tưởng, đường lối, quan điểm, nguyên tắc của Đảng. Chống mọi biểu hiện cá nhân cục bộ, quan liêu, quân phiệt, xa rời quần chúng. Đối với tổ chức đảng cấp trên cơ sở: Trước hết cần tăng cường công tác nghiên cứu lý luận, công tác thực tiễn, tăng cường chỉ đạo công tác tư tưởng, giúp cho đảng viên và tổ chức cơ sở, chi bộ đảng củng cố trận địa chính trị - tư tưởng cho chính mình. Từ những nội dung chỉ đạo của Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương, Tổng cục Chính trị, cấp ủy, chỉ huy các cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo tăng cường công tác giáo dục chính trị, góp phần làm chuyển biến về nhận thức tư tưởng và hoạt động thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ huy của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong quân đội và đội ngũ đảng viên, quần chúng. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các cấp ủy, chi bộ được nâng lên nhất là từ giữa năm 1993 trở đi. Ngày 07-02-1994, Tổng cục Chính trị ra Chỉ thị số 86/CT-H Về công tác chính trị đối với nhiệm vụ huấn luyện quân sự. Nội dung chỉ thị nêu rõ: Các cấp lãnh đạo, chỉ huy cần tiếp tục quán triệt Nghị quyết Trung ương 3, nghị quyết của Đảng ủy Quân sự Trung ương, ý định của Bộ Quốc phòng về nhiệm vụ huấn luyện quân sự. Tổ chức quán triệt sâu rộng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhận rõ nhiệm vụ của đơn vị, trách nhiệm của mỗi người, “nâng cao ý chí, quyết tâm, tinh thần tự luyện, tự rèn, tự lực, tự cường và phát huy trí tuệ sáng tạo năng lực hành động; “nắm vững và vận dụng quan điểm, mục tiêu phương pháp và tư tưởng chỉ đạo huấn luyện sát với từng đối tượng” [176, tr.2]. Thực hiện tốt công tác bảo đảm an toàn trong huấn luyện và lãnh đạo tổ chức tốt đời sống vật chất tinh thần của bộ đội trong huấn luyện. Cuối năm 1994, Đảng ủy Quân sự Trung ương chỉ đạo Bộ Quốc phòng tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng từ 1991 đến 1994 và xác định phương hướng, nhiệm vụ trong những năm tới. Về phương hướng nhiệm vụ quốc phòng năm 1995, Bộ Quốc phòng xác định: Tập trung sức xây dựng các lực lượng vũ trang vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Tăng cường công tác dự báo tình hình, theo dõi nắm tình hình các lực lượng thù địch ở trong nước và ở nước ngoài, kịp thời nhận rõ âm mưu, hành động chống phá của kẻ địch. Nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh trên mặt trận tư tương văn hóa, củng cố lập trường, quan điểm, kiên định lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động, tích cực xây dựng địa bàn vững chắc về chính trị. Qua quá trình thực hiện, ngày 20-9-1996, Tổng cục Chính trị tổ chức Hội nghị tổng kết 5 năm đổi mới công tác giáo dục chính trị (1992 - 1996). Hội nghị đánh giá: Công tác giáo dục chính trị tại đơn vị trong 5 năm từ 1992 đến 1996 đã có sự đổi mới về lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý giáo dục chính trị; nội dung, chương trình cho các đối tượng có sự đổi mới, sát với yêu cầu nhiệm vụ, phù hợp với các đối tượng hơn. Hội nghị đã đề ra phương hướng đổi mới giáo dục chính trị trong 5 năm (1996 - 2000). Hai là, đổi mới chương trình, nội dung nâng cao chất lượng giáo dục khoa học xã hội và nhân văn trong các nhà trường. Ngày 10-7-1991, Tổng cục Chính trị ban hành Chương trình liên kết đào tạo sĩ quan phân đội môn khoa học xã hội. Trong đó, quy định nội dung giai đoạn 1 gồm các môn: Lịch sử dân tộc Việt Nam (60 tiết), Lịch sử văn hóa Việt Nam (30 tiết), Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (110 tiết), Lý luận về Nhà nước và pháp luật (60 tiết), Một số vấn đề về Đảng và Quân đội (40 tiết), tổng cộng 300 tiết. Từ năm học 1991 - 1992, chương trình trên được thực hiện thống nhất tại các trường: Sĩ quan Lục quân 1, Sĩ quan Lục quân 2, Sĩ quan Chính trị - quân sự, Sĩ quan Không quân, Sĩ quan Hải quân, Đại học Lê Quý Đôn, Học viện Quân y. Cục Tuyên huấn chịu trách nhiệm tổ chức bồi dưỡng nội dung để các trường thực hiện và giúp Tổng cục Chính trị quản lý thống nhất chương trình này. Giai đoạn 1991 - 1996, Đảng ủy Quân sự Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị đã chỉ đạo đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong lĩnh vực quân sự thời kỳ đổi mới. Trong đó, năm 1992, Bộ Quốc phòng đã nghiệm thu 2 đề tài cấp Bộ Quốc phòng đạt loại khá, đó là các đề tài: “Dân chủ, kỷ luật trong Quân đội nhân dân Việt Nam” và “Xây dựng đội ngũ sĩ quan trẻ Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn c

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan_an_dang_bo_quan_doi_lanh_dao_cong_tac_tu_tuong_tu_nam_1.doc
  • doc1 BÌA LUẬN ÁN - Bui Le Phong.doc
  • doc2 BÌA TÓM TẮT TIẾNG VIỆT - Bui Le Phong.doc
  • doc2 TÓM TẮT TIẾNG VIỆT - Bui Le Phong.doc
  • doc3 BÌA TÓM TẮT TIẾNG ANH - Bui Le Phong.doc
  • doc3 TÓM TẮT TIẾNG ANH - Bui Le Phong.doc
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG ANH - Bui Le Phong.doc
  • doc4 THÔNG TIN MẠNG TIẾNG VIỆT - Bui Le Phong.doc