Bước 2. Xác định chủ đề - Xác định vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu cụ thể:
- Xây dựng mạng CĐ: ý tưởng hoặc vấn đề ban đầu GV cần mở rộng để phát triển
thành nhiều tiểu CĐ qua việc thu thập ý kiến của HS. GV sử dụng hệ thống câu hỏi
5W1H để thu thập kiến thức ban đầu của HS.
- Lựa chọn tiểu CĐ: nhằm giới hạn các tiểu CĐ liên quan đến nội dung bài học.
GV cần hướng HS vào các tiểu CĐ phù hợp.
- Xác định mục tiêu tiểu CĐ: nhằm hướng vào mục tiêu, nội dung của CT môn
học gắn với thực tiễn. HS xác định những điều chưa biết và muốn biết phù hợp với tiểu
CĐ. GV định hướng giới hạn, qui mô của vấn đề tùy thuộc vào mục tiêu của CĐ và
điều kiện tổ chức hoạt động học tập của HS.
- Dự kiến về sản phẩm: Từ những mong muốn tìm hiểu, HS sẽ nêu ra mong muốn
về sản phẩm.
Bước 3. Xây dựng kế hoạch triển khai dự án:
- Xác định câu hỏi nghiên cứu với mỗi tiểu CĐ cụ thể: nhằm giúp HS xác định
nhiệm vụ, công việc cụ thể cần thực hiện.
- Phân công nhiệm vụ: Từ việc xác định đối tượng nghiên cứu, địa điểm và nhiệm
vụ, HS phân công nhiệm vụ cụ thể phù hợp với năng lực của các thành viên.
- Nguồn hỗ trợ: nhằm dự tính cách thức điều tra, các phương tiện hỗ trợ thu thập
các minh chứng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, kinh phí (nếu có).
- Thời gian: Xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc DA, thời gian cho mỗi hoạt
động và cả nhóm.
Các bước trong kế hoạch được xây dựng hướng tới hoạt động của HS (theo cá
nhân hoặc nhóm). Do đặc điểm tâm lí, nhận thức của HS lớp 4-5, GV định hướng cho
HS câu hỏi nghiên cứu và nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, vừa sức.
ể
27 trang |
Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 2937 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Dạy học dựa vào dự án ở lớp 4 - 5 cấp tiểu học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
học tập ở nhà trường
gần hơn với hoạt động diễn ra trong thế giới thật. Quá trình học tập đòi hỏi người học
tự tìm tòi, nghiên cứu hình thành nên kiến thức. Chính tính tự lực trong việc nghiên
cứu đã làm cho nội dung bài học trở nên có giá trị hơn; tính thực tiễn của cuộc sống
kích thích hứng thú, lòng say mê của người học, làm cho việc học trở nên có ý nghĩa.
Quá trình thực hiện DA, HS cùng nhau tìm câu trả lời cho các vấn đề, thực hiện
các bài tập, nhiệm vụ của DA thông qua các hoạt động, bối cảnh trong thực tiễn. Việc
HS được “vừa học, vừa làm” làm tăng cơ hội thực hành các tình huống giống như
trong cuộc sống; giúp HS làm “dầy” thêm kinh nghiệm của bản thân từ tình huống
trong cuộc sống hàng ngày.
7
1.3.5.2.Dạy học dựa vào dự án hình thành và phát triển một số năng lực
Quan niệm và đặc trưng của DHDA đã chỉ rõ một trong những đích mà PP hướng
tới là nhằm hình thành năng lực (NL) cho HS. Trong đó một số NL DHDA rất thuận
lợi để hình thành và phát triển như:
- NL giải quyết vấn đề (GQVĐ): thông qua quá trình phát hiện và đề xuất vấn đề
nghiên cứu của DA, qua hoạt động xây dựng kế hoạch, đề ra các nhiệm vụ chính là HS
đã đưa ra cách thức GQVĐ. Đặc biệt quá trình thu thập, xử lý, tổng hợp thông tin đã
rèn luyện cho HS NL GQVĐ từ tình huống trong đời sống.
- NL giao tiếp: thông qua hoạt động tương tác, trao đổi với bạn, với GV, với các
bên liên quan để thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ. Quá trình trình bày, lắng
nghe,thuyết phục bằng ngôn ngữ, hành động đã giúp HS hình thành và phát triển NL
giao tiếp.
- NL hợp tác nhóm: Làm việc nhóm là hình thức học tập chủ yếu trong DHDA.
Thông qua quá trình cộng tác trong làm việc nhóm, cùng nhau hỗ trợ, chia sẻ để hoàn
thành nhiệm vụ chung của nhóm HS sẽ dần hình thành NL hợp tác nhóm.
1.3.6. Đánh giá trong DHDA
Đánh giá trong DHDA coi trọng đánh giá quá trình. Đánh giá quá trình trong
DHDA gắn bó chặt chẽ theo từng giai đoạn DHDA. Ở mỗi giai đoạn, mỗi bước DHDA
đều có mục đích để hướng HS đạt tới. Kết quả của quá trình học tập được GV, HS
cùng nhìn nhận lại và đánh giá thông qua hoạt động “Đánh giá học theo DA” trước khi
thúc mỗi DA. Một số công cụ thường được sử dụng để đánh giá quá trình học tập của
HS là: hồ sơ học tập (porfolio), phiếu quan sát/ bảng kiểm (Checklist), thang đo
(Rubric), bài kiểm tra (Test),..
1.4. Những vấn đề thực tiễn cần quan tâm khi tổ chức DHDA ở lớp 4-5
1.4.1. Đặc điểm HS tiểu học
Đặc điểm hệ thần kinh theo lối trực quan hành động và trí nhớ trực quan hình
tượng chiếm ưu thế nên học tập thông qua các biểu tượng cụ thể như các hình ảnh, âm
thanh, học qua hoạt động trải nghiệm thực tế của DHDA rất phù hợp với HS lớp 4-5.
Hoạt động tư duy, nhận thức mang tính cụ thể và xúc cảm của HS lớp 4-5 thuận
lợi cho GV khi đưa ra những định hướng nội dung học tập, xác định CĐDA. Tuy nhiên
sự chú ý và ý chí chưa bền vững nên khả năng theo đuổi mục tiêu còn yếu, các GV cần
có sự kiểm soát việc thực hiện theo kế hoạch, đồng thời khuyến khích, gợi hứng thú,
động viên các em thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra.
8
Bên cạnh đó, hoạt động và môi trường sống của HS lớp 4-5 đang dần hướng tới
những mối quan hệ với môi trường gần gũi xung quanh như bạn bè, làng xóm xung
quanh nên học tập theo nhóm của DHDA là hoàn toàn phù hợp.
1.4.2. Chương trình và kế hoạch dạy học
CT GD tiểu học ban hành năm 2006 được cấu trúc thành 11 môn học cho HS từ
lớp 1 đến lớp 5. Bên cạnh sự nhất quán của mục tiêu CT và hệ thống các môn học thì
gợi ý phân phối CT cấp tiểu học lại cho phép có sự linh hoạt nhất định. Theo đó, nhà
trường có thể thay đổi trật tự các bài học và lựa chọn các PPDH tùy theo điều kiện địa
phương và đặc điểm đối tượng HS. Đây là cơ sở cho những NC của đề tài để tìm ra
con đường đưa DHDA trở thành PPDH phổ biến trong các môn học của cấp Tiểu học.
Phân tích cụ thể phân phối CT của hai môn học lớp 4-5 là môn Lịch sử và Địa lý,
môn Khoa học thấy rằng: đây là các môn học có nhiều đặc điểm phù hợp với những
quan điểm về DHDA như: nội dung CT theo các CĐ, trong mỗi CĐ phân chia thành
các mạch kiến thức tương đối độc lập so với cấu trúc tổng thể môn học – điều này cho
phép chúng ta nghĩ tới tính trọn vẹn của CĐDA; Nội dung học tập có sự kết hợp giữa
lý thuyết và thực hành, với đời sống hàng ngày, có sự đan xen ở một số nội dung giữa
các môn – thể hiện đặc trưng cơ bản của DHDA; là những môn học có thời lượng
tương đối linh hoạt khuyến khích GV hướng dẫn sắp xếp thời lượng dành cho địa
phương và thực hành.
Trong bối cảnh hiện nay, khi xu hướng phát triển CT theo hướng phát triển NL đã
được xác định thì việc GV mạnh dạn thay đổi hình thức tổ chức, PPDH và cấu trúc lại
các nội dung cho phù hợp luôn được khuyến khích. Đây chính là cơ hội tốt để những
PPDH tích cực được thử nghiệm tính phù hợp với nhà trường Việt Nam trong đó có
DHDA.
1.4.3. Thực tiễn dạy học ở nhà trường tiểu học
Đề tài nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn DHDA ở 7 trường tiểu học tập trung vào 2
đối tượng là GV và CBQL ở các khía cạnh: Nhận thức về DHDA; Thực tế triển khai
DHDA ở trường tiểu học; Các kiểu DA đã triển khai ở nhà trường; Những cơ hội thuận
lợi và khó khăn có thể gặp phải khi đưa DHDA vào trường tiểu học; Những nội dung,
môn học có cơ hội tổ chức DHDA
Việc điều tra thực tiễn thực hiện bằng phiếu hỏi và trao đổi ở 3 tỉnh: Hà Nội,
Quảng Bình, Kon Tum. Tổng số là 155 GV, 7 CBQL. Ngoài ra thu thập thêm thông tin
từ 56 GV tại chức ở Quảng Ninh.
Kết quả khảo sát cho thấy DHDA chưa được triển khai nhiều ở tiểu học nhưng đã
có một số GV, CBQL được biết về PPDH này qua nhiều nguồn khác nhau và rất ít
được tập huấn một cách bài bản. Đã có một số ít GV triển khai một số bước của tiến
9
trình DHDA với những nội dung nhỏ, thường là 1 phần trong bài học và chỉ trong một
môn học, với thời gian ít; Họ gặp khó khăn trong việc lựa chọn, xây dựng các CĐDA;
điều hành, tổ chức các hoạt động cho HS và bố trí thời lượng cho DHDA. Tuy nhiên
GV ở cả 7 trường tiểu học đã tổ chức DH qua thực tế, ngoài hiện trường. GV sử dụng
quĩ thời gian của môn học để triển khai DH thực tế ở một số nội dung, môn học khác
nhau như Tự nhiên và Xã hội, Khoa học, Lịch Sử và Địa lý, Mĩ thuật. Ý kiến GV và
các CBQL cho rằng các môn Khoa học, Lịch sử - Địa lý là những môn học có nhiều
khả năng tổ chức DHDA. Bên cạnh đó, những hoạt động DH thực tế hiện nay là tiền
đề cơ bản và cơ hội thuận lợi để tổ chức DHDA ở trường tiểu học.
Chƣơng 2. TỔ CHỨC DẠY HỌC DỰA VÀO DỰ ÁN Ở LỚP 4-5 CẤP TIỂU HỌC
Dựa trên những kết quả thu nhận được ở chương 1, trong chương này trình bày
nguyên tắc xác định loại hình, cách thức xây dựng CĐDA và các bước hướng dẫn tổ
chức DHDA phù hợp với HS lớp 4 - 5 nhằm tạo cơ hội tối đa triển khai DHDA ở một
số lĩnh vực kiến thức lớp 4 - 5. Cách thức tạo ra CĐDA được dựa trên những những
căn cứ đặc thù về tổ chức DH ở nhà trường tiểu học Việt Nam như: CT, sự khác biệt
về NL, kinh nghiệm của GV, HS, những điều kiện tổ chức DHDA khác nhau mà chúng
tôi sẽ phân tích sau đây.
2.1. Xây dựng chủ đề dự án trong dạy học dự án
2.1.1. Xác định loại hình dự án ở lớp 4-5
Đề tài hướng đến xây dựng các DA nhằm DH các kiến thức mới ở một số lĩnh
vực kiến thức lớp 4-5. Do vậy, khi xây dựng CĐDA, nhất thiết cần quan tâm tới cấu
trúc logic nội dung kiến thức trong CT. Theo đó, cách phân loại DA theo môn học của
K.Frey, Nguyễn Văn Cường và Bernd Meier là khá phù hợp. Tuy nhiên, theo Dự thảo
CT GDPT tổng thể tên môn học, nội dung môn học có một số thay đổi so với CT hiện
hành. Vì vậy, đề tài không phân loại DA theo tên gọi môn học mà căn cứ vào lĩnh vực
kiến thức - ở đây là lĩnh vực kiến thức Lịch sử, kiến thức Địa lý, kiến thức Khoa học -
để xác định các loại hình DA, giúp GV thuận lợi khi vận dụng vào CT hiện hành và
CT trong tương lai.
Đề tài chọn lĩnh vực kiến thức là tiêu chí chính để phân loại hình DA vì CT cấp
Tiểu học được phân chia theo các môn học/các lĩnh vực kiến thức nên khi dựa trên tiêu
chí lĩnh vực kiến thức sẽ thuận lợi hơn cho GV khi thực hiện DHDA. Vấn đề liên quan
tới thời gian, điều kiện GV, HS, môi trường học tập sẽ là yếu tố bổ sung, thay đổi linh
hoạt. Với cách phân loại như này sẽ có 2 loại hình DA là: DA thuộc một lĩnh vực kiến
thức và DA kết nối nhiều lĩnh vực kiến thức. Hai loại hình DA này được hiểu như sau:
10
- DA thuộc một lĩnh vực kiến thức: Nội dung trọng tâm kiến thức cần hướng tới
trong DA chỉ thuộc một lĩnh vực kiến thức. Bao gồm: kiến thức về Lịch Sử, kiến thức về
Địa Lý, kiến thức về Khoa học
- DA kết nối nhiều lĩnh vực kiến thức: Nội dung trọng tâm kiến thức cần hướng tới
trong DA thuộc hơn một lĩnh vực kiến thức. Bao gồm: DA kết nối kiến thức về Lịch
Sử-Địa lý, về Lịch sử - Khoa học, về Địa lý- Khoa học, và DA kết nối kiến thức cả 3
lĩnh vực Lịch sử- Khoa học- Địa lý.
Nếu lấy tiêu chí lĩnh vực kiến thức làm trục để phân loại DA kết hợp với các tiêu chí
khác như: quĩ thời gian, điều kiện thực hiện, có thể thấy 2 loại DA mang những đặc điểm
cơ bản trình bày trong bảng dưới:
Bảng: Đặc điểm của 2 loại hình DA
Thời gian
Loại hình
DA
Từ 2- 4 tiết trên lớp
(Thời gian triển khai trong 1
tuần)
Từ 5 -8 tiết trên lớp
(Thời gian triển khai từ 1-2 tuần)
DA thuộc một
lĩnh vực kiến thức
- DA có CĐ hẹp, nội dung
kiến thức hẹp.
- Yếu tố tổ chức DHDA chưa
thuận lợi.
- DA có chủ đề rộng, nội dung kiến
thức rộng.
- Yếu tố tổ chức DHDA thuận lợi.
DA kết nối nhiều
lĩnh vực kiến thức
- DA có chủ đề hẹp, nội dung
kiến thức hẹp.
- Yếu tố tổ chức DHDA chưa
thuận lợi.
- DA có chủ đề rộng, nội dung kiến
thức rộng.
- Yếu tố tổ chức DHDA thuận lợi.
2.1.2. Nguyên tắc lựa chọn chủ đề dự án (CĐDA)
Trên cơ sở quan niệm, đặc trưng của DHDA và mục đích xây dựng các DA hình
thành kiến thức mới ở một số môn học lớp 4 -5, đề tài đưa ra nguyên tắc lựa chọn nội
dung hình thành CĐDA trong phạm vi các lĩnh vực kiến thức Khoa học, Lịch sử, Địa
lý như sau:
- Nội dung cần nằm trong yêu cầu cần đạt và qui định chung của khung CT.
- Phù hợp với đặc điểm HS về tâm sinh lý, đặc biệt là bối cảnh tự nhiên.
- Đảm bảo đặc trưng của DHDA
Như vậy, đặc trưng DHDA mang tính vấn đề của thực tiễn là một nguyên tắc
phản ánh trong lựa chọn CĐDA. Tuy nhiên, vấn đề trong xã hội luôn mang tính phức
hợp nên CĐDA thông thường sẽ không chỉ nằm trong giới hạn của một đơn vị bài học
hay một môn học/một lĩnh vực kiến thức. Như vậy, xuất hiện tình huống có những
CĐDA kiến thức thuộc 1 phần của bài học, trọn vẹn trong 1 bài, thuộc nhiều bài học,
hoặc kết hợp các nội dung từ nhiều lĩnh vực kiến thức,... Ở trên, đề tài đề xuất hai loại
11
hình DA, vì vậy sẽ có những yêu cầu riêng khi GV lựa chọn CĐDA đối với từng loại
hình DA như sau:
2.1.2.1. Nguyên tắc lựa chọn CĐDA thuộc một lĩnh vực kiến thức
Việc lựa chọn nội dung cho CĐDA thuộc một lĩnh vực kiến thức cần:
- Dựa trên mục tiêu, nhiệm vụ của một lĩnh vực Lịch sử, Địa lý, Khoa học nhưng
không bắt buộc nằm trọn vẹn trong 1 bài học.
- Đảm bảo kiến thức trọng tâm của một lĩnh vực kiến thức nhằm khắc sâu thêm
kiến thức, kĩ năng, năng lực.
- Đảm bảo thời lượng triển khai DA theo thời lượng qui định trong phân phối CT,
tuy nhiên mở rộng thời gian làm việc ở nhà.
2.1.2.2. Nguyên tắc lựa chọn CĐDA kết nối nhiều lĩnh vực kiến thức
Việc lựa chọn nội dung cho CĐDA kết nối nhiều lĩnh vực kiến thức cần:
- Dựa trên mục tiêu của nội dung lĩnh vực kiến thức Lịch sử, Địa lý, Khoa học;
Đảm bảo tính liên kết, tổng thể của CĐDA qua sự tương đồng, hỗ trợ cho nhau của các
nội dung lĩnh vực kiến thức.
- Chấp nhận thay đổi logic nội dung trong mỗi lĩnh vực kiến thức, không cứng nhắc
trong việc thay đổi trật tự sắp xếp các bài trong CT hiện hành; đồng thời vẫn đảm bảo
thực hiện được các nội dung còn lại của mỗi lĩnh vực kiến thức.
- Thời gian triển khai CĐDA đảm bảo thời gian của mỗi lĩnh vực kiến thức theo
phân phối CT, khuyến khích kết nối với các hoạt động ngoại khóa, sử dụng thời gian
làm việc ở nhà.
Tóm lại, những nguyên tắc lựa chọn CĐ cho hai loại hình DA trên đây nhằm đảm
bảo việc triển khai DHDA thuộc các môn học ở nhà trường, đặc trưng của DHDA và phù
hợp với HS tiểu học. Việc GV xác định CĐDA thuộc loại hình DA nào sẽ là hết sức quan
trọng bởi vì:
- Liên quan đến phân phối CT kế hoạch trong năm học, sắp xếp thời lượng của các lĩnh
vực kiến thức như thế nào cho thuận lợi.
- Liên quan đến mục tiêu về kiến thức trong CT: CĐDA đáp ứng mục tiêu của 1 lĩnh
vực kiến thức hay của nhiều lĩnh vực kiến thức.
2.1.3. Một số yếu tố chi phối việc lựa chọn CĐDA
2.1.3.1. Dựa trên năng lực của HS, GV
Trong QTDH, hoạt động của GV và HS luôn tác động qua lại và hỗ trợ cho nhau.
Đối với DHDA, mối quan hệ này lại càng gắn bó hơn vì với HS lớp 4-5, khả năng chú
ý, ý chí theo đuổi mục đích còn kém bền vững nên cần sự bao quát của GV trong các
hoạt động từ xây dựng kế hoạch đến khuyến khích, hỗ trợ phù hợp với NL của mỗi cá
nhân để các em dần có thể tự mình thực hiện được các hoạt động của DA. Bên cạnh
đó, để có những hỗ trợ phù hợp HS, GV cần trang bị cho bản thân về nội dung, thông
12
tin, tình huống, câu hỏi gợi mở liên quan CĐDA để khuyến khích HS tham gia nhiều
nhất vào các hoạt động.
NL của GV và HS là yếu tố tất yếu đảm bảo cho sự thành công DHDA. Khi GV
có kinh nghiệm tổ chức, điều hành DA một cách nhuần nhuyễn thì sẽ tạo nhiều cơ hội
cho HS học tập chủ động, phát triển và hình thành được những NL của cá nhân. Khi
HS có kinh nghiệm học theo DA thì sẽ có NL làm việc nhóm, chia sẻ và chịu trách
nhiệm trong các nhiệm vụ học tập, biết xây dựng và làm việc theo kế hoạch, đảm bảo
thời gian; Có NL tìm kiếm, thu thập các thông tin và trình bày những kết quả thu nhận
được.
Căn cứ vào NL tổ chức, điều hành DA của GV; trình độ, kĩ năng thực hiện DA
của HS có thể hình thành các CĐDA hẹp hay rộng. Các CĐDA có thể là DA thuộc một
lĩnh vực kiến thức hoặc kết nối nhiều lĩnh vực kiến thức.
2.1.3.2. Dựa trên điều kiện môi trường thực tế triển khai dự án
Bên cạnh cách xác định CĐDA ở trên, GV lựa chọn CĐDA tùy thuộc vào mức độ
ưu tiên của vấn đề của địa phương. Địa phương nào thì nên chọn vấn đề của địa
phương đó để tạo thành CĐDA; Như vậy, HS có cơ hội để tiến hành DA trong đời
sống thực tiễn, gần gũi với thực tế hơn. Hoặc tùy thuộc vào điều kiện cơ sở vật chất
của trường, lớp trong việc hỗ trợ cho các hoạt động tìm kiếm, tổng hợp thông tin phục
vụ cho CĐDA; Khi đó HS có thể không có điều kiện điều tra, tìm hiểu thực địa nhưng
vẫn có cơ hội nghiên cứu, thu nhận thông tin đa dạng của thực tiễn đời sống. Dựa vào
bối cảnh thực tế, GV có thể hình thành thành các CĐDA ở mức độ rộng – hẹp tùy điều
kiện. Các DA này cũng có thể là thuộc một lĩnh vực kiến thức hoặc kết nối nhiều lĩnh vực
kiến thức.
Những phân tích nêu trên cho thấy rằng để xây dựng các CĐDA khả thi, góp phần
hình thành nên kiến thức mới cần lưu ý tới:
- Cấu trúc logic nội dung CT của các lĩnh vực kiến thức – từ đây sẽ tạo ra các loại
hình DA.
- Các yếu tố liên quan đến tổ chức DHDA (như NL, kinh nghiệm của HS, GV, bối
cảnh triển khai DA) để xây dựng CĐDA có phạm vi rộng – hẹp một cách phù hợp.
2.1.4. Cách thức lựa chọn chủ đề dự án
Trong DHDA, việc lựa chọn nội dung và xây dựng CĐDA phù hợp luôn là vấn đề
đặt ra với GV. Để giúp các GV có thể vận dụng vào thực tiễn DH một cách dễ dàng,
chúng tôi tóm tắt những phân tích nêu trên thành “Cách thức lựa chọn CĐDA” gồm 3
bước, đáp ứng đặc điểm các trường tiểu học, phù hợp với điều kiện DH lớp 4 - 5 của
Việt Nam như sau:
(1). Bước thứ nhất, lựa chọn các nội dung kiến thức môn học gắn với thực tiễn: kiến
thức phù hợp với HS, GV, trường, lớp, địa phương;
13
(2). Bước thứ hai, phân tích cấu trúc logic nội dung kiến thức trong CT: xem xét
CĐDA trong một lĩnh vực kiến thức hoặc trong nhiều lĩnh vực kiến thức, tìm
những nội dung gần nhau hoặc giao nhau để xác định loại hình DA phù hợp;
(3). Bước thứ ba, đảm bảo nội dung CĐDA, các hoạt động học tập thể hiện được đặc
trưng gắn với đời sống của DHDA.
Ở bước 1 và 2 không tách bạch hoàn toàn mà có sự xem xét, đối chiếu qua, lại
giữa tính logic của CT và nội dung kiến thức được lựa chọn của CĐDA sao cho đảm
bảo sự thuận lợi, phù hợp với đối tượng.
Cách thức lựa chọn CĐDA được sơ đồ hóa như sau:
Nguyên tắc và cách thức 3 bước trên nhằm tạo ra một CĐDA phù hợp với mỗi địa
phương. Điều này có nghĩa là sẽ tạo cơ hội nhiều nhất để triển khai DHDA phù hợp
với từng điều kiện DH. Dựa trên cách thức này, GV có thể xây dựng được các CĐDA
phù hợp với CT môn học hiện hành. Ngoài ra còn vận dụng triển khai DHDA trong CT
sau 2015.
2.1.5. Đề xuất chủ đề trong dạy học dựa vào dự án
Ở CT lớp 4-5 hiện hành dung lượng kiến thức đã được phân chia theo bài với thời
lượng 40 phút. Tuy nhiên, không phải tất cả dung lượng kiến thức trong một hoặc hai
bài hiện hành, phù hợp với CĐDA, nhất là còn phụ thuộc vào NL và kinh nghiệm của
GV, HS.
14
Để giúp GV bước đầu xác định dung lượng đơn vị kiến thức phù hợp mỗi CĐ
trong DHDA hay ranh giới các kiến thức trong 3 lĩnh vực kiến thức: Lịch sử, Địa lý,
Khoa học, đề tài đề xuất ma trận gợi ý các CĐDA của 3 lĩnh vực kiến thức trong CT
lớp 4-5 hiện hành. Việc hình thành ma trận CĐDA sẽ giúp GV hình dung hệ thống
CĐDA từ hẹp đến rộng, từ đơn giản đến phức tạp, những nội dung chính của CĐ, từ đó
GV có căn cứ để lựa chọn hoặc tự xây dựng CĐDA, vấn đề phù hợp với đối tượng HS.
Các đề xuất CĐDA thuộc một lĩnh vực kiến thức và kết nối nhiều lĩnh vực kiến thức.
2.2. Tổ chức dạy học dựa vào dự án ở lớp 4-5
2.2.1. Các bƣớc tổ chức dạy học dựa vào dự án
2.2.1.1. Yêu cầu xây dựng các bước tổ chức dạy học dựa vào dự án
- Dựa trên quy trình chung của DHDA: Đề tài dựa trên quy trình gồm 3 giai đoạn
chính mà các nhà sư phạm đưa ra. Các giai đoạn chính được cụ thể hóa thành tiến trình
các bước hoạt động nhỏ hơn, phù hợp với nhận thức của HS lớp 4-5, với khả năng tổ
chức của GV, với nội dung CT của Việt Nam.
- Được xây dựng theo một tiến trình phù hợp với đặc điểm HS: Các giai đoạn chính
được cụ thể hóa thành các bước hoạt động nhỏ hơn. Lấy hoạt động học của HS làm
trọng tâm (xương sống) của QTDH vì vậy các bước rất chi tiết, cụ thể để phù hợp với
đặc điểm HS lớp 4-5 nhằm thông qua các bước hoạt động, rèn cho HS cách tư duy, làm
việc có kế hoạch theo kiểu DA.
- Thể hiện rõ đặc trưng của DHDA: Trong DHDA, hoạt động học tập hợp tác theo
nhóm được coi là hoạt động học tập chính, bên cạnh đó là hoạt động tự lực theo NL (sở
trường) mỗi cá nhân nhằm hoàn thành nhiệm vụ của nhóm. DHDA cũng coi trọng các
hoạt động thực tiễn của HS nhằm hình thành các kiến thức, xây dựng các biểu tượng
qua các cuộc điều tra, trải nghiệm thực tế giúp hình thành và phát triển một số NL ở
người học.
- Tạo môi trường để chia sẻ cảm xúc, giá trị, thành quả có được trong suốt quá
trình DHDA.
2.2.1.2. Đề xuất các bước tổ chức dạy học dựa vào dự án
- Từ 3 giai đoạn chính của các nhà sư phạm đưa ra, đề tài cụ thể hóa thành chín
bước hoạt động phù hợp với HS lớp 4-5. Chín bước được sơ đồ hóa như sau:
15
Hình 2.2. Sơ đồ 9 bước DHDA
Bên cạnh chín bước của tiến trình DHDA, đề tài cụ thể hóa thành những chỉ dẫn
hoạt động chi tiết hơn nhằm giúp GV làm quen với việc tổ chức DHDA; chủ động xây
dựng kế hoạch DHDA để đạt được các mục tiêu của CĐDA, mục tiêu hoạt động; giúp
GV có định hướng hoạt động để tổ chức, hướng dẫn HS “học” theo tiến trình DHDA.
2.2.2. Mô tả, ý nghĩa các bƣớc dạy học dựa vào dự án
Giai đoạn 1. Lập kế hoạch
Bước 1. Phát hiện chủ đề:
- Xuất phát từ ý tưởng mà HS quan tâm, vấn đề trong thực tiễn. GV sử dụng câu
hỏi khái quát, câu hỏi “mở” để tìm kiếm ý tưởng, thu thập ý kiến của HS
- Từ ý kiến của HS, GV giới thiệu về CĐ.
16
Bước 2. Xác định chủ đề - Xác định vấn đề nghiên cứu, tìm hiểu cụ thể:
- Xây dựng mạng CĐ: ý tưởng hoặc vấn đề ban đầu GV cần mở rộng để phát triển
thành nhiều tiểu CĐ qua việc thu thập ý kiến của HS. GV sử dụng hệ thống câu hỏi
5W1H để thu thập kiến thức ban đầu của HS.
- Lựa chọn tiểu CĐ: nhằm giới hạn các tiểu CĐ liên quan đến nội dung bài học.
GV cần hướng HS vào các tiểu CĐ phù hợp.
- Xác định mục tiêu tiểu CĐ: nhằm hướng vào mục tiêu, nội dung của CT môn
học gắn với thực tiễn. HS xác định những điều chưa biết và muốn biết phù hợp với tiểu
CĐ. GV định hướng giới hạn, qui mô của vấn đề tùy thuộc vào mục tiêu của CĐ và
điều kiện tổ chức hoạt động học tập của HS.
- Dự kiến về sản phẩm: Từ những mong muốn tìm hiểu, HS sẽ nêu ra mong muốn
về sản phẩm.
Bước 3. Xây dựng kế hoạch triển khai dự án:
- Xác định câu hỏi nghiên cứu với mỗi tiểu CĐ cụ thể: nhằm giúp HS xác định
nhiệm vụ, công việc cụ thể cần thực hiện.
- Phân công nhiệm vụ: Từ việc xác định đối tượng nghiên cứu, địa điểm và nhiệm
vụ, HS phân công nhiệm vụ cụ thể phù hợp với năng lực của các thành viên.
- Nguồn hỗ trợ: nhằm dự tính cách thức điều tra, các phương tiện hỗ trợ thu thập
các minh chứng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, kinh phí (nếu có).
- Thời gian: Xác định thời điểm bắt đầu và kết thúc DA, thời gian cho mỗi hoạt
động và cả nhóm.
Các bước trong kế hoạch được xây dựng hướng tới hoạt động của HS (theo cá
nhân hoặc nhóm). Do đặc điểm tâm lí, nhận thức của HS lớp 4-5, GV định hướng cho
HS câu hỏi nghiên cứu và nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng, vừa sức.
Giai đoạn 2. Triển khai dự án
Bước 4. Thu thập thông tin- xử lí thông tin:
- HS sử dụng các công cụ thu thập, ghi chép, lưu giữ các thông tin từ nhiều
nguồn.
- Xử lý thông tin: các thông tin thu thập ban đầu cần được sắp xếp, phân loại phù
hợp với các nhiệm vụ, câu hỏi đã đề ra.
Bước 5. Thảo luận thường xuyên giữa các thành viên trong nhóm
- HS chia sẻ, giải thích kết quả ban đầu trong nhóm.
- HS cùng GV phát hiện, đối chiếu thông tin với câu hỏi, dự kiến ban đầu. Giải
quyết các vấn đề phát sinh (nếu có).
- HS cùng GV kiểm tra tiến độ so với kế hoạch đã xây dựng.
Bước 6. Trao đổi và xin ý kiến tư vấn giáo viên hướng dẫn
- Nhóm có sự trao đổi thường xuyên với GV, các bên liên quan nhằm đảm bảo
tiến độ, xác nhận thông tin và điều chỉnh hướng đi của DA.
Ở giai đoạn này, GV cần hỗ trợ để giúp các em hiểu sâu hơn, hướng dẫn cách
làm việc theo kế hoạch, học cách hợp tác, để cùng hoàn thành nhiệm vụ của nhóm.
17
Các bước ở giai đoạn này không theo một trình tự nhất định mà được tiến hành
xen kẽ, bổ sung và thực hiện không chỉ một lượt tùy thuộc vào thực tế hoạt động của HS.
Giai đoạn 3. Hoàn thiện dự án
Bước 7. Xây dựng sản phẩm
- Kết quả mà mỗi thành viên đã thu thập cần được nhóm tổng hợp, phân tích và
lựa chọn để tạo thành một sản phẩm cuối cùng của nhóm.
- Sản phẩm cuối cùng có thể có nhiều dạng vật chất và phi vật chất khác nhau như
các kết luận, báo cáo dưới nhiều hình thức, vật cụ thể,
Bước 8. Trình bày sản phẩm:
- HS thảo luận tìm ra cách thức, hình thức trình bày sản phẩm phù hợp với điều
kiện của nhóm.
- HS dự tính phương tiện cần hỗ trợ để thể hiện sản phẩm.
Bước 9. Bài học kinh nghiệm khi làm DA
- HS nhìn lại quá trình thực hiện DA, đánh giá sự tham gia, nỗ lực của các thành
viên trong nhóm.
- GV và HS tiến hành đánh giá, rút ra các bài học kinh nghiệm.
Ở giai đoạn này, do tư duy tưởng tượng của HS lớp 4-5 còn yếu nên GV cần
hướng dẫn HS cách tổ chức, sắp xếp các thông tin một cách phù hợp, làm sao phân biệt
được nội dung chính và các yếu tố phụ. Bên cạnh đó, GV khuyến khích tư duy sáng tạo
của HS để có các sản phẩm đa dạng, thể hiện cùng một vấn đề có nhiều góc nhìn.
2.2.3. Minh họa thiết kế kế hoạch bài học trong dạy học dựa vào dự án
2.2.3.1. Dự án trong một lĩnh vực kiến thức – “Bệnh lây truyền qua muỗi”
Là CĐDA án được xây dựng từ lĩnh vực kiến thức Khoa học lớp 5. Đối chiếu
vào CT và SGK môn Khoa học hiện hành, CĐDA giải quyết nội dung và mục tiêu của
3 bài: Phòng bệnh sốt rét- Phòng bệnh sốt xuất huyết – Phòng bệnh viêm não.
Thời lượng dự kiến tiến hành trong 3 tiết học trên lớp trong khoảng 2 tuần kết
hợp với hoạt động ngoài giờ lên lớp và thời lượng làm việc ở nhà.
Các hoạt động chính theo 9 bước tổ chức DHDA
- Bước 1- Giới thiệu, phát hiện CĐ: Từ đối tượng thực tế mà HS biết là “con
muỗi”, GV giới thiệu CĐ.
- Bước 2 – Lựa chọn tiểu CĐ, xác định mục tiêu: GV khai thác kiến thức ban đầu
của HS, cùng xây dựng nên “mạng chủ đề”. Từ ý kiến đã biết và ý kiến chưa chính xác
của HS tạo nên các tiểu CĐ; Hướng dẫn HS xác định mục tiêu, các vấn đề cần tìm
hiểu, các câu hỏi nghiên cứu ở mỗi tiểu CĐ. Trong các tiểu CĐ hướng HS vào các nội
dung gắn với thực địa như: điều tra thực tế, thực hiện các giải pháp vệ sinh môi trường
xung quanh phòng tránh muỗi đốt.
- Bước 3- Xây dựng kế hoạch thực hiện DA: Hướng dẫn các nhóm xây dựng kế
hoạch thực hiện chi tiết theo từng nhiệm vụ, tiến độ của từng nhiệm vụ, tiến độ của
nhóm; Đảm bảo phân công nhiệm vụ phù hợp cho thành viên trong nhóm.
18
- Bước 4- thu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tom_tat_12_2015_2024_1854847.pdf