LỜI CẢM ƠN. i
LỜI CAM ĐOAN .ii
DANH MỤC VIẾT TẮT TIẾNG ANH . vi
DANH MỤC VIẾT TẮT TIẾNG VIỆT . vii
DANH MỤC BẢNG .viii
DANH MỤC HÌNH . ix
PHẦN MỞ ĐẦU . 1
CHƯƠNG 1: TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN
TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN . 10
1.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới .10
1.2. Tình hình nghiên cứu tại Việt Nam.13
1.3. Kết luận chung về tổng thể nghiên cứu .18
1.4. Khoảng trống nghiên cứu của đề tài.19
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT VỀ QUAN HỆ THƯƠNG
MẠI VÀ HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO VIỆT NAM – HÀN QUỐC
(VKFTA) . 21
2.1. Các vấn đề chung về quan hệ thương mại quốc tế .21
2.1.1. Các lý thuyết về thương mại quốc tế.21
2.1.2. Các khái niệm liên quan đến quan hệ thương mại quốc tế.24
2.2. Căn cứ hình thành và tác động đến mối quan hệ thương mại giữa hai
quốc gia .34
2.2.1. Cơ sở hình thành quan hệ thương mại quốc tế .34
2.2.2. Các yếu tố tác động đến quan hệ thương mại giữa hai quốc gia.37
2.3. Khái quát về Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc
(VKFTA).40
2.3.1. Cơ sở ra đời.40
2.3.2. Quá trình đàm phán VKFTA của Việt Nam và Hàn Quốc .41
2.3.3. Nội dung chính của VKFTA.43
2.4. Cơ sở lý thuyết về tác động của VKFTA đến thương mại hàng hóa và
dịch vụ của Việt Nam .51
197 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 28/02/2022 | Lượt xem: 416 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đẩy mạnh quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong khuôn khổ hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Hàn Quốc (vkfta), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
động sản xuất, xuất khẩu công ty này còn liên kết với một đối tác Hàn Quốc, phát
triển thương hiệu Arriba ( với 49% vốn đầu tư nước ngoài
của Huy Thành Jewelry và 51% vốn của đối tác Hàn Quốc. Nhiều nhà đầu tư Việt
Nam khi đầu tư sang Hàn Quốc chú trọng các lợi thế của Hàn Quốc như các nguồn
tài nguyên, ưu thế về công nghệ. Có thể kể đến một số dự án điển hình như dự án
sản xuất hạt nhựa PE, PP, HD của Công ty TNHH Đạt Thành hay dự án thành lập
Công ty nhân sâm Hàn Quốc Daesan (Daesan Korea Gingseng Co., Ltd) của nhà
đầu tư cá nhân Lê Xuân Bình (Huế); Dự án hợp tác đầu tư sản xuất, kinh doanh phụ
tùng may móc, bán sản phẩm máy móc cơ khí tại Hàn Quốc của Công ty TNHH Cơ
khí - đầu tư - thương mại Lê Minh; Dự án thành lập liên doanh nhằm cung cấp dịch
vụ lưu trữ, phân phối, chế biến, hậu cần quốc tế và các dịch vụ hậu cần bổ sung một
trung tâm hậu cần đường biển quốc tế (logistics) tại Pusan New Port, Hàn Quốc của
công ty TNHH Công Thành Phú Gia Cạnh tranh từ khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài vừa tạo ra sự sôi động trên thị trường, khuyến khích tăng cầu đồng thời cũng
84
tạo ra áp lực để các doanh nghiệp trong nước phải cải tổ, đổi mới, và phát triển
vươn lên để giành lại thị phần. Sau một thời gian, Việt Nam cũng đã bắt đầu xuất
hiện các doanh nghiệp nội với năng lực cạnh tranh tương đối mạnh (ví dụ
SunGroup, Mường Thanh, FLC, Vingroup. ) (VCCI, 2019).
Thứ ba, mặc dù chưa có số liệu cụ thể chứng minh, song việc mở cửa hội
nhập vào nền kinh tế thế giới trong lĩnh vực dịch vụ cũng đã có tác động tích cực và
cộng hưởng tới thương mại hàng hóa. Việc mở cửa và tăng trưởng của các ngành
dịch vụ như vận tải, tài chính ngân hàng đã hỗ trợ cho việc phát triển thương mại
hàng hóa và hoạt động đầu tư. Các ngân hàng Việt Nam đã liên tục thay đổi, cải tổ,
nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua đa dạng hóa và hiện đại hóa các sản phẩm
dịch vụ. Từ đó ngành ngân hàng Việt Nam đã không những có thể phục vụ tốt hơn
thị trường trong nước mà còn là các ngành dịch vụ tiên phong trong việc đầu tư ra
nước ngoài (VCCI, 2019).
Thứ tư, đóng góp vào tăng trưởng GDP. Mặc dù sự đóng góp của thương mại
dịch vụ nói chung và thương mại dịch vụ với Hàn Quốc nói riêng vào GDP của Việt
Nam còn thấp, nhưng rõ ràng, việc phát triển các dịch vụ cũng góp phần bổ sung vào
nguồn thu trong ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó, phát triển các ngành dịch vụ cũng
giải quyết các vấn đề về việc làm trong bản thân các ngành dịch vụ và các ngành hỗ
trợ. Trong khi đó các ngành sản xuất, nhờ ứng dụng máy móc kỹ thuật, công nghệ tự
động hóa làm giảm lượng lao động sử dụng trong các nhà máy. Trong bối cảnh nền
kinh tế đang và sẽ chịu tác động từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 thì việc phát
triển thương mại dịch vụ sẽ là hướng đi khôn ngoan để phát triển nền kinh tế.
Thứ năm, tăng cường thắt chặt quan hệ thương mại – đầu tư giữa Việt Nam
và Hàn Quốc. Song song với phát triển hợp tác thương mại hàng hóa, hợp tác đầu
tư, việc thúc đẩy hợp tác trong các lĩnh vực thương mại dịch vụ sẽ giúp sự gắn kết
giữa hai quốc gia ngày càng bền vững hơn. Hàn Quốc là một trong các đối tác chiến
lược của Việt Nam cả về địa chính trị và địa kinh tế.
3.3.2. Hạn chế tồn tại
* Về thương mại hàng hóa:
Việt Nam thường xuyên nhập siêu từ thị trường Hàn Quốc, khoảng cách chênh
lệch giữa nhập khẩu và xuất khẩu ngày càng rộng hơn theo thời gian và chưa có dấu
85
hiệu giảm. Đây cũng là vấn đề nan giải không chỉ riêng đối với các cơ quan quản lý
nhà nước, mà còn của các doanh nghiệp.
Nhờ các cam kết mở cửa trong VKFTA, nhiều mặt hàng xuất khẩu của Việt
Nam, mặc dù đã có sự gia tăng trong kim ngạch xuất khẩu, song vẫn chỉ chiếm một
tỷ trọng khá nhỏ trong tổng dung lượng thị trường của Hàn Quốc, trong khi cơ cấu
nhập khẩu hàng hóa từ Hàn Quốc về Việt Nam lại ở mức khá cao, gây mất cân đối
về cơ cấu xuất khẩu và nhập khẩu. Nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
chưa thực sự phát huy được thế mạnh về xuất xứ Việt Nam, cũng như chưa tận
dụng được các cơ hội mà VKFTA mang lại. Có thể lấy ví dụ như mặt hàng nông
sản. Mặt hàng nông sản của Việt Nam mặc dù đã có nhiều cơ hội hơn trong việc
thâm nhập thị trường Hàn Quốc, song tỷ trọng của mặt hàng nông sản Việt Nam
trên thị trường Hàn Quốc vẫn còn khá thấp, chỉ chiếm khoảng 6% trong tổng số
35,2 tỷ USD dung lượng thị trường nhập khẩu nông sản (năm 2018) của Hàn Quốc.
Do vậy, các doanh nghiệp nông sản của Việt Nam vẫn còn cần quan tâm nhiều hơn
đến vấn đề về chất lượng cũng như quan tâm đến vấn đề về gia tăng giá trị gia tăng
cho sản phẩm, để đáp ứng tốt hơn đến nhu cầu, cũng như các yêu cầu về tiêu chuẩn
chất lượng, tiêu chuẩn kỹ thuật của Hàn Quốc. Trong top 10 các mặt hàng xuất khẩu
lớn nhất của Việt Nam sang Hàn Quốc thì hầu hết là các sản phẩm gia công của các
doanh nghiệp FDI Hàn Quốc tại Việt Nam. Điều này cho thấy năng lực xuất khẩu
của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Hàn Quốc vẫn còn khá hạn chế. Đây
cũng là một trong những nguyên nhân dẫn tới Việt Nam thường nhập siêu trong
quan hệ thương mại hàng hóa với Hàn Quốc.
Vấn đề về xây dựng thương hiệu mặc dù đã được chú ý, song vẫn là một trong
những rào cản đối với hàng hóa của Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hàn Quốc, nhất
là đối với các mặt hàng có xuất xứ toàn bộ như các mặt hàng nông sản và thủy sản, hiện
nay chưa xây dựng được thương hiệu của Việt Nam trên thị trường Hàn Quốc.
* Về thương mại dịch vụ:
Xu hướng nhập khẩu dịch vụ gia tăng nhiều hơn so với mức tăng của xuất
khẩu, làm cho cán cân thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và Hàn Quốc thường ở
chiều hướng nhập siêu về phía Việt Nam. Cùng với xu hướng nhập siêu về thương
mại hàng hóa ngày càng trầm trọng, xu hướng nhập siêu về dịch vụ cho thấy sự
nguy hiểm trong cán cân thương mại của Việt Nam. Việt Nam ngày càng phụ thuộc
86
nhiều hơn vào các doanh nghiệp FDI Hàn Quốc trên nhiều lĩnh vực. Điều này cũng
chứng tỏ năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được
yêu cầu của thị trường dịch vụ.
Bên cạnh đó, có thể do độ trễ về mặt thời gian, VKFTA chưa có tác động tích
cực làm tăng giá trị thương mại dịch vụ giữa Việt Nam và Hàn Quốc mặc dù so với
AKFTA, hai nước đã thực hiện cam kết mở cửa thị trường dịch vụ ở mức độ sâu
hơn. Việc cải thiện về năng lực dịch vụ vẫn là yếu tố hàng đầu để các doanh nghiệp
Việt Nam quan tâm chú ý hơn.
Tỷ trọng của thương mại dịch vụ trong GDP còn thấp, thiếu vắng nhiều dịch
vụ có giá trị gia tăng cao. Các vấn đề mà thương mại dịch vụ Việt Nam – Hàn Quốc
đang gặp phải tập trung vào các nội dung như:
Thứ nhất, Cán cân thương mại của Việt Nam vẫn thâm hụt qua các năm cho
thấy giá trị xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa khai thác được hết các tiềm năng. Với
các cam kết về thương mại dịch vụ trong VKFTA có xu hướng mở hơn so với
AKFTA có tác động tích cực, song cũng tồn tại những mặt trái. Mặc dù chưa có căn
cứ cụ thể, song với dấu hiệu thâm hụt cán cân thương mại dịch vụ ngày càng trầm
trọng giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong những năm gần đây thì có thể thấy việc mở
cửa thị trường dịch vụ trong VKFTA có thể mang lại những tác động không mong
muốn đối với các ngành dịch vụ của Việt Nam. Các nhà quản lý cũng cần tính toán
đến các giải pháp nhằm giảm thiểu các thách thức mà VKFTA mang lại, đồng thời
tận dung các cơ hội đến từ VKFTA.
Thứ hai, tỷ trọng xuất khẩu trong GDP của dịch vụ còn thấp. Giá trị thương mại
dịch vụ còn thấp hơn nhiều so với thương mại hàng hóa, chỉ đạt khoảng 6 – 8% trong
tổng giá trị GDP (nếu tính tổng giá trị thương mại xuất nhập khẩu thì tỷ lệ này khoảng
14 – 15%). So sánh với các quốc gia khác trong khu vực thì tỷ trọng của Việt Nam thấp
hơn khá nhiều. Tỷ trọng này của các nước LDCs – các nước có trình độ phát triển kém
hơn Việt Nam là 23% (mức bình quân) và các nước ASEAN – các nước có trình độ
phát triển kinh tế tương đương Việt Nam là 22% (mức trung bình) (VCCI, 2019). Điều
này cho thấy Việt Nam chưa thực sự hội nhập sâu vào thị trường dịch vụ thế giới.
Thứ ba, chưa thể hiện đầy đủ dữ liệu về các hình thức dịch vụ. Nhiều dịch vụ
khá quan trọng song do giá trị xuất nhập khẩu còn thấp nên chưa thể đưa vào thống
kê, như dịch vụ môi trường, các dịch vụ giáo dục đào tạo. Sự thiếu vắng dữ liệu của
87
các ngành dịch vụ dẫn tới việc đánh giá tổng thể các ngành kinh tế dịch vụ của Việt
Nam chưa đầy đủ và thiếu chính xác. Việc hoạch định các chính sách phát triển
thương mại dịch vụ do vậy cũng thiếu căn cứ để thực hiện và điều chỉnh.
Thứ tư, nhiều dịch vụ được cho là tiềm năng chưa phát huy được thế mạnh. Có
thể thấy điển hình như các dịch vụ vận tải, logistics. Việt Nam với đường bờ biển dài,
hệ thống cảng biển dày đặc, rất thuận lợi cho việc phát triển các dịch vụ logistics. Song,
các số liệu thống kê lại cho thấy Việt Nam chủ yếu nhập khẩu các dịch vụ này, thay vì
xuất khẩu. Tuy nhiên, mặc dù có sự tăng trưởng, song các dịch vụ như du lịch vẫn chưa
thực sự phát huy được tiềm năng và còn bộc lộ nhiều hạn chế, dẫn tới chưa thu hút
khách du lịch Hàn Quốc quay trở lại Việt Nam, ngoài ra còn bộc lộ nhiều điểm yếu cả
về chất lượng dịch vụ cung cấp và các chiến lược phát triển dịch vụ. Về phía Hàn
Quốc, mặc dù cánh cửa du lịch ở quốc gia này đã mở rộng, người dân Việt Nam vẫn
gặp khó khăn trong việc xin visa du lịch. Do sự gia tăng gần đây của khách du lịch, thời
gian chờ đợi đã được tăng lên rất nhiều từ khi xin visa đến khi cấp.
Tình hình cũng diễn ra tương tự đối với lĩnh vực dịch vụ xuất khẩu lao động.
Số lượng lao động xuất khẩu sang Hàn Quốc khá lớn. Song đa số chỉ tập trung vào
các ngành sử dụng nhiều lao động giản đơn hơn là các lao động trí óc, lao động chất
lượng cao. Chính vì vậy, giá trị xuất khẩu không cao.
Thứ năm, phương thức xuất khẩu vẫn chủ yếu tập trung vào phương thức 2
(xuất khẩu tại chỗ) và phương thức 1, như vậy, mức độ vươn ra nước ngoài của các
doanh nghiệp Việt Nam chưa cao. Trong khi đó, nhập khẩu lại được thực hiện thông
qua phương thức 3 và phương thức 2. Việt Nam vẫn thụ động chờ các doanh nghiệp
nước ngoài đến, khả năng chủ động tiếp cận với thị trường nước ngoài còn thấp.
3.3.3. Nguyên nhân
* Từ phía Nhà nước:
Một là, Hệ thống luật pháp chưa đồng bộ, nhất quán và ổn định
+ Đối với thương mại hàng hóa:
So với cam kết và chuẩn mực quốc tế thì thể chế, luật pháp của Việt Nam vẫn
còn nhiều bất cập, tái cấu trúc nền kinh tế, cải cách doanh nghiệp nhà nước diễn ra
chậm... Những vấn đề đó đã gây khó khăn trong nền kinh tế thị trường, khiến các
nhà đầu tư khó dự đoán được các biến động, thay đổi.
88
Hệ thống luật pháp, chính sách của Việt Nam đã được rà soát, xây dựng mới
và từng bước được hoàn thiện nhưng nhìn chung vẫn chưa đầy đủ, đồng bộ, nhất
quán và ổn định. Đây chính là một trong những nguyên nhân gây bất lợi cho Việt
Nam khi giải quyết các vụ tranh chấp ở phạm vi quốc tế. Bên cạnh đó, mặc dù Nhà
nước đã tăng cường ứng dụng chính phủ điện tử trong việc quản lý các thủ tục hành
chính, như áp dụng hải quan điện tử, nộp thuế điện tử, cấp C/O điện tử, hoặc cho
phép tự chứng nhận xuất xứ, v.v., song việc ứng dụng chưa thực sự triệt để, hầu hết
các doanh nghiệp vẫn phải thực hiện các thủ tục bằng giấy, nhiều thủ tục hành chính
thay đổi nhanh, gây khó khăn cho doanh nghiệp và cho cả các cơ quan quản lý.
Sự gắn kết giữa các cơ quan quản lý cũng chưa thực sự chặt chẽ. Hiện nay
Việt Nam đã triển khai nhiều hệ thống thông tin quốc gia để quản lý thông tin từ các
doanh nghiệp đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam. Song mức độ liên thông dữ liệu giữa
các bộ, ngành, các đơn vị liên quan còn hạn chế, làm giảm thiểu hiệu quả của việc
quản lý một cửa trong thủ tục kinh doanh. Dữ liệu tại nhiều bộ, ngành về cùng một
chỉ tiêu cũng có sự khác nhau và nhiều dữ liệu không công khai, khiến cho các
doanh nghiệp và người dân khó tiếp cận được với hệ thống dữ liệu của nhà nước, từ
đó đưa ra các phân tích và đánh giá kinh tế, tài chính, đồng thời điều chỉnh các kế
hoạch, chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp.
+ Đối với thương mại dịch vụ:
Nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế hàng hóa, chưa thực sự trở thành nền
kinh tế dịch vụ. Thương mại dịch vụ chưa nhận được sự quan tâm thích đáng từ cả
phía nhà nước và doanh nghiệp. Mặc dù ngay từ năm 2006, khi Việt Nam bắt đầu
tham gia WTO, dưới sự hỗ trợ của Dự án MUTRAP, Bộ Công Thương Việt Nam
phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã dự thảo báo cáo về “Khuôn khổ chung về
Chiến lược quốc gia cho ngành dịch vụ Việt Nam tới năm 2020” (GFSS) để trình
Chính phủ, đến năm 2009 “Chiến lược tổng thể phát triển ngành dịch vụ tới năm
2020 (CSSSD) và tầm nhìn tới năm 2025” đã được ban hành. Năm 2011, Thủ tướng
Chính phủ Phê duyệt Chiến lược tổng thể phát triển khu vực dịch vụ của Việt Nam
đến năm 2020. Song, hiện nay, chính phủ chưa thực sự có các đánh giá lại tình hình
thương mại dịch vụ của Việt Nam nói chung và với các đối tác lớn như Hàn Quốc
nói riêng, đồng thời cũng chưa ban hành các chiến lược dài hạn đến năm 2025 hoặc
xa hơn. Trọng tâm trong chiến lược thương mại tập trung chủ yếu vào thương mại
89
hàng hóa và thương mại trong nước, thiếu các kế hoạch hoặc chính sách thúc đẩy,
khuyến khích xuất khẩu dịch vụ ra nước ngoài.
Nhiều chính sách và chiến lược dịch vụ của Việt Nam vẫn còn bị hạn chế.
Điển hình như vấn đề về dịch vụ, vẫn có nhiều yếu tố hạn chế du lịch Hàn Quốc đến
Việt Nam nhưng được đất nước này nhanh chóng khắc phục. Ví như thủ tục visa
nghiêm ngặt và phức tạp đối với người Việt Nam khi đến Hàn Quốc thì nay qua
những công ty lữ hành được chỉ định, du khách tham gia tour thậm chí còn không
phải xin visa khi vào Hàn Quốc. Bên cạnh đó, chính sách cấp visa 5 năm cho công
dân Việt Nam có hộ khẩu thường trú tại ba tỉnh thành lớn là Hà Nội, Đà Nẵng và
TP. Hồ Chí Minh cũng nhằm kích cầu du lịch. Ngoài ra, trước đây, chi phí tour du
lịch trọn gói Hàn Quốc không hề rẻ, mức giá khoảng 1100 đô la Mỹ. So với mức
giá dao động từ 200 – 500 đô la Mỹ cho các tour trọn gói tới Thái Lan, Malaysia,
Singapore, Trung Quốc thì du lịch Hàn Quốc có chi phí đắt đỏ, thậm chí tương
đương với một số tour đến châu Âu. Nhưng ngày nay, tour trọn gói đi Hàn Quốc
giảm xuống khoảng 10 – 13 triệu. Công ty lữ hành dẫn tour cũng nhận được nhiều
ưu đãi từ chính sách hỗ trợ thu hút du khách Việt Nam của chính phủ Hàn Quốc khi
dẫn du khách đến thăm đất nước này.
Hai là, Hoạt động xúc tiến thương mại chưa thực sự có hiệu quả
+ Đối với thương mại hàng hóa
Thông qua các tổ chức Xúc tiến thương mại ở hai nước như Viettrade (Trung
tâm xúc tiến thương mại – Bộ Công Thương Việt Nam), VCCI (Phòng Thương mại
và Công nghiệp Việt Nam), và KOTRA (Cơ quan Xúc tiến thương mại và đầu tư
Hàn Quốc), Chính phủ Việt Nam và Hàn Quốc đã có những động thái hỗ trợ doanh
nghiệp để tận dụng các cơ hội mà VKFTA mang lại. Về phía Hàn Quốc, Cơ quan
Xúc tiến thương mại và đầu tư Hàn Quốc đã thành lập Trung tâm hỗ trợ VKFTA
nhằm giới thiệu các nội dung liên quan tới hiệp định; đồng thời hỗ trợ doanh nghiệp
hai nước vận dụng hiệu quả Hiệp định, thúc đẩy giao dịch thương mại và đầu tư
giữa Hàn Quốc và Việt Nam. Bên cạnh đó, Trung tâm hỗ trợ VKFTA còn hỗ trợ các
doanh nghiệp giải quyết những khó khăn, vướng mắc liên quan tới rào cản thương
mại phi thuế quan, về cấp chứng nhận xuất xứ Về phía Việt Nam Phòng Thương
mại và Công nghiệp Việt Nam (Trung tâm WTO và hội nhập): Tham gia vào việc
hỗ trợ pháp lý cho các doanh nghiệp nâng cao nhận thức về hội nhập kinh tế quốc
90
tế, phát huy vai trò chủ động và tham gia ý kiến để tận dụng tối đa những lợi thế từ
WTO và từ các FTA mang lại, phòng tránh và tự bảo vệ được mình trước tác động
tiêu cực có thể có từ các FTA này. Bộ Công Thương Việt Nam (Cục Xuất nhập
khẩu, Văn phòng Ban chỉ đạo liên ngành hội nhập quốc tế về kinh tế): Thường
xuyên tổ chức các buổi tập huấn, cung cấp các ấn phẩm, phổ biến những thông tin
của VKFTA đến các hiệp hội, ngành hàng và doanh nghiệp cũng như giới thiệu về
thị trường Hàn Quốc (Trung tâm WTO, 2015).
Có thể thấy, có khá nhiều hoạt động và các kênh phổ biến kiến thức về các
FTA, song dường như nhận thức về hội nhập kinh tế quốc tế, về sự tham gia các tổ
chức kinh tế thương mại khu vực và toàn cầu, các FTA... còn nhiều bất cập. Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, doanh nghiệp và người dân thờ ơ, thiếu chủ động trong đổi
mới tư duy và hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vậy, mặc dù nhiều doanh nghiệp và
người dân biết đến FTA, song không hiểu rõ hoặc không đánh giá và lường trước
được tác động từ các cam kết này đến hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp mình, do đó thiếu sự chuẩn bị để phòng tránh các tác động bất lợi có thể xảy
đến, cũng như tăng cường tận dụng các cơ hội mà các FTA có thể đem lại.
+ Đối với thương mại dịch vụ:
Việc phổ biến kiến thức về thương mại dịch vụ, các cơ hội mà VKFTA có thể
đem lại đối với các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ chưa thật rõ ràng. Việc tổ
chức xúc tiến thường chỉ được thực hiện đơn lẻ tại một số doanh nghiệp kinh doanh
dịch vụ chứ chưa được thực hiện theo chuỗi hoặc được sự quan tâm thích đáng từ
phía Nhà nước. Hầu hết các hoạt động xúc tiến thương mại chỉ tập trung đối với
hàng hóa hữu hình hoặc ở một số dịch vụ như du lịch.
Ba là, Thiếu sự liên kết giữa các ngành để tận dụng cơ hội mà VKFTA mang lại
+ Đối với thương mại hàng hóa
Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa xây dựng được ngành kinh tế mũi nhọn, ngành
công nghiệp phụ trợ để tận dụng các cơ hội của hội nhập, trong đó có các FTA đã, đang
và sẽ thực thi, đặc biệt là VKFTA, CPTPP, EVFTA... Mặc dù vốn đầu tư của Hàn
Quốc đổ vào Việt Nam khá lớn, song dường như các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa
thực sự tham gia được vào chuỗi giá trị của các doanh nghiệp Hàn Quốc do thiếu hệ
thống các ngành công nghiệp phụ trợ. Hiện nay Hàn Quốc dẫn đầu trong tổng số 125
quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam với tổng vốn đăng ký lên đến 57,6 tỷ
91
USD và hơn 6.500 dự án đầu tư. Trong đó, 72% tổng vốn đầu tư này được rót vào lĩnh
vực công nghiệp chế tạo. Việc thiếu các doanh nghiệp Việt Nam có đủ năng lực để
tham gia vào chuỗi cung ứng cho các doanh nghiệp FDI của Hàn Quốc là một điều khá
đáng tiếc. Điều này cũng hạn chế khả năng tận dụng cơ hội từ VKFTA mang lại.
+ Đối với thương mại dịch vụ:
Nhiều hoạt động đầu tư và cung ứng dịch vụ phục vụ cho hoạt động thương
mại chưa thực sự tốt. Đa số các doanh nghiệp thực hiện các dịch vụ một cách đơn
lẻ, chưa tạo thành chuỗi liên kết và cung ứng dịch vụ.
Bốn là, Thiếu đồng bộ về cơ sở hạ tầng
Mặc dù Việt Nam đã có nhiều tiến bộ trong việc hoàn thiện hệ thống cơ sở hạ
tầng, song việc quy hoạch cơ sở hạ tầng thực sự chưa đồng bộ, ảnh hưởng đến các
hoạt động sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ của các doanh nghiệp Việt Nam
nói chung. Do ảnh hưởng từ cơ sở hạ tầng, bao gồm cả hệ thống cơ sở vật chất và
hệ thống thông tin liên lạc, chi phí kinh doanh tại Việt Nam trở nên đắt đỏ hơn, thời
gian lưu thông chậm. Vấn đề “nút thắt cổ chai” luôn là vấn đề khó giải quyết ở Việt
Nam hiện nay. Tăng cường ứng dụng các công nghệ, cũng như nghiên cứu quy
hoạch hạ tầng một cách đồng bộ và tổng thể vẫn là hướng giải quyết cần thiết đối
với vấn đề về cơ sở hạ tầng tại Việt Nam. Điều này không chỉ hỗ trợ phát triển
thương mại hàng hóa mà còn đối với các hoạt động thương mại dịch vụ.
Năm là, Chưa thực sự mở cửa đối với ngành dịch vụ
Trong các cam kết FTA, nhiều ngành dịch vụ còn bị hạn chế tiếp cận thị
trường. Ngay tử khi tham gia WTO và sau đó là các FTA, trong đó có VKFTA, Việt
Nam cam kết mở cửa với 11 ngành dịch vụ, bao gồm 110 phân ngành. Một số
ngành trong đó được xếp vào loại mở cửa hạn chế như dịch vụ thông tin, tài chính,
giải trí-văn hóa-thể thao, một số phân ngành vận tải (đường biển, đường sắt, đường
bộ) và phân ngành kinh doanh (khai thác mỏ, nông, lâm nghiệp). Các cách
thức cung cấp dịch vụ Việt Nam cho phép đối tác nước ngoài chủ yếu vẫn là
(1) Cung cấp qua biên giới và (2) Tiêu dùng ở nước ngoài. Phương thức sâu hơn
như (3) Hiện diện thương mại hiện vẫn đang bị hạn chế, và (4) Hiện diện của thể
nhân chỉ được cam kết với 1 số loại hình lao động đặc thù, tay nghề cao, các lao
động phổ thông không bị ràng buộc bởi quy định cụ thể nào. Chính vì lý do đó,
nhiều loại hình dịch vụ thường chỉ được cung cấp hạn chế theo phương thức (1) và
92
(3). Việt Nam nên có biện pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động, thúc đẩy việc
xuất khẩu dịch vụ theo phương thức (4).
Sáu là, Tỷ lệ tận dụng các cơ hội và ưu đãi trong VKFTA vẫn chưa đạt được
mức kỳ vọng của chính phủ hai nước.
Một trong những nguyên nhân được chỉ ra là do việc tiếp cận thông tin của các
doanh nghiệp còn hạn chế; bên cạnh đó là sự thiếu hiểu biết về phương pháp quản
lý xuất xứ, phân loại danh mục trong nguồn nguyên liệu, cũng những hạn chế trong
việc xây dựng các chế độ công nhận lẫn nhau về chứng nhận xuất xứ... Ngoài ra,
việc nghiên cứu, áp dụng các ưu đãi trong VKFTA cũng cần thời gian, không thể
thực hiện ngay trong thời gian ngắn.
Bảy là, Công tác quản lý nhà nước chưa thực sự tốt, nhất là đối với lĩnh vực
thương mại dịch vụ
Đối với các hoạt động thương mại hàng hóa, việc quản lý nhà nước thông qua
các công cụ như thuế và phi thuế đã ngày càng hoàn thiện hơn, tiếp cận gần hơn với
các cam kết trong VKFTA. Song, trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, hoạt động
quản lý nhà nước dường như đang gặp nhiều trở ngại. Mặc dù Bộ Công Thương
Việt Nam được giao nhiệm vụ là đầu mối quản lý về lĩnh vực thương mại dịch vụ,
song đây lại là lĩnh vực liên quan đến nhiều bộ quản lý chuyên ngành khác nhau, như
Bộ giao thông vận tải Việt Nam (đối với lĩnh vực giao thông), Bộ Tài chính Việt
Nam (đối với lĩnh vực tài chính, bảo hiểm), Bộ Xây dựng Việt Nam (đối với lĩnh vực
Xây dựng), Bộ Thông tin và truyền thông Việt Nam (Đối với lĩnh vực viễn thông,
dịch vụ máy tính và thông tin), v.v.. Dữ liệu lại được thu thập theo nhiều chiều khác
nhau, như dữ liệu về đầu tư do Bộ Kế hoạch và Đầu tư Việt Nam cung cấp, dữ liệu về
khách du lịch và chi tiêu của khách du lịch do Tổng cục Du lịch thuộc Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch Việt Nam làm đầu mối thông tin. Chính vì vậy, việc thiếu liên
kết giữa các bộ ngành dẫn đến dữ liệu về lĩnh vực thương mại dịch vụ không được
tính toán, cập nhật một cách đầy đủ, làm cơ sở dữ liệu cho các cơ quan quản lý và các
doanh nghiệp xây dựng các chiến lược và kế hoạch hành động.
Bên cạnh đó, công tác thống kê về thương mại dịch vụ chưa đầy đủ. Thống kê
về dịch vụ thương mại chỉ mới được thực hiện khoảng 10 năm gần đây, hơn nữa
cách phân loại về dịch vụ chưa thống nhất và chưa thống kê cụ thể theo từng đối
tác. Do vậy, việc đưa ra chính sách đối với phát triển dịch vụ theo từng thị trường
93
gặp khó khăn do thiếu dữ liệu. Các dữ liệu chỉ được đưa ra một cách tản mạn ở
nhiều ngành khác nhau, và không có sự thống nhất.
* Từ phía các doanh nghiệp:
Một là, Các doanh nghiệp Việt Nam chưa tận dụng được các cơ hội từ VKFTA.
Hầu hết các doanh nghiệp không đánh giá được các cơ hội cũng như thách thức
mà họ hoặc ngành kinh doanh của họ sẽ phải đối mặt do tác động từ VKFTA. Chính
vì vậy, ý thức chủ động đối phó với các tác động của VKFTA ở các doanh nghiệp
Việt Nam, kể cả các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa và các doanh nghiệp cung cấp
dịch vụ, còn hạn chế. Các doanh nghiệp Việt Nam thường không đủ điều kiện để đáp
ứng các yêu cầu về liên kết sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ cho các doanh nghiệp
FDI, dẫn tới không tham gia được vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp nước ngoài.
Đây cũng là một hạn chế mà các doanh nghiệp Việt Nam cần khắc phục ngay.
Không chỉ đối với các doanh nghiệp sản xuất, mà bản thân các doanh nghiệp
cung cấp dịch vụ dường như cũng không hiểu rõ về VKFTA, thậm chí không biết
đến VKFTA, bởi vậy, hạn chế trong việc vận dụng VKFTA để tạo ra các cơ hội
kinh doanh dịch vụ.
Hai là, Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất và các doanh
nghiệp cung cấp dịch vụ của Việt Nam còn thấp.
Không chỉ đối với các sản phẩm hữu hình, mà cả các sản phẩm dịch vụ cũng đều
chưa thỏa mãn được người tiêu dùng Hàn Quốc. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sang Hàn
Quốc vẫn chỉ dừng ở mức độ thô, sơ chế, dẫn tới chủng loại mặt hàng kém đa dạng và
có giá trị thấp, làm giảm kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Hàn
Quốc. Trong khi đó, với cơ cấu nhập khẩu từ Hàn Quốc chủ yếu là những sản phẩm
công nghiệp chế biến, có giá trị cao. Điều này làm cho cán cân thương mại của Việt
Nam với Hàn Quốc thường xuyên bị thâm hụt.
Chất lượng sản phẩm và chất lượng cung cấp dịch vụ chưa đáp ứng được với các
quy định của Hàn Quốc. Sản phẩm của Việt Nam thường vướng mắc bởi hàng rào kỹ
thuật của Hàn Quốc, do vậy khả năng thâm nhập vào thị trường Hàn Quốc thường
thấp. Mặc dù sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang Hàn Quốc được hưởng các ưu
đãi về thuế, nhất
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_day_manh_quan_he_thuong_mai_giua_viet_nam_va_han_quo.pdf