Luận án Đảng lãnh đạo kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam từ năm 1965 đến năm 1973

MỤC LỤC

Trang

TRANG PHỤ BÌA

LỜI CAM ĐOAN

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 5

TỔNG QUANTÌNHHÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 10

Chương 1 ĐẢNG LÃNH ĐẠO KIỀM CHẾ VÀ ĐÁNH

THẮNG ĐẾ QUỐC MỸ TRÊN CHIẾN TRƯỜNG

CHÍNH MIỀN NAM (1965 – 1968) 31

1.1. Yêu cầu khách quan kiềm chế và đánh thắng đế quốc

Mỹ trên chiến trƣờng chính miền Nam 31

1.2. Chủ trƣơng của Đảng 45

1.3. Đảng chỉ đạo kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ

trên chiến trƣờng chính miền Nam (1965 - 1968) 54

Chương 2 KIỀM CHẾ VÀ ĐÁNH THẮNG ĐẾ QUỐC MỸ TRÊN

CHIẾN TRƯỜNG CHÍNH MIỀN NAM (1969 -1973) 85

2.1. Tình hình sau năm 1968 85

2.2. Đảng chủ trƣơng kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ

trên chiến trƣờng chính miền Nam 95

2.3. Chỉ đạo kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên

chiến trƣờng chính miền Nam (1969 -1973) 108

Chương 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM 132

3.1. Nhận xét 132

3.2. Một số kinh nghiệm 145

KẾT LUẬN 164

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC

CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 167

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 168

PHỤ LỤC 1875

pdf203 trang | Chia sẻ: phuongchi2019 | Lượt xem: 605 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đảng lãnh đạo kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam từ năm 1965 đến năm 1973, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộc; năm 1969 có 4.344 cuộc và 10 tháng đầu năm 1970 đã có 6.745 cuộc. Phối hợp cùng với các cuộc hành quân bình định, Mỹ và quân đội Sài Gòn tăng cƣờng tiến hành càn quét, dùng máy bay, pháo binh bắn phá, tung biệt kích phá hoại kho tàng, các căn cứ quân giải phóng. Kết hợp đánh phá ác liệt tuyến vận tải chiến lƣợc Trƣờng Sơn và phong toả các cửa khẩu thu mua, tiếp tế lƣơng thực của cách mạng miền Nam từ hƣớng Campuchia, ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam, thực hiện âm mƣu bóp nghẹt cách mạng miền Nam. Kết hợp với các hành động đánh phá, Mỹ và chính quyền Sài Gòn còn đẩy mạnh các hành động chiến tranh tâm lý, gián điệp, tình báo thông qua hoạt động của các tổ chức Phƣợng Hoàng, Thiên Nga đƣợc chỉ đạo chặt chẽ của Cục Tình báo trung ƣơng Mỹ nhằm chống phá lực lƣợng cách mạng. Hàng chục ngàn nhân viên của các tổ chức này đƣợc đƣa về các xã, ấp hoạt động chỉ 94 điểm ám sát, thủ tiêu cán bộ, đánh phá ác liệt các cơ sở, gây cho cách mạng nhiều tổn thất về lực lƣợng. Chiến dịch Phƣợng Hoàng do CIA phát động trong năm 1968, đã sát hại khoảng 20.000 cán bộ, chiến sĩ cách mạng, trong đó có nhiều cơ sở cách mạng đã xây dựng đƣợc từ nhiều năm trƣớc, trong Tết Mậu Thân bị bộc lộ và tiếp tục bị chiến dịch Phƣợng Hoàng đánh phá. Năm 1968, vùng giải phóng và vùng làm chủ của cách mạng là 1.140 xã với 7,7 triệu dân. Do Mỹ và quân đội Sài Gòn đánh phá ác liệt vùng giải phóng bị thu hẹp, đến cuối năm 1969 chỉ còn 590 xã với 4,7 triệu dân. Hầu hết vùng đồng bằng Nam Bộ bị Mỹ và quân đội Sài Gòn chiếm giữ, đặc biệt là hai tỉnh Trà Vinh và Vĩnh Long vùng giải phóng từ 182 ấp còn lại có 1 ấp. Ở Cà Mau, vùng giải phóng đầu năm 1968 chiếm hơn một nửa diện tích, đến cuối năm 1969 chỉ còn 13 xã [26, tr.78 - 79]. Ở Kiến Phong, Kiến Tƣờng, An Giang, Mỹ Tho, vùng giải phóng bị chính quyền Sài Gòn lấn chiếm gần hết. Tại miền Đông Nam Bộ, Mỹ và chính quyền Sài Gòn lấn chiếm và kiểm soát gần nhƣ toàn bộ các vùng nông thôn bao quanh thành phố Sài Gòn và các tỉnh Phƣớc Long, Bình Tuy... Trên địa bàn Khu V, Mỹ, chính quyền Sài Gòn kiểm soát thêm 46 vạn dân, lập thêm 237 khu dồn dân lập ấp chiến lƣợc. Năm 1968, Ở Khu VIII có 123 xã, 1.000 ấp giải phóng đến cuối năm 1969 chỉ còn 4 xã, 312 ấp. Khu V trong năm 1969 có 3.640 cán bộ, đảng viên ở các đảng bộ địa phƣơng hy sinh và bị bắt (bằng 2 lần số tổn thất năm 1968). Ở Nam Bộ, số đảng viên bị tiêu hao trong 6 tháng đầu năm 1969 là 4.083 ngƣời, chiếm tỷ lệ 4,5% so với tổng số. Cán bộ là 1.080 đồng chí, chiếm tỷ lệ 4,59% so với tổng số cán bộ hiện có. Số hy sinh là 524, trong đó có 1 khu uỷ viên, 27 tỉnh uỷ viên; bị bắt là 229, trong đó có 3 khu uỷ viên, 4 tỉnh uỷ viên [174, tr.99-101]. Đây là thời kỳ số đảng viên ở địa phƣơng bị tổn thất nặng nhất. Sự đánh phá quyết liệt của Mỹ và quân đội Sài Gòn gây cho lực lƣợng cách mạng miền Nam, nhất là lực lƣợng vũ trang bị thƣơng vong nhiều. Trong khi đó, lực lƣợng cách mạng tuyển đƣợc rất ít quân (Năm 1969, ở Nam Bộ chỉ tuyển thêm đƣợc 100 chiến sĩ mới). Các sƣ đoàn chủ 95 lực ở Nam Bộ bị tổn thất nặng không còn địa bàn đứng chân ở miền Nam phải sang Campuchia. Các đơn vị chủ lực ở Trị - Thiên phải ra Quảng Bình để củng cố, một số đơn vị phải giải thể. Chỉ tính trong 2 năm từ giữa 1968 đến đầu 1970, đã có tới 10 vạn cán bộ, chiến sĩ cách mạng ở cơ sở bị thƣơng vong, con số thƣơng vong trong thời kỳ này xấp xỉ với số thƣơng vong trong cuộc kháng chiến chống Pháp [4, tr.327]. Vùng giải phóng bị thu hẹp, các căn cứ bị uy hiếp, hành lang tiếp tế tại chỗ và tuyến vận tải chiến lƣợc Trƣờng Sơn bị đánh phá ác liệt, ảnh hƣởng lớn đến công tác tiếp tế hậu cần, làm cho đời sống của lực lƣợng vũ trang cách mạng và nhân dân khó khăn hơn. Tại khu V và Tây Nguyên, khẩu phần gạo là 1/2 lon mỗi ngƣời mỗi ngày cho lực lƣợng đang trực tiếp chiến đấu và 1/8 lon cho lực lƣợng cơ quan [26, tr.81]. Trƣớc tình hình khó khăn của cách mạng miền Nam, một bộ phận cán bộ, đảng viên và chiến sĩ cách mạng xuất hiện tƣ tƣởng bi quan, ngại hy sinh gian khổ, có hiện tƣợng đào, bỏ ngũ về phía sau, thậm chí có ngƣời ra đầu hàng. Nhƣ vậy, sau các đợt tiến công trong năm 1968, bên cạnh việc giành đƣợc những thắng lợi có ý nghĩa chiến lƣợc rất quan trọng, mở ra bƣớc ngoặt quyết định trong cục diện của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc, cách mạng miền Nam cũng gặp những khó khăn nghiêm trọng. Đây là một trong những thời điểm khó khăn nhất của cách mạng miền Nam. Cục diện thực tế trên chiến trƣờng tạm thời có lợi cho Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Điều này đòi hỏi Đảng phải có bản lĩnh, ý chí, chỉ đạo sáng suốt, đúng đắn đáp ứng yêu cầu của cách mạng. 2.2. Đảng chủ trương kiềm chế, đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam 2.2.1. Mục tiêu nhiệm vụ Trên cơ sở nhận định đúng âm mƣu, hành động của đế quốc Mỹ, đánh giá chính xác về thế chiến lƣợc và lực lƣợng so sánh trên các chiến trƣờng, Đảng đã xác định mục tiêu, nhiệm vụ tiếp tục thực hiện chủ trƣơng kiềm chế, đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trƣờng chính miền Nam. 96 BCHTƢ Đảng xác định mục tiêu kiềm chế và đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trƣờng miền Nam giai đoạn mới là: “Đánh bại âm mƣu của chúng xuống thang từng bƣớc, kéo dài chiến tranh để tạo thế mạnh hòng duy trì chủ nghĩa thực dân kiểu mới của chúng ở miền Nam nƣớc ta; làm thất bại chiến lƣợc phòng ngự của địch, tạo nên chuyển biến mới trong cục diện chiến tranh, giành thắng lợi từng bƣớc đi đến giành thắng lợi quyết định, đánh cho Mỹ phải rút hết quân” [78, tr.117]. Khi Mỹ mở rộng chiến tranh ra Đông Dƣơng, BCT ra Nghị quyết “Về tình hình mới trên bán đảo Đông Dƣơng và nhiệm vụ của chúng ta” xác định rõ vị trí vai trò và nhiệm vụ cho từng chiến trƣờng: Chiến trường MNVN là chiến trƣờng quan trọng nhất trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nƣớc của nhân dân ba nƣớc Đông Dƣơng. Thắng lợi ở chiến trường này có tác dụng chi phối và làm thay đổi cục diện trên toàn bộ bán đảo Đông Dương. Do đó, nhiệm vụ cụ thể của chiến trƣờng miền Nam là kiên trì đẩy mạnh kháng chiến, kết hợp chặt chẽ hơn nữa ba mũi tấn công, tiếp tục xây dựng thế tấn công ngày càng mạnh mẽ. Tập trung lực lƣợng đập tan kế hoạch bình định và âm mƣu “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Đồng thời tranh thủ thời cơ khi địch bị sa lầy trên chiến trƣờng Campuchia để đẩy mạnh hoạt động ở đồng bằng sông Cửu Long và uy hiếp xung quanh Sài Gòn và các đô thị khác [79, tr.250-252]. Chiến trường Campuchia là khâu yếu nhất của Mỹ trên bán đảo Đông Dƣơng. Do đó nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: giúp đỡ và phối hợp với bạn, nắm vững thời cơ, tiếp tục thế tiến công liên tục, đƣa cách mạng Campuchia tiến lên mạnh mẽ [79, tr.253] Chiến trường Lào ngày càng trở nên có vị trí quan trọng trên chiến trƣờng toàn Đông Dƣơng và vị trí hiểm yếu nhất là vùng Trung, Hạ Lào. Do đó, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam đối với chiến trƣờng này là ra sức giúp đỡ, phối hợp với bạn, tiếp tục khuếch trƣơng thắng lợi vừa qua, kiên quyết tiến công địch về mọi mặt, đƣa cách mạng Lào tiến lên [79, tr.254]. Miền Bắc Việt Nam không những là hậu phƣơng lớn của tiền tuyến miền Nam, mà còn là hậu phƣơng lớn của cách mạng ba nƣớc Đông Dƣơng. 97 Do đó miền Bắc phải động viên sức ngƣời, sức của cao nhất cho tiền tuyến, đồng thời nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đập tan mọi âm mƣu khiêu khích và mở rộng chiến tranh của Mỹ [79, tr.255]. Trung ƣơng Cục xác định nhiệm vụ cụ thể của cách mạng miền Nam: đẩy mạnh tấn công toàn diện và liên tục, tiến lên một bƣớc mới rất cơ bản, đánh bại ý chí xâm lược của Mỹ, đánh cho Mỹ phải rút quân , đánh cho quân Sài Gòn phải suy sụp, giành thắng lợi quyết định là điều kiện rất cơ bản để tiến lên hoàn thành các mục tiêu của cách mạng miền Nam. Nhiệm vụ trƣớc mắt đƣợc xác định: “Khẩn trƣơng xây dựng lực lƣợng; phát triển thế tấn công chiến lƣợc một cách toàn diện, liên tục và mạnh mẽ trên cả ba vùng chiến lƣợc "quét và giữ", chính sách bình định và các mục tiêu, biện pháp phòng ngự của địch, đánh bại âm mƣu kết thúc chiến tranh trên thế mạnh và chủ trƣơng “phi Mỹ hoá” chiến tranh của chúng” [76, tr.340]. Trung ƣơng Cục nhấn mạnh nhiệm vụ quan trọng nhất của mặt trận nông thôn là phải giành đất, giành dân, phát triển thế và lực của ta, phải ra sức thực hiện những mục tiêu: “Đánh bại kế hoạch bình định nông thôn của địch” [76, tr.341]. Để thực hiện nhiệm vụ trên, nhiệm vụ trƣớc mắt của lực lƣợng cách mạng miền Nam là “Ra sức kiềm chế và phân tán lực lƣợng của địch, đánh bại chiến lƣợc, chiến thuật phòng ngự của chúng” [73, tr.133]. BCT chỉ rõ với vùng rừng núi và vùng giáp ranh ở một số chiến trƣờng lại là địa bàn hoạt động có lợi lớn của bộ đội chủ lực quân giải phóng, cho nên củng cố và làm chủ vùng rừng núi và vùng giáp ranh cũng tức là chuẩn bị tốt chiến trƣờng để bộ đội chủ lực có thể “tiến hành những trận tiêu diệt lớn, những trận phản công lớn nhằm tiêu diệt bộ phận quan trọng sinh lực địch, hoặc những trận vây hãm nhằm thu hút, kiềm chế và phân tán lực lƣợng của chúng” [73, tr.137]. Nhiệm vụ trƣớc mắt ở các vùng nông thôn Nam Bộ là “Phải biết bao vây kiềm chế chủ lực địch tập trung đánh mạnh vào lực lƣợng địa phƣơng, tiêu diệt bọn bảo an, dân vệ để mở vùng giành dân ở những vùng đông dân” [92, tr.342]. 98 2.2.2. Các biện pháp kiềm chế và đánh thắng Mỹ trên chiến trường chính miền Nam * Kiềm chế, phân tán quân Mỹ trên các vùng chiến lược ở miền Nam Hội nghị lần thứ 9 Trung ƣơng Cục miền Nam (7-1969) chỉ ra biện pháp tập trung mọi nỗ lực làm thất bại hoạt động tác chiến “quét và giữ” và chính sách bình định của địch: “Phối hợp hoạt động của ba thứ quân trên các chiến trƣờng, một mặt ra sức tiêu diệt tiêu hao và kìm chân lực lƣợng lớn Mỹ - ngụy trên chiến trƣờng, đô thị, một mặt căng địch ra trên các chiến trƣờng nông thôn đồng bằng và miền núi, tập trung chủ lực mạnh trên chiến trƣờng có lợi, kéo địch ra để tiêu diệt sinh lực và mở rộng vùng giải phóng” [76, tr.351]. Biện pháp cụ thể kiềm chế quân Mỹ trên từng vùng chiến lƣợc trên chiến trƣờng miền Nam đƣợc Trung ƣơng Cục xác định: Trên chiến trường trọng điểm Sài Gòn - Chợ Lớn phải ra sức phát huy lực lƣợng tại chỗ, vận dụng phƣơng thức tác chiến và phƣơng thức hoạt động thích hợp, đẩy mạnh chiến tranh du kích ở nội đô, liên tục tấn công địch ở vùng ven và trên tuyến trung gian, tiêu diệt tiêu hao nhiều sinh lực và phƣơng tiện chiến tranh của địch, tạo điều kiện đƣa phong trào đấu tranh chính trị và nổi dậy của quần chúng đô thị tiến lên, làm cho hậu phƣơng địch thƣờng xuyên bị rối loạn, làm đảo lộn thế bố trí của địch, cầm chân lực lượng lớn Mỹ- ngụy trong thế phòng ngự bị động và kiên quyết không cho địch gỡ ra khỏi thế đó. Đối với các thành phố và thị xã khác, phải kiên quyết giữ vững và phát triển thế tấn công liên tục và bao vây thƣờng xuyên bằng các lực lƣợng vũ trang tại chỗ và lực lƣợng từ ngoài vào, bằng quân sự kết hợp với chính trị, nhằm tiêu diệt tiêu hao sinh lực và làm rối loạn hậu phương địch, kìm giữ chủ lực của chúng. Trên chiến trường nông thôn đồng bằng, nhất là đồng bằng sông Cửu Long, phải gấp rút đẩy mạnh chiến tranh du kích thật rộng và mạnh nhằm căng địch ra và tiêu diệt tiêu hao địch một cách rộng rãi; vừa tấn công địch vừa ra sức xây dựng lực lƣợng cách mạng, nhanh chóng tạo ra thế và lực mạnh, tạo ra những biến chuyển lớn trên cục diện chiến trƣờng đồng bằng, gây tác động quan trọng đối với chiến trƣờng trọng điểm. 99 Trên chiến trường rừng núi, cần tập trung chủ lực trên hƣớng và khu vực có lợi, kết hợp với các lực lƣợng vũ trang địa phƣơng liên tục tấn công địch, kéo địch ra để tiêu diệt, phối hợp nhiều cách đánh khác nhau mà đánh quỵ từng đơn vị lớn Mỹ - ngụy và làm đảo lộn thế bố trí phòng ngự của chúng, kiên quyết mở rộng và xây dựng vùng căn cứ miền núi hoàn chỉnh [76, tr.351- 352 -353]. * Tăng cường đoàn kết liên minh chiến đấu với Lào, Campuchia để kiềm chế, đánh thắng Mỹ trên chiến trường MNVN Đoàn kết nhân dân ba nƣớc Đông Dƣơng luôn là yêu cầu khách quan trong lịch sử chống kẻ thù chung. Khi đế quốc Mỹ thực hiện chiến lƣợc “chiến tranh cục bộ” ở MNVN, đồng thời xâm phạm biên giới, uy hiếp Campuchia và vũ trang can thiệp vào Lào. Quan điểm của ĐCSVN là: “Đứng trƣớc một cuộc chiến tranh mở rộng do Mỹ gây nên, nhân dân ba nƣớc chúng ta đoàn kết chặt chẽ chống đế quốc Mỹ, thì chúng ta nhất định thắng lợi” [128, tr.398]. Trên cơ sở đó Đảng xác định: “Trong khi tích cực bảo vệ miền Bắc, chi viện cho miền Nam, phải ra sức giúp đỡ nhân dân Lào giành thắng lợi mới và ủng hộ mạnh mẽ nhân dân Campuchia chống mọi âm mƣu xâm lƣợc của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai” [68, tr.67]. Nằm trong kế hoạch của chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh”, cùng với việc đẩy mạnh nỗ lực quân sự bình định MNVN, Mỹ tăng cƣờng “chiến tranh đặc biệt” ở Lào. Đồng thời từng bƣớc mở rộng chiến tranh sang Campuchia. Âm mƣu và hành động mở rộng chiến tranh của Mỹ đã đƣợc BCT nhận định: “Đế quốc Mỹ sẽ tìm cách kéo dài chiến tranh... tiếp tục những hành động phiêu lƣu trong thế bị động và thất bại, chúng còn tìm cách mở rộng chiến tranh xâm lƣợc ra các nƣớc trên bán đảo Đông Dƣơng ... nhằm phối hợp với Việt Nam hóa chiến tranh ở miền Nam Việt Nam, và để đàn áp cách mạng Campuchia và Lào” [26, tr.272]. Tháng 1-1970, BCHTƢ Đảng (khoá III) họp Hội nghị lần thứ 18. Hội nghị chủ trƣơng tăng cƣờng sự đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba nƣớc: “Phải tích cực giúp đỡ cách mạng Lào và Campuchia, giúp quân đội và nhân dân nƣớc bạn đánh bại mọi âm mƣu lấn chiếm vùng giải phóng, mở rộng 100 chiến tranh của đế quốc Mỹ” [77, tr.89]. Hội nghị Trung ƣơng lần thứ 18 đánh dấu sự chuyển hƣớng quan trọng về chỉ đạo chiến lƣợc của Đảng là tăng cƣờng đoàn kết, liên minh chiến đấu cao hơn nữa ba nƣớc Đông Dƣơng để kiềm chế Mỹ, phá âm mƣu cô lập cách mạng Việt Nam của Mỹ. Sau ngày Lon Nol đảo chính Sihanuok (18-3-1970), chiến tranh thực tế đã lan rộng ra Đông Dƣơng. Ngày 24 và 25-4-1970, những ngƣời đứng đầu ba nƣớc Việt Nam - Lào - Campuchia đã họp Hội nghị để củng cố, tăng cƣờng liên minh ba nƣớc chống lại âm mƣu và hành động mở rộng chiến tranh của đế quốc Mỹ ra Đông Dƣơng. Hội nghị đã nhất trí ra bản Tuyên bố chung: Các bên Campuchia, Lào, Việt Nam khẳng định không cho nƣớc ngoài dùng lãnh thổ nƣớc mình để xâm lƣợc nƣớc khác. Về quan hệ giữa ba nƣớc, các bên cam kết hết lòng ủng hộ lẫn nhau theo yêu cầu của mỗi bên và tuyên bố quyết tâm bảo vệ và phát triển tình hữu nghị anh em và quan hệ láng giềng tốt giữa ba nƣớc, trƣớc mắt ủng hộ lẫn nhau chống kẻ thù chung. Bản Tuyên bố chung có giá trị nhƣ một bản Cƣơng lĩnh đấu tranh của ba nƣớc Đông Dƣơng. Đảng Lao động Việt Nam và hai Đảng bạn xác định sự cần thiết phải đoàn kết, liên minh chiến đấu của ba dân tộc thì bƣớc sang giai đoạn mới phải đƣợc tăng cƣờng, củng cố hơn nữa và phát triển lên một tầm cao mới để đáp ứng yêu cầu chống kẻ thù chung. Đảng Lao động Việt Nam khẳng định: phải kiên trì, tăng cƣờng và siết chặt hơn nữa khối đoàn kết, liên minh chiến đấu giữa ba dân tộc; Đoàn kết, hợp tác ở đây phải tiến hành một cách chặt chẽ, toàn diện, nhiều hình thức và diễn ra trên nhiều cấp độ khác nhau. Trên cơ sở Hội nghị cao cấp nhân dân Đông Dƣơng, ngày 19-6-1970, BCT đã họp và đƣa ra nghị quyết quan trọng “Về tình hình mới ở bán đảo Đông Dương và nhiệm vụ mới của chúng ta”. BCT chủ trƣơng: “Tăng cƣờng khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nƣớc Đông Dƣơng làm cho lực lƣợng của ba nƣớc trở thành một khối thống nhất, có một chiến lƣợc chung, kiên trì và đẩy mạnh cuộc kháng chiến cứu nƣớc của nhân dân ba nƣớc 101 chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai” [79, tr.238-239]. Nghị quyết BCT nhấn mạnh: Giúp đỡ nhân dân Khơme và phối hợp với bạn đẩy mạnh cao trào cách mạng, đánh bại âm mƣu xâm lƣợc của Mỹ trên chiến trƣờng Campuchia, hiện là khâu yếu nhất của địch, giúp đỡ nhân dân Lào và phối hợp với bạn đẩy mạnh cách mạng Lào, xây dựng vùng giải phóng vững mạnh về mọi mặt, chú trọng xây dựng và mở rộng vùng căn cứ địa Trung, Hạ Lào, đánh bại âm mƣu của Mỹ đẩy mạnh “chiến tranh đặc biệt” ở Lào. Nghị quyết BCT tháng 6-1970 đã chứng tỏ tầm nhìn bao quát, nhạy bén của Đảng trƣớc những diễn biến mau lẹ của tình hình. Đó thực sự là một đảm bảo vững chắc, đúng hƣớng cho việc thực hiện chủ trƣơng lớn kiềm chế Mỹ trên chiến trƣờng chính trong giai đoạn đầy khó khăn thử thách. Chủ trƣơng đó một lần nữa đƣợc Hội nghị lần thứ 19 của BCHTƢ (1-3-1971) nhấn mạnh: “Tăng cƣờng khối đoàn kết chiến đấu của nhân dân ba nƣớc Đông Dƣơng, làm thất bại âm mƣu kéo dài và mở rộng chiến tranh xâm lƣợc, giành thắng lợi từng bƣớc, tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn, đánh đuổi đế quốc Mỹ ra khỏi bán đảo Đông Dƣơng” [82, tr.196-197]. Sự phối hợp và giành thắng lợi lớn trong năm 1971 trên chiến trƣờng ba nƣớc, là cơ sở để Đảng tiếp tục tăng cƣờng đoàn kết, liên minh với Lào và Campuchia để kiềm chế Mỹ trên chiến trƣờng chính MNVN. Năm 1972, trƣớc “tình hình quốc tế sắp tới về nhiều mặt có lợi cho ta, đồng thời cũng có những diễn biến phức tạp”, Đảng khẳng định: “Chúng ta cần ra sức thắt chặt liên minh chiến đấu với nhân dân các nƣớc anh em Lào và Campuchia” [90, tr.42-43]. BCHTƢ tiếp tục xác định: Phải động viên toàn lực, cố gắng vƣợt bậc, kịp thời nắm vững thời cơ thuận lợi và tạo nên thời cơ mới “đoàn kết phối hợp chiến đấu chặt chẽ với quân và dân Lào anh em, với quân và dân Campuchia anh em, đẩy mạnh tiến công địch trên các chiến trƣờng Đông Dƣơng. Đánh bại chính sách Việt Nam hóa chiến tranh của Mỹ, đánh bại “học thuyết Nixon”, tạo ra một chuyển biến căn bản làm thay đổi cục diện chiến tranh, giành thắng lợi to lớn” [93, tr.144]. 102 Tuyên bố chung của Hội Nghị cao cấp nhân dân ba nƣớc Đông Dƣơng (4-1970), Nghị quyết BCT Trung ƣơng Đảng (6-1970), Nghị quyết 19 (3-1971), Nghị quyết 20 BCHTƢ (4-1972) là phƣơng hƣớng chỉ đạo quân và dân ba nƣớc đoàn kết đánh bại âm mƣu mở rộng chiến tranh ra Đông Dƣơng, thực hiện thành công chủ trƣơng kiềm chế, đánh thắng Mỹ trên chiến trƣờng chính miền Nam. * Quyết tâm giành thắng lợi trên chiến trường chính khi có thời cơ Nhạy bén trƣớc tình hình mới trong thời điểm mới: quân đội Sài Gòn ngày càng suy yếu, Mỹ lúng túng, bế tắc về chiến lƣợc, lại sắp bƣớc vào năm bầu cử tổng thống Mỹ, còn cách mạng miền Nam đã vƣợt qua thời kỳ khó khăn từ sau năm 1968 ở miền Nam, phối hợp bạn đánh bại hành động mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào. Từ giữa năm 1971, BCT, Quân ủy Trung ƣơng quyết định mở cuộc tiến công chiến lƣợc quy mô lớn trên chiến trƣờng miền Nam. Mục đích cuộc tiến công nhằm tiêu diệt một bộ phận lực lƣợng quân sự của Mỹ và quân đội Sài Gòn, giải phóng những vùng đất đai rộng lớn, làm thay đổi so sánh lực lƣợng, thay đổi cục diện chiến trƣờng có lợi cho cách mạng miền Nam, buộc Mỹ chấp nhận một giải pháp rút hết quân khỏi MNVN. Sau chiến thắng của lực lƣợng cách mạng 3 nƣớc Đông Dƣơng ở Đƣờng 9 - Nam Lào và Bắc Campuchia, trong bức điện gửi cho Trung ƣơng Cục miền Nam, Bí thƣ thứ nhất BCHTƢ Đảng Lê Duẩn đã chỉ đạo: “Kiên quyết đánh thật đau vào chỗ yếu của địch, đồng thời tìm mọi cách đánh sụp chỗ mạnh của chúng, làm thay đổi so sánh lực lƣợng có lợi hẳn cho ta, tạo đủ điều kiện cần thiết để nắm lấy thời cơ lớn, quật địch những đòn quyết liệt hơn nữa làm cho ngụy quân, ngụy quyền phải suy sụp, bắt Mỹ phải chịu thua và rút hết quân về nƣớc”[86, tr.340]. Tháng 5-1971, BCT họp đề ra nhiệm vụ năm 1972. Sau khi phân tích những phát triển mới trong cục diện cuộc kháng chiến, đặc biệt tình hình trên các chiến trƣờng. BCT khẳng định lực lƣợng cách mạng đã đánh bại một bƣớc căn bản và có khả năng đánh bại hoàn toàn chiến lƣợc “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Cách mạng miền Nam đang đứng trƣớc thời cơ mới có thể 103 giành thắng lợi to lớn trên chiến trƣờng chính miền Nam. BCT đề ra nhiệm vụ cần kíp là: “Kịp thời nắm lấy thời cơ lớn... phát triển thế tiến công chiến lƣợc mới trên toàn chiến trƣờng miền Nam và trên cả chiến trƣờng Đông Dƣơng giành thắng lợi quyết định trong năm 1972 buộc đế quốc Mỹ phải thƣơng lƣợng trên thế thua” [123, tr.763]. Tháng 6-1971, Hội nghị Quân ủy Trung ƣơng họp nghiên cứu tình hình và đề ra nhiệm vụ thực hiện cuộc tiến công chiến lƣợc 1972: “Tình hình đang chuyển biến mau lẹ, đòi hỏi ta phải có sự cố gắng cao nhất tranh thủ thời gian khắc phục khó khăn, nhƣợc điểm, xây dựng thế và lực của ta trên chiến trƣờng lên nhanh hơn nữa, kịp thời nắm lấy thời cơ, hành động bất ngờ, giành lấy thắng lợi cao nhất” [141]. Quân ủy Trung ƣơng xác định quyết tâm chiến lƣợc năm 1972 là “Tập trung mọi cố gắng, đẩy mạnh tiến công quân sự và chính trị trên cả ba vùng, trên khắp chiến trƣờng Đông Dƣơng. Miền Nam Việt Nam là chiến trƣờng chính” [141]. Ngày 20-11-1971, Thƣờng vụ Trung ƣơng Cục miền Nam ra Chỉ thị số 13/CT71: “Ra sức nắm lấy thời cơ thuận lợi để giành thắng lợi lớn nhất..., phối hợp với đấu tranh ngoại giao nhằm đánh cho ngụy quân ngụy quyền suy sụp một bƣớc nghiêm trọng, đánh bại về cơ bản chính sách Việt Nam hóa chiến tranh” [87, tr.564- 565]. Chỉ thị đặc biệt nhấn mạnh: “Xây dựng thế tấn công chiến lƣợc mới với ba quả đấm trên ba vùng (tấn công quân sự, đánh phá bình định nông thôn và phong trào đô thị - TG) và kịp thời nắm thời cơ giành thắng lợi lớn” [87, tr. 560]. Trong Điện số 485 gửi Trung ƣơng Cục miền Nam (29-11-1971), Bí thƣ thứ nhất BCHTƢ Đảng Lê Duẩn nhận định: Năm 1972 là năm cách mạng miền Nam có thời cơ lớn để chuyển sang một bƣớc ngoặt, một giai đoạn mà quy luật chiến tranh cách mạng của ta, quy luật nổi dậy và tiến công, tiến công và nổi dậy, có khả năng phát huy tác dụng đầy đủ nhất của nó, với tất cả quy mô và sức mạnh của nó [88, tr.472-473]. Hội nghị lần thứ 20 BCHTƢ Đảng (2-1972) quyết định phƣơng hƣớng chiến lƣợc năm 1972: “Phát triển thế tiến công chiến lƣợc mới trên toàn chiến 104 trƣờng miền Nam là chiến trƣờng chính Đánh bại chính sách “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ, tạo ra một chuyển biến căn bản làm thay đổi cục diện chiến tranh ở miền Nam Việt Nam buộc đế quốc Mỹ phải chấm dứt chiến tranh trên thế thua [93, tr.144]. Ngày 27-3-1972, BCT gửi điện cho Trung ƣơng Cục: “Nếu một số lớn sƣ đoàn chủ lực, xƣơng sống của chính sách “Việt Nam hóa” của địch bị tiêu diệt thì lực lƣợng so sánh ở trên chiến trƣờng đã có sự thay đổi rất lớn và sẽ có sự biến động lớn đến toàn bộ chiến trƣờng” [91, tr.211]. Những nội dung đƣợc xác định trên của Đảng là sơ sở để lực lƣợng cách mạng thực hiện cuộc tiến công chiến lƣợc xuân - hè 1972 tạo bƣớc ngoặt quyết định chiến tranh, thực hiện mục tiêu đánh thắng đế quốc Mỹ trên chiến trƣờng chính miền Nam. * Sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu leo thang chiến tranh ra miền Bắc để kiềm chế đế quốc Mỹ trên chiến trường chính miền Nam Trƣớc những thất bại trên chiến trƣờng miền Nam, Nixon âm mƣu “Mỹ hóa” trở lại một phần cuộc chiến, huy động lực lƣợng lớn không quân và hải quân ồ ạt tham chiến ở MNVN và trở lại ném bom bắn phá miền Bắc Việt Nam. Đây là sự leo thang vƣợt ra khỏi khuôn khổ của “Việt Nam hóa chiến tranh”. Mỹ điều động gấp một lực lƣợng lớn không quân, các tàu sân bay và các loại tàu chiến khác trở lại các căn cứ ở Thái Lan và vùng biển Việt Nam. Việc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc lần 2 cũng đƣợc Đảng nhận định từ đầu năm 1971: Mỹ có thể có những hành động chiến tranh mới đối với miền Bắc nhƣ: dùng không quân để tăng cƣờng đánh phá, tập kích, biệt kích; thậm chí có thể liều lĩnh mở cuộc tấn công hạn chế ra miền Bắc. Từ đó, Ban Bí thƣ nhắc nhở các cấp ủy địa phƣơng: “Chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu ở tất cả các địa phƣơng. Phải đặc biệt tăng cƣờng công tác phòng chống biệt kích, tập kích ở nội địa và ven biển, đồng thời tăng cƣờng công tác phòng không, bảo đảm giao thông thông suốt. Các địa phƣơng thuộc Quân khu IV phải kiểm tra lại kế hoạch, chuẩn bị đối phó với hành động tiến công hạn chế của địch” [84, tr.271]. 105 Cuối tháng 3-1971, trƣớc tình hình Mỹ đã dùng không quân đánh phá một số địa điểm trên các trục đƣờng ở Nam Khu IV. Ban Bí thƣ có công điện cho các cấp ủy địa phƣơng và Quân ủy Trung ƣơng “Sắp tới, chúng còn có thể có những hành động liều lĩnh đối với miền Bắc, có thể tăng cƣờng đánh phá bằng không quân với mức độ ác liệt hơn, với phạm vi rộng hơn, đồng thời có thể đẩy mạnh những hoạt động biệt kích, tập kích, thậm chí có thể liều lĩnh mở tiến công hạn chế” [85, tr.284]. Ban Bí thƣ nhắc việc tăng cƣờng kiểm tra đôn đốc việc chuẩn bị đánh địch và làm tốt nhiệm vụ chi viện tiền tuyến. Cuối năm 1971, do thất bại liên tiếp trên các chiến trƣờng MNVN, Lào và Campuchia, Mỹ tăng cƣờng đánh phá liên tục một số vùng thuộc Khu IV, sâu vào khu vực Hàm Rồng - Thanh Hoá. Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng chỉ thị các cấp, các ngành, các địa phƣơng: tăn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdang_lanh_dao_kiem_che_va_danh_thang_de_quoc_my_tren_chien_truong_chinh_mien_nam_tu_nam_1965_den_nam.pdf
Tài liệu liên quan