MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN VẤN ĐỀ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CHỊU TRÁCH NHIỆM
TRƯỚC NHÂN DÂN VỀ NHỮNG QUYẾT ĐỊNH CỦA MÌNH 6
1.1. Các công trình nghiên cứu trong nước 6
1.2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài 19
1.3. Khái quát kết quả nghiên cứu các công trình có liên quan đến đề tài và
những vấn đề luận án sẽ tập trung giải quyết 23
Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHỦ YẾU VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM CHỊU TRÁCH NHIỆM TRƯỚC NHÂN DÂN VỀ NHỮNG
QUYẾT ĐỊNH CỦA MÌNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 25
2.1. Cơ sở lý luận Đảng chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định
của mình 25
2.2. Đảng Cộng sản Việt Nam chịu trách nhiệm trước nhân dân về những
quyết định của mình - khái niệm, nội dung và cơ chế 38
Chương 3: ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CHỊU TRÁCH NHIỆM TRƯỚC
NHÂN DÂN VỀ NHỮNG QUYẾT ĐỊNH CỦA MÌNH TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY - THỰC TRẠNG, NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA 60
3.1. Thực trạng Đảng Cộng sản Việt Nam chịu trách nhiệm trước nhân dân về
những quyết định của mình 60
3.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra 90
Chương 4: YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU THỰC HIỆN TỐT
VIỆC ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM CHỊU TRÁCH NHIỆM TRƯỚC
NHÂN DÂN VỀ NHỮNG QUYẾT ĐỊNH CỦA MÌNH ĐẾN NĂM 2030 103
4.1. Bối cảnh mới và yêu cầu thực hiện tốt việc Đảng Cộng sản Việt Nam chịu
trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình 103
4.2. Những giải pháp chủ yếu thực hiện tốt việc Đảng Cộng sản Việt Nam chịu
trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình đến năm 2030 113
KẾT LUẬN 153
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 155
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 156
PHỤ LỤC 166
179 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 25/02/2022 | Lượt xem: 364 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảng cộng sản Việt Nam chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tr.74]. Vì vậy, “trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng phải nghiêm
túc xem xét những sai lầm, khuyết điểm và yếu kém của mình” [19, tr.74].
81
Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ khuyết điểm: “Chưa khắc phục được tình
trạng ban hành nhiều nghị quyết; một số nghị quyết nội dung thiếu tính khả thi,
chưa tính kỹ nguồn lực và điều kiện thực hiệnCòn có biểu hiện quan liêu, cửa
quyền, chưa thật sự sâu sát thực tế, cơ sở” [31, tr.197].
Công tác dự báo chưa tốt, nên một số chủ trương của Đảng chưa mang tầm
chiến lược lâu dài, chưa lường trước được những trở ngại, biến động của tình hình
trong nước và thế giới. Trong công tác lý luận của Đảng, nhiều vấn đề lý luận đặt ra
từ thực tiễn như các vấn đề: thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN; sở hữu;
đất đai; đảng cầm quyền; đổi mới nội dung và PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước;
kiểm soát quyền lực nhà nước; chưa được giải đáp thỏa đáng, nên chưa cung cấp
cơ sở lý luận cho việc hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng.
Việc Đảng xây dựng, ban hành nghị quyết theo chương trình làm việc của
cấp ủy từng khóa là cần thiết để thể hiện tính chủ động, có kế hoạch, nhưng một
số nghị quyết chưa thật sự cần thiết, trong khi có những vấn đề nổi cộm, bức xúc
của thực tiễn và nhân dân chưa có nghị quyết lãnh đạo của Đảng. Nhìn chung,
các nghị quyết của Đảng còn dài, đủ cả đánh giá tình hình, chỉ ra nguyên nhân,
đúc rút kinh nghiệm, đề ra quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, phương hướng, nhiệm
vụ và giải pháp, nhưng vẫn dừng lại ở sự định hướng chung, tổng quát, chưa có
tính chỉ đạo hành động để các cấp ủy và tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước,
MTTQ và các tổ chức CT-XH có thể thực hiện được ngay, không phải chờ
hướng dẫn, cụ thể hóa. Các cấp ủy vẫn chủ yếu ban hành nghị quyết, chỉ thị,
chưa chú trọng xây dựng các chương trình hành động cụ thể, phù hợp, xác định
rõ những công việc cần làm, phân công trách nhiệm thực hiện và quy định thời
hạn hoàn thành. Khá phổ biến là các nghị quyết, chương trình hành động của cấp
ủy cấp dưới gần như là “bản sao” nghị quyết của Trung ương, cấp ủy cấp
trên. Các dự thảo nghị quyết, chương trình hành động của cấp ủy, tổ chức đảng,
nhất là cấp cơ sở, có liên quan đến phát triển KT-XH, đời sống nhân dân, nghĩa
vụ và quyền lợi của nhân dân (không thuộc bí mật của Đảng và Nhà nước) chưa
được công bố công khai để dân biết, dân bàn, đóng góp ý kiến. Một số chủ
trương của BCHTW, BCT liên quan đến những vấn đề hệ trọng của đất nước khi
đưa ra Quốc hội thảo luận có nhiều đại biểu Quốc hội, kể cả đại biểu Quốc hội là
đảng viên, có ý kiến khác, sau đó phải có sự điều chỉnh.
82
Hai là, Đảng chưa thực hiện tốt trách nhiệm trước nhân dân trong việc tổ
chức thực hiện thắng lợi các quyết định do Đảng đề ra.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng đánh giá: “Việc thể chế hóa, xây dựng
chương trình hành động và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định,
kết luận của Đảng chưa kịp thời, đồng bộ, cụ thể và hiệu quả chưa cao. Năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp, thậm chí có nơi
mất sức chiến đấu” [31, tr.192].
Công tác tuyên truyền của Đảng giúp nhân dân nắm bắt, thuyết phục nhân
dân tán thành, vận động nhân dân ủng hộ và hăng hái thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng còn chưa kịp thời, kém hiệu quả. Công tác tư tưởng của Đảng
nhìn chung là thiếu sắc bén, sức thuyết phục không cao, chưa thích ứng được với
hoàn cảnh mạng xã hội, mạng internét phát triển mạnh mẽ và trình độ dân trí đã
được nâng cao.
Mặc dù đã có những cố gắng, nhưng một số đường lối, chủ trương quan
trọng của Đảng chưa được thể chế hóa kịp thời, đầy đủ, như: chủ trương về tiếp
tục xây dựng giai cấp công nhân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước (Nghị quyết số 20-NQ/TW ngày 28-01-2008 của Hội nghị lần
thứ sáu BCHTW khóa X), về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06-8-
2008 của Hội nghị lần thứ bảy BCHTW khóa X), về chủ động ứng phó với biến
đổi khí hậu, đẩy mạnh quản lý tài nguyên và môi trường (Nghị quyết số 24-
NQ/TW ngày 03-6-2013 của Hội nghị lần thứ bảy BCHTW khóa XI); chủ
trương về phát huy quyền làm chủ của nhân dân, cơ chế “dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra”;
Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” đã được
xác định từ lâu, nhưng chưa được lãnh đạo, chỉ đạo cụ thể hóa đầy đủ và đồng bộ
thành các quy định, quy chế, luật pháp hợp lòng dân để phát huy đầy đủ quyền
làm chủ thật sự của nhân dân. Do đó, sự phối hợp giữa các tổ chức của HTCT,
nhất là công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, cơ quan chính quyền còn
thiếu chặt chẽ, có lúc, có nơi còn “khoán trắng” cho MTTQ và các tổ chức CT-
XH, dẫn đến hiệu quả của công tác dân vận chưa cao.
83
Một số chủ trương của Đảng ban hành, nhưng chưa cân đối nguồn lực để
thực hiện và chưa thực sự gắn với thực tế đời sống của người dân, nên Nhà nước
khó cụ thể hóa.
Đảng lãnh đạo xây dựng, nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy nhà
nước còn nhiều hạn chế. Bộ máy quản lý nhà nước còn cồng kềnh, hoạt động
kém hiệu quả. Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, chưa đáp
ứng yêu cầu. Một số cơ quan nhà nước vẫn đặt ra các quy định thuận lợi cho
quản lý, nhưng gây trở ngại cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời
sống của người dân. Một bộ phận CB, CC còn quan liêu, nhũng nhiễu dân, thực
thi công vụ thiếu công khai minh bạch, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân.
Trình độ quản lý vĩ mô của các cơ quan nhà nước ở trung ương, chính quyền cấp
tỉnh còn một số mặt yếu kém, để xảy ra tình trạng tham nhũng, lãng phí tiêu cực,
“lợi ích nhóm”. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ
lãnh đạo, quản lý, thiếu tu dưỡng, rèn luyện đã bị cám dỗ bởi danh vọng, tiền tài,
thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, xa rời và đi ngược
lại lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, làm tổn hại đến uy tín của Đảng,
Nhà nước, trở thành rào cản lớn nhất đến hiệu quả công tác vận động nhân dân.
Một số nơi chính quyền chưa thực sự coi trọng công tác dân vận, chưa quan tâm
đến lợi ích của người dân. Sự phối hợp giữa chính quyền, các ban, ngành với
MTTQ và các tổ chức CT-XH trong công tác vận động nhân dân thiếu chặt chẽ;
nói chưa đi đôi với làm, việc nắm bắt tình hình để tham mưu, đề xuất xử lý
những vấn đề bức xúc của nhân dân chưa nhạy bén, kịp thời. Trong quá trình
công nghiệp hóa, đô thị hóa một bộ phận nhân dân không còn đất sản xuất, đời
sống khó khăn, thậm chí có nơi đang bị “bần cùng hóa” dẫn đến khiếu kiện đông
người, gay gắt, xung đột, biểu tình, tạo các “điểm nóng” rất phức tạp.
Đảng chậm ban hành cụ thể các văn bản về cơ chế giám sát và phản biện
xã hội của MTTQ và các tổ chức CT-XH; chậm đổi mới nội dung, PTLĐ của các
cấp ủy đảng về công tác dân vận của Đảng và đối với MTTQ và các tổ chức CT-
XH; chậm khắc phục tình trạng “hành chính hóa”, “công chức hóa” và chạy theo
thành tích trong hoạt động của MTTQ và các tổ chức CT-XH. Một số cấp ủy
đảng chưa quan tâm bố trí cán bộ ngang tầm làm tham mưu về công tác dân vận.
84
Cơ chế, chính sách đãi ngộ cho cán bộ cơ sở chưa hợp lý, đời sống của cán bộ
dân vận, mặt trận và đoàn thể còn nhiều khó khăn, nên ít nhiều đã ảnh hưởng đến
công tác vận động nhân dân. Ở một số nơi, tổ chức đảng, mặt trận, đoàn thể ở cơ
sở yếu kém, giảm sút vai trò lãnh đạo, không sát dân, không nắm được tình hình
nhân dân, không đủ sức tuyên truyền, vận động nhân dân, giải quyết những bức
xúc của nhân dân để xảy ra tình trạng nhân dân tự phát đấu tranh chống tiêu
cực, khiếu kiện gay gắt, phức tạp, khó giải quyết như ở một số tỉnh, thành phố
trong cả nước, hoặc bị kẻ địch, người xấu lợi dụng tuyên truyền, kích động, lôi
kéo, tập hợp dân đi biểu tình, bạo loạn ở các tỉnh Tây Nguyên, Nam Trung bộ.
Đảng chưa lãnh đạo giải quyết được các bức xúc của nhân dân về tình
trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy danh
hiệu thi đua của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có chức, có quyền;
tiêu cực trong lĩnh vực y tế, giáo dục; tệ nạn ăn hối lộ của công chức, viên chức
nhà nước trong quan hệ giao dịch hành chính với nhân dân, doanh nghiệp; tình
trạng thiếu trách nhiệm, yếu kém trong lãnh đạo của các tổ chức đảng, yếu kém
trong quản lý, điều hành, tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước, của chính
quyền các cấp để thất thoát lớn tài sản của Nhà nước, của nhân dân; thoái hóa,
biến chất, quan liêu mất dân chủ, thiếu gương mẫu của một bộ phận không nhỏ
cán bộ quản lý có chức, có quyền rất nghiêm trọng hiện nay và thiếu tin tưởng
vào các giải pháp lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm quản lý của Nhà nước trong
phòng, chống, ngăn chặn tham nhũng, lãng phí và sàng lọc cán bộ làm trong sạch
bộ máy của Đảng, Nhà nước. Mặt khác, nhân dân cũng rất bức xúc về tình hình
xuống cấp đạo đức xã hội, tội phạm hình sự, nạn cờ bạc, ma túy, tai nạn giao
thông, ô nhiễm môi trường, an toàn thực phẩm, giá cả các mặt hàng tiêu dùng
thiết yếu tăng cao. Sau một thời gian tổ chức thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần
thứ tư BCHTW Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay” và các quy định mới của BCT về xử lý đảng viên vi phạm, một số cán
bộ lão thành và nhân dân cho là Đảng làm chưa đạt yêu cầu.
Tuy đã đề ra quan điểm Đảng thống nhất, trực tiếp lãnh đạo việc đổi mới,
kiện toàn tổ chức, lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong
HTCT, nhưng việc thực hiện còn nhiều lúng túng, chưa khắc phục được hai
85
khuynh hướng: Đảng bao biện, áp đặt và Đảng buông lỏng lãnh đạo đối với công
tác tổ chức, cán bộ của cơ quan nhà nước, MTTQ và các tổ chức CT-XH. Công
tác quán triệt, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, kết luận, chủ trương của
Đảng, quy định của Nhà nước về sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của HTCT, tinh
giản biên chế thiếu kiên quyết, đồng bộ; còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va
chạm, lợi ích cục bộ. Một số cấp ủy, chính quyền, người đứng đầu ở các cấp chưa
có quyết tâm cao, nỗ lực lớn và hành động thiếu quyết liệt. Công tác quản lý tổ
chức bộ máy và biên chế chưa chặt chẽ và chưa tập trung thống nhất vào một
đầu mối. Chưa có cơ chế, chính sách khuyến khích việc sắp xếp tinh gọn tổ
chức, biên chế. Công tác tổ chức của Đảng tuy có đổi mới, nhưng còn chậm, có
một số biểu hiện trì trệ, bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng và hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế. Công tác xây dựng
Đảng về tổ chức chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ tuy có tiến bộ, nhưng
còn những biểu hiện tập trung độc đoán, thậm chí gia trưởng, chuyên quyền.
Việc củng cố tổ chức và hoàn thiện quy định về chức năng, nhiệm vụ của các
ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy khối ở trung ương và cấp tỉnh, các tổ chức
đảng trong tổng công ty, trong các cơ sở kinh tế ngoài quốc doanh còn chậm;
thiếu biện pháp chỉ đạo có hiệu quả để khắc phục tình trạng tổ chức cơ sở đảng ở
nhiều nơi còn yếu kém. Việc đánh giá, phân tích chất lượng đảng viên, tổ chức
cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh còn nể nang, hình thức. Nhiều chi bộ, chi ủy,
nhất là cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp sinh hoạt không đều, nội
dung nghèo nàn. Một số chi bộ, nhất là cơ quan, đơn vị kinh tế, không kiểm soát
được những đảng viên thoái hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
Qua một số lần sắp xếp, nhưng tổ chức bộ máy của HTCT vẫn còn cồng
kềnh, song trùng, nhiều tầng nấc, nhiều đầu mối; hiệu lực, hiệu quả hoạt động
chưa đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức bộ
máy, mối quan hệ công tác của một số cơ quan, tổ chức trong HTCT chưa được
xác định thật rõ, còn có sự chồng chéo, trùng lắp. Việc phân công, phân cấp,
phân quyền giữa các ngành, các cấp và trong từng cơ quan, tổ chức chưa hợp lý,
86
mạnh mẽ và đồng bộ; còn tình trạng trùng lắp hoặc bỏ sót nhiệm vụ. Kiện toàn tổ
chức bộ máy của HTCT chưa gắn với tinh giản biên chế, cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức. Số người hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước
còn quá lớn.
Trong hệ thống tổ chức đảng, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách
nhiệm, mối quan hệ công tác của cấp ủy cấp tỉnh, cấp huyện chưa được cụ thể
hóa đầy đủ; chưa có quy định khung quy chế làm việc của cấp ủy các cấp. Số
lượng, cơ cấu, chất lượng cấp ủy viên, ủy viên ban thường vụ cấp ủy các cấp
chưa thật hợp lý. Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít cấp ủy, tổ
chức đảng còn yếu, nhất là ở một số cơ sở và trong doanh nghiệp nhà nước, đơn
vị sự nghiệp công lập.
Trong hệ thống các cơ quan nhà nước, năng lực quản lý, điều hành và hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của một số cơ quan cả ở Trung ương và địa phương còn
hạn chế. Sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các địa phương có lúc, có nơi, có
việc còn thiếu chặt chẽ. Tuy đã có Luật Tổ chức chính quyền địa phương, nhưng
chưa phân định thật rõ tính đặc thù của từng loại hình chính quyền nông thôn,
chính quyền đô thị, chính quyền hải đảo. Chậm ban hành Luật kinh tế đặc biệt.
Số lượng, cơ cấu đại biểu dân cử chưa phù hợp, chất lượng còn hạn chế.
Tổ chức bộ máy, phương thức hoạt động của MTTQ và các tổ chức CT-
XH chậm đổi mới, một số nhiệm vụ còn trùng lắp, vẫn còn tình trạng "hành
chính hóa", "công chức hóa". Nội dung và phương thức hoạt động của MTTQ và
các tổ chức CT-XH có lúc, có nơi chưa thiết thực, hiệu quả, thiếu sâu sát cơ sở.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa XII đánh giá:
Công tác cán bộ còn nhiều hạn chế, bất cập, việc thực hiện một số nội
dung còn hình thức. Đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, chưa phản ánh
đúng thực chất, chưa gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể, không ít
trường hợp còn cảm tính, nể nang, dễ dãi hoặc định kiến. Quy hoạch
cán bộ thiếu tính tổng thể, liên thông giữa các cấp, các ngành, các địa
phương; còn dàn trải, khép kín, chưa bảo đảm phương châm "động"
và "mở". Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chậm đổi mới, chưa kết
hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, chưa gắn với quy hoạch và theo
87
chức danh. Luân chuyển cán bộ và thực hiện chủ trương bố trí một số
chức danh không là người địa phương, trong đó có bí thư cấp ủy các
cấp còn bất cập, chưa đạt yêu cầu. Việc sắp xếp, bố trí, phân công, bổ
nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử vẫn còn tình trạng đúng quy trình
nhưng chưa đúng người, đúng việc. Tình trạng bổ nhiệm cán bộ không
đủ tiêu chuẩn, điều kiện, trong đó có cả người nhà, người thân, họ hàng,
"cánh hẩu" xảy ra ở một số nơi, gây bức xúc trong dư luận xã hội. Công
tác tuyển dụng, thi nâng ngạch công chức, viên chức còn nhiều hạn chế,
chất lượng chưa cao, chưa đồng đều, có nơi còn xảy ra sai phạm, tiêu
cực. Chủ trương thu hút nhân tài chậm được cụ thể hóa bằng các cơ
chế, chính sách phù hợp; kết quả thu hút trí thức trẻ và người có trình
độ cao chưa đạt yêu cầu. Chính sách cán bộ giữa các cấp, các ngành có
mặt còn thiếu thống nhất, chưa đồng bộ; chính sách tiền lương, nhà ở
và việc xem xét thi đua, khen thưởng chưa thực sự tạo động lực để cán
bộ toàn tâm, toàn ý với công việc.
Phân cấp quản lý cán bộ chưa theo kịp tình hình, còn tập trung nhiều ở
cấp trên. Một số chủ trương thí điểm chỉ đạo chưa quyết liệt, tổ chức
thực hiện thiếu nhất quán, đồng bộ và chưa kịp thời đánh giá, rút kinh
nghiệm. Việc kiểm tra, giám sát thiếu chủ động, chưa thường xuyên,
còn nặng về kiểm tra, xử lý vi phạm, thiếu giải pháp hiệu quả để phòng
ngừa, ngăn chặn sai phạm. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn bị động,
chưa theo kịp tình hình, tổ chức bộ máy thiếu ổn định [34, tr.48-50].
Chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và xử lý tổ chức đảng,
đảng viên vi phạm chưa cao, chưa đủ sức góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực trong nội bộ đảng và cơ quan nhà nước. Nhiều khuyết
điểm, sai phạm của tổ chức đảng, đảng viên chậm được phát hiện, kiểm tra, xử
lý, hoặc xử lý kéo dài. Chưa phát huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm của các tổ chức
trong HTCT và của nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát. Công tác kiểm
tra, giám sát thiếu thường xuyên; chưa xử lý nghiêm đối với những tập thể, cá
nhân, nhất là người đứng đầu, không thực hiện nghiêm nghị quyết, quy định của
Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, không hoàn thành chức trách,
88
nhiệm vụ được giao. Hoạt động kiểm tra, giám sát thiếu chủ động, nhất là hoạt
động tự kiểm tra của cấp ủy, tổ chức đảng, còn nặng về kiểm tra, xử lý vi phạm,
qua kiểm tra, giám sát chưa đề ra được các giải pháp hiệu quả để khắc phục,
phòng ngừa, ngăn chặn sai phạm.
Công tác sơ kết, tổng kết việc thực hiện Cương lĩnh, Chiến lược, đường lối,
chủ trương của Đảng có được tiến hành, nhưng còn hình thức, nặng về kiểm điểm
thực trạng tình hình, mắc bệnh thành tích, chưa thể hiện đúng yêu cầu tổng kết thực
tiễn để rút ra những vấn đề mang tính lý luận, quan điểm và kinh nghiệm.
Việc triển khai thực hiện nội dung các nghị quyết, chỉ thị, chủ trương của
Đảng về rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, nâng cao năng lực, trình độ của
đội ngũ đảng viên chưa thật tích cực, đồng bộ, thường xuyên, một số nơi thực
hiện chưa nghiêm túc. Việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách
Hồ Chí Minh ở nhiều ngành, địa phương, cơ quan, đơn vị chưa đồng đều, chưa
đi vào chiều sâu, thực chất; một số nơi thực hiện còn mang tính hình thức. Nhiều
đảng viên chưa được phân công nhiệm vụ cụ thể, nên chưa phát huy được vai
trò, trách nhiệm của các cán bộ đảng, đảng viên trong việc thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu
các địa phương, cơ quan, đơn vị, chưa thật sự tiên phong, gương mẫu trước nhân
dân, còn quan liêu, tham nhũng, lãng phí, gây bất bình trong nhân dân, làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Việc đổi mới PTLĐ của Đảng còn hạn chế, chưa đáp ứng được đòi hỏi
trong thời kỳ mới, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. Chưa khắc phục được tình trạng tổ chức đảng buông lỏng lãnh đạo, hoặc
bao biện làm thay cơ quan nhà nước; chưa xác định rõ trách nhiệm giữa tập thể
và cá nhân, giữa cấp trên và cấp dưới dẫn đến đùn đẩy trách nhiệm. Chỉ đạo tổ
chức thực hiện vẫn là một khâu yếu của Đảng; hiện tượng học tập và triển khai
thực hiện nghị quyết liên tục mà hiệu quả thấp vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi,
chương trình hành động thường rập khuôn, thiếu cụ thể, thiếu sáng tạo. Sự đổi
mới PTLĐ của Đảng chưa đồng bộ, còn nhiều nơi, nhiều việc chưa thực chất,
chưa sát dân, dân chủ nội bộ chưa được phát huy đầy đủ, nói chưa đi đôi với
làm. Phương thức lãnh đạo, điều hành vẫn chủ yếu là bằng văn bản (nghị quyết,
89
chỉ thị), thông qua hội họp, ít kiểm tra cấp dưới thực hiện. Việc trả lời, xem xét,
giải quyết các đề nghị của cấp dưới các cơ quan đảng có lúc, có việc không kịp
thời. Chưa coi trọng đúng mức công tác kiểm tra, nhất là kiểm tra thực hiện nghị
quyết, chấp hành chính sách. Tình trạng báo cáo sai sự thật, nặng về thành tích, giấu
giếm khuyết điểm vẫn còn khá phổ biến. Trong kiểm tra còn nể nang, né tránh,
nhiều trường hợp không chỉ rõ khuyết điểm và xác định trách nhiệm cụ thể, nhất là
đối với những hành vi tham nhũng, tiêu cực, vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống
của cán bộ lãnh đạo, quản lý. Một số nơi, cấp ủy, tổ chức đảng chưa thật quan tâm
tự kiểm tra, kiểm tra cấp dưới và chỉ đạo cơ quan kiểm tra. Việc phối hợp giữa kiểm
tra của Đảng với thanh tra nhà nước chưa chặt chẽ. Nhiều vụ tham nhũng, tiêu cực
lớn vẫn chủ yếu do quần chúng nhân dân hay báo chí phát hiện.
Ba là, chưa hình thành chế định mang tính pháp lý về việc Đảng chịu
trách nhiệm trước nhân dân khi cấp ủy, tổ chức đảng quyết định sai và tổ chức
thực hiện quyết định chậm trễ, kém hiệu quả, để xảy ra tiêu cực.
Cho đến nay mới có việc cấp ủy đảng, kể cả BCHTW, nhận thiếu sót,
khuyết điểm trước nhân dân về một số sai lầm trong đường lối, chủ trương và
trong tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương do Đảng đề ra. Như thế cũng đã là
một bước tiến bộ, noi theo tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng thay mặt
Đảng, Nhà nước nhận khuyết điểm trước nhân dân về sai lầm trong cải cách
ruộng đất. Tuy nhiên, do chưa có luật về Đảng, nên việc này mới dừng ở nghĩa
vụ chính trị, đạo đức, chưa mang tính pháp lý; mới là nhận khuyết điểm, chưa có
chế tài xử lý vi phạm. Mặt khác, đường lối, chủ trương của Đảng do đại hội
đảng, tập thể cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy đề ra, quyết định theo đa số, nên
không thể quy kết trách nhiệm cho cá nhân, các quyết định kỷ luật đối với tập
thể thì các cá nhân trong tập thể đó chịu cùng mức kỷ luật của tập thể.
Theo các quy định hiện hành của Đảng, khi một tổ chức đảng ban hành
quyết định vi phạm nguyên tắc Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật; thực hiện không đầy đủ trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám
sát; can thiệp không đúng chức năng, thẩm quyền vào hoạt động của Nhà nước,
MTTQ, các tổ chức CT-XH, thì chịu kỷ luật đảng theo mức độ vi phạm; đảng
viên là CB, CC nhà nước vi phạm pháp luật phải chịu trách nhiệm trước pháp
90
luật, đảng viên là cán bộ tổ chức CT-XH phải chịu trách nhiệm theo quy định
điều lệ của tổ chức.
3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.2.1. Nguyên nhân của những ưu điểm
3.2.1.1. Nguyên nhân chủ quan
Một là, Đảng Cộng sản Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Đảng., về quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Chủ nghĩa Mác - Lênin là học
thuyết khoa học và cách mạng được các nhà tư tưởng mácxít tiếp thu những tinh hoa,
trí tuệ của nhân loại, những hạt nhân hợp lý của quy luật vận động, phát triển của xã
hội loài người. Ngay từ khi mới thành lập và suốt quá trình cách mạng, chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi đường cho cách mạng Việt Nam, trang bị cho
cán bộ, đảng viên và nhân dân ta thế giới quan khoa học và phương pháp luận cách
mạng. Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự là công cụ nhận thức thế
giới, là vũ khí tư tưởng của Đảng trong mọi cuộc đấu tranh cách mạng. Thực tế cho
thấy, nhờ trung thành và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, nên cách mạng nước ta giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác và Đảng
luôn vững mạnh trước mọi thử thách.
Vai trò lãnh đạo của ĐCSVN đã được khẳng định trong suốt quá trình cách
mạng của dân tộc Việt Nam trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,
quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Thực tiễn xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã khẳng định
sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã được thực tiễn đất
nước khẳng định, là nguyện vọng, ý chí của nhân dân và hợp hiến. Dưới sự lãnh đạo
của ĐCSVN, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, góp phần khẳng định và
nâng tầm vị thế của Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
Chính nhờ kiên định và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, nên ĐCSVN luôn ý thức mục đích của Đảng là phục vụ
nhân dân, phục vụ Tổ quốc: Đảng không có mục đích riêng nào khác, vì thế,
91
Đảng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình. Chỉ
có chịu trách nhiệm trước nhân dân, Đảng mới có lý do tồn tại và tồn tại được
với tư cách là Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền.
Hai là, gắn bó mật thiết với nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân đã trở
thành truyền thống của Đảng trong suốt quá trình đấu tranh cách mạng.
Ngay trong máu lửa của chiến tranh, Đảng ra đời là vì sự nghiệp giải
phóng nhân dân, giải phóng dân tộc. Đảng thật sự được nhân dân tin, nhân dân
kỳ vọng Đảng là người đem lại độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho mình.
Các thế hệ cán bộ, đảng viên của Đảng đã thật sự vì nhân dân mà hy sinh phấn
đấu, không vì lợi ích cá nhân. Nhân dân tìm thấy ở Đảng là ngưới dẫn dắt mình
đi tới tương lai. Đồng thời, Đảng đã là của dân, Đảng dựa vào nhân dân, tạo
thành lực lượng cách mạng có sức mạnh vật chất và tinh thần vô tận. Nhân dân
che chở, bảo vệ, nuôi dưỡng Đảng trong mọi hoàn cảnh. Đảng đã thiết lập mối
quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, ĐCSVN luôn gắn bó mật thiết với nhân
dân trên tinh thần Đảng và nhân dân là một. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ sức
mạnh của lòng dân. Sức mạnh của Đảng và sự bền vững của chế độ bắt nguồn từ sức
mạnh của lòng dân, từ sự gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với
Đảng, đồng thời là sức mạnh đại đoàn kết toàn dâ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_dang_cong_san_viet_nam_chiu_trach_nhiem_truoc_nhan_d.pdf