MỞ ĐẦU . 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ
ĐẶT RA CẦN NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .7
1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước . 7
1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài . 15
1.3. Nhận xét về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án và những vấn
đề tiếp tục được nghiên cứu trong luận án . 19
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỔI MỚI CHẾ ĐỘ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC
HỘI Ở NƯỚC TA . 31
2.1. Khái niệm, nội dung, đặc điểm của chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta . 31
2.2. Khái niệm, đặc điểm, nội dung, phương thức và vai trò của đổi mới chế độ bầu cử
đại biểu Quốc hội ở nước ta . 47
2.3. Kinh nghiệm đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở các quốc gia trên thế giới
. 64
Chương 3: CƠ SỞ THỰC TIỄN ĐỔI MỚI CHẾ ĐỘ BẦU CỬ ĐẠI BIỂU QUỐC
HỘI Ở NƯỚC TA . 71
3.1. Quá trình xây dựng và đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta . 71
3.2. Những hạn chế, bất cập của chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay. 87
Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CHẾ ĐỘ BẦU CỬ
ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY . 112
4.1. Những tiền đề khách quan và phương hướng đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc
hội ở nước ta hiện nay . 112
4.2. Các giải pháp tiếp tục đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay . 122
KẾT LUẬN . 148
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ . 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 152
PHỤ LỤC . 170
178 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 535 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đổi mới chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay - Phan Văn Ngọc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tác quản lý bầu cử ngày càng phụ thuộc vào các cấp chính quyền. Kinh
phí bầu cử do ngân sách bảo đảm và được xem là ưu việt của chế độ bầu cử XHCN
[135]. “Vai trò của Nhà nước bao trùm tất cả mọi lĩnh vực của chế độ làm chủ tập
thể” [129, tr.37], MTTQ và các tổ chức đoàn thể không được phát huy vị thế độc
lập. Nhân dân có tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước trong việc thực hiện quyền
bầu cử cũng như các quyền chính trị khác.
3.1.2.6. Về cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử đại biểu Quốc hội
Các khiếu nại về việc lập danh sách cử tri chủ yếu do cơ quan lập danh sách
cử tri giải quyết theo cơ chế hành chính. Trường hợp công dân không đồng ý với
kết quả giải quyết thì có quyền khởi kiện đến Tòa án nhân dân cấp huyện. Quyết
định của Tòa án là quyết định cuối cùng. Tuy nhiên, thực tế cuộc bầu cử ĐBQH
khóa V cho thấy, cũng có trường hợp Hội đồng bầu cử trực tiếp xem xét giải quyết
cho công dân có quyền bầu cử [148]. Các khiếu nại về tư cách người ứng cử và
công tác tổ chức bầu cử thuộc thẩm quyền giải quyết của các cơ quan phụ trách bầu cử.
Chế độ bầu cử ĐBQH trong thời kỳ trước đổi mới (1986) là sự tiếp thu, áp
dụng mô hình chế độ bầu cử phổ biến ở các nước XHCN. Yêu cầu nhiệm vụ cách
mạng đã buộc chế độ bầu cử phải có những thay đổi kể cả về khuôn khổ pháp luật
và đặc biệt là trong thực tiễn thi hành. Trong hơn hai mươi năm chiến tranh chống
Mỹ cứu nước (1954-1975), chế độ bầu cử ĐBQH đã phát huy tác dụng, góp phần
quan trọng tạo nên sự đoàn kết, nhất trí cao trong xã hội, thể hiện quan điểm triệt để
đấu tranh giai cấp, xây dựng bộ máy nhà nước chuyên chính mạnh mẽ, tập trung
quyền lực để thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Tuy nhiên, do nhận thức còn phiến diện, giản đơn về chuyên chính vô sản và dân
79
chủ XHCN nên việc tiếp tục duy trì áp dụng chế độ bầu cử này trong điều kiện xây
dựng CNXH trên phạm vi cả nước đã cho thấy nhiều hạn chế, bất cập, là một trong
những nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trì trệ, quan liêu, kém hiệu quả của bộ
máy nhà nước.
3.1.3. Chế độ bầu cử đại biểu Quốc hội từ năm 1986 đến nay
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) đề ra đường lối đổi mới toàn diện
đất nước đã xác định Nhà nước là công cụ của chế độ làm chủ tập thể XHCN, bảo
đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân lao động. Nhiệm vụ đặt ra là tăng cường
hiệu quả cơ chế quản lý nhà nước, thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ
máy, nâng cao vị trí của Quốc hội [39, tr.117 - 121]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VII (1991) nhấn mạnh dân chủ XHCN vừa là mục tiêu vừa là động lực của công
cuộc đổi mới; xây dựng Nhà nước XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
cải tiến tổ chức và hoạt động của Quốc hội; đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH [44,
tr.120-121]. Thể chế chủ trương, quan điểm của Đảng, Quốc hội thông qua Hiến
pháp 1992 - Hiến pháp đầu tiên của thời kỳ đổi mới, đồng thời sửa đổi, ban hành
các luật về tổ chức bộ máy nhà nước, trong đó có Luật bầu cử ĐBQH năm 1992.
Các cuộc bầu cử ĐBQH khóa VIII, khóa IX đã được tổ chức theo tinh thần đổi mới.
Sau gần 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới, việc hoàn thiện chế độ bầu cử
tiếp tục được đặt ra. Nghị quyết số 08-NQ/HNTW ngày 23.01.1995 của Ban chấp
hành Trung ương khóa VII xác định: "Hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng
cử, hiệp thương giới thiệu người ứng cử... Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do bầu cử
và ứng cử của công dân" [6]. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX và X tiếp tục
khẳng định chủ trương đổi mới chế độ bầu cử theo hướng nâng cao chất lượng
ĐBQH, hoàn thiện quy định về bầu cử, ứng cử, tiêu chuẩn và cơ cấu ĐBQH trên cơ
sở thực sự phát huy dân chủ [7]. Thực hiện bầu cử có số dư, mở rộng quyền tiến cử
và tự ứng cử, giới thiệu nhiều phương án nhân sự trong bầu cử và bổ nhiệm cán bộ
[45, tr.294]. Trên cơ sở đó, tại kỳ họp thứ mười một, Quốc hội khóa IX đã ban hành
mới Luật bầu cử ĐBQH năm 1997, vào năm 2001 và 2010 Quốc hội cũng đã thông
qua các luật bầu cử sửa đổi, bổ sung.
80
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI (2011) chủ trương tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện nền dân chủ XHCN, đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
Việt Nam [46, Tr.47, 52]. Tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII thông qua Hiến
pháp 2013, trong đó quy định HĐBCQG là cơ quan hiến định độc lập, có nhiệm vụ
tổ chức bầu cử ĐBQH, chỉ đạo, hướng dẫn công tác bầu cử đại biểu HĐND các cấp.
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013, bảo đảm tính đồng bộ với các luật về
tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội đã ban hành Luật bầu cử ĐBQH và đại biểu
HĐND năm 2015 (Luật bầu cử 2015), góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý để tiếp tục
đổi mới chế độ bầu cử ĐBQH ở nước ta.
Chế độ bầu cử ĐBQH trong giai đoạn từ 1986 đến nay đã từng bước khắc
phục những hạn chế, bất cập và có những bước đổi mới, phát triển:
3.1.3.1. Về các nguyên tắc bầu cử đại biểu Quốc hội
Kế thừa các quy định về nguyên tắc bầu cử, các bản Hiến pháp và các luật
bầu cử ĐBQH tiếp tục khẳng định việc bầu cử ĐBQH theo nguyên tắc: Phổ thông,
bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Mặc dù được giữ nguyên như trước đây nhưng
nội dung và tinh thần các nguyên tắc bầu cử có sự bổ sung, thể hiện qua các quy
định cụ thể của pháp luật và thực tiễn tổ chức bầu cử ĐBQH. Nguyên tắc phổ thông
được mở rộng, Nhà nước tạo điều kiện cho cử tri thực hiện quyền bầu cử và tham
gia các hoạt động bầu cử, phạm vi đối tượng không được bầu cử thu hẹp, việc hạn
chế quyền bầu cử phải trên nguyên tắc pháp quyền. Nguyên tắc bình đẳng bảo đảm
tỷ lệ tham gia ứng cử của người dân tộc thiểu số, phụ nữ; bình đẳng vận động bầu
cử. Bầu cử tự do tuy không được quy định nhưng quyền tự ứng cử công dân được
ghi nhận, quan niệm về bầu cử là nghĩa vụ công dân đã có sự thay đổi trên thực tế.
3.1.3.2. Về quyền bầu cử và ứng cử đại biểu Quốc hội
Quyền bầu cử ngày càng được mở rộng theo nguyên tắc phổ thông cả về
phương diện pháp lý và thực tiễn triển khai thực hiện. Việc thực thi các quyền bầu
cử đã xóa bỏ sự hạn chế do phân biệt về thành phần, giai cấp và thái độ chính trị.
Các trường hợp bị tước quyền bầu cử, hạn chế quyền bầu cử được quy định cụ thể
trong luật bầu cử thay vì các văn bản dưới luật. Cử tri đi bầu luôn đạt tỷ lệ cao (thấp
81
nhất là cuộc bầu cử ĐBQH khóa VIII đạt 98.75% [165, tr.226]). Thực hiện quy định
của Luật bầu cử năm 2015, những người bị tạm giam, tạm giữ, người đang chấp
hành biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở cai nghiện bắt buộc đã được tham gia
bầu cử là điểm đặc biệt trong cuộc bầu cử năm 2016 [71]. Trong đó, có hơn 30.000
cử tri là người đang bị tạm giam, tạm giữ. Bầu cử là quyền, không phải là nghĩa vụ -
một nội dung của nguyên tắc "bỏ phiếu tự do", được nhận thức và áp dụng.
Hiến pháp và các luật bầu cử từ năm 1992 đến nay quy định trực tiếp công
dân từ hai mươi mốt tuổi trở lên, không có bất kỳ sự phân biệt nào, có quyền ứng cử
ĐBQH. Bằng quy định này, Hiến pháp và pháp luật khẳng định quyền ứng cử là
quyền chủ động, là cơ sở pháp lý để công dân thực hiện quyền tự ứng cử và tiếp
nhận sự đề cử, giới thiệu ứng cử ĐBQH. Quyền ứng cử không chỉ giới hạn ở quyền
được cơ quan, tổ chức giới thiệu. Ngay từ cuộc bầu cử ĐBQH khóa IX (1992),
trong số 601 người được giới thiệu ứng cử đã có những người tự ứng cử, được
MTTQ hiệp thương đưa vào danh sách chính thức [165, tr.24]. Cao nhất là cuộc bầu
cử ĐBQH khóa XII (2007) có 238 người nộp hồ sơ tự ứng cử, có 30 người được lập
danh sách chính thức [66] (Xem Phụ lục 3).
Quy định thực hành quyền bầu cử, ứng cử ĐBQH tuân theo Luật bầu cử
cùng với việc luật hóa các quy định về hạn chế quyền bầu cử và ứng cử là một bước
tiến mới trong tư duy pháp lý. Nguyên tắc các quyền bầu cử và ứng cử ĐBQH
(thuộc quyền con người) chỉ có thể bị hạn chế bởi văn bản luật và trong trường hợp
cần thiết do luật định. Các quy định này được áp dụng trực tiếp, tránh sự tùy tiện,
bảo đảm tuân thủ nguyên tắc hạn chế quyền con người, quyền công dân theo các
công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, thể hiện nhất quán quan điểm của Nhà
nước về công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
3.1.3.3. Về đơn vị bầu cử và hệ thống bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội
Hệ thống bỏ phiếu đa số tuyệt đối hai vòng tiếp tục được kế thừa và áp dụng
nhưng cách thức phân chia, tổ chức đơn vị bầu cử ĐBQH có sự thay đổi mạnh mẽ
trong thời gian đầu, thể hiện quan điểm đổi mới sâu sắc nhằm tăng tính cạnh tranh,
khắc phục tính hình thức trong bầu cử ĐBQH.
82
Trên cơ sở Nghị quyết số 779NQ/HĐNN7 ngày 06.02.1987 của Hội đồng
nhà nước, trong cuộc bầu cử ĐBQH khóa VIII (1987), các đơn vị bầu cử được thu
hẹp phạm vi chỉ bầu ba đại biểu nhằm đề cao ý thức trách nhiệm đại biểu, tăng
cường mối liên hệ giữa đại biểu với cử tri. Luật bầu cử năm 1992 đã bổ sung quy
định về vấn đề này. Từ 79 đơn vị bầu cử ĐBQH khóa VI (1976) và 93 đơn vị bầu
cử ĐBQH khóa VII (1981) đã tăng lên gần hai lần thành 167 đơn vị trong cuộc bầu
cử ĐBQH khóa VIII (1987) và 158 đơn vị trong cuộc bầu cử ĐBQH khóa IX
(1992). Nhiều đơn vị bầu cử trước đây là một tỉnh, thành phố, được bầu tới mười
đại biểu, thì trong các cuộc bầu cử sau đó đều giảm xuống bầu ba đại biểu.
Cùng với việc chia nhỏ các đơn vị bầu cử, Nghị quyết 779NQ/HĐNN7 và
Luật bầu cử năm 1992 đã lần đầu tiên quy định thực hiện bầu cử có số dư. Đặc biệt,
để bảo đảm tính cạnh tranh một cách thực chất, thực tiễn tổ chức bầu cử cũng đã
chú trọng thực hiện quan điểm giới thiệu những người ứng cử có năng lực và trình
độ tương đương, bảo đảm cho cử tri có nhiều phương án lựa chọn trong bầu cử,
không yêu cầu kết quả bầu cử phải tập trung, người do MTTQ giới thiệu ứng cử
phải trúng cử với số phiếu cao. Do vậy, số người ứng cử tăng lên nhiều so với trước
đây. Trong cuộc bầu cử khóa VIII, có 828 người được giới thiệu (tăng 214 người so
với khóa VII) để bầu 496 đại biểu, đạt tỷ lệ 1,67 lần, cao hơn hẳn những cuộc bầu
cử trước đây (Xem Phụ lục 1).
Quy định pháp luật về tổ chức đơn vị bầu cử được quán triệt áp dụng vào
thực tiễn đã tạo ra sự thay đổi quan trọng trong tiến trình đổi mới chế độ bầu cử
ĐBQH ở nước ta. Qua đó, bước đầu hạn chế tính hình thức, tăng cường tính cạnh
tranh trong bầu cử từ những năm đầu của thời kỳ đổi mới đất nước. Luật bầu cử
ĐBQH năm 1997, các luật sửa đổi, bổ sung (2001 và 2010), Luật bầu cử năm 2015
đã tiếp tục kế thừa và quy định cụ thể hơn về số ĐBQH được bầu, số dư người ứng
cử ở mỗi đơn vị bầu cử. Ngay cuộc bầu cử ĐBQH khóa XII, ở hầu hết các đơn vị
bầu cử đều có số người ứng cử nhiều hơn số đại biểu được bầu ít nhất là hai người,
có 876 người ứng cử để bầu 500 đại biểu (gấp 1,75 lần) [64]. Khóa XIII có 827
người để bầu 500 đại biểu (gấp 1,65 lần) [68]; khóa XIV có 870 người để bầu 500
83
đại biểu (gấp 1,74 lần) [71] (Xem Phụ lục 1).
3.1.3.4. Về quy trình, thủ tục bầu cử đại biểu Quốc hội
Quy trình, thủ tục bầu cử ĐBQH được cải tiến, đổi mới từng bước qua việc
ban hành mới, sửa đổi, bổ sung các luật về bầu cử ĐBQH và cải tiến cách thức tổ
chức triển khai tổ chức bầu cử.
Việc phân bổ cơ cấu, thành phần và số lượng ĐBQH trước đây do Hội đồng
nhà nước, sau này là UBTVQH thực hiện nhưng chưa được pháp luật quy định cụ
thể. Quá trình phân bổ cứng nhắc, có tính áp đặt. Do vậy, Luật bầu cử ĐBQH năm
1997 và các luật sửa đổi, bổ sung sau này đã quy định theo hướng có sự tham gia ý
kiến của các cơ quan, tổ chức, đoàn thể hữu quan ở trung ương và địa phương vào
quá trình phân bổ thông qua các bước hiệp thương và điều chỉnh dự kiến.
Hiệp thương bầu cử đã được cải tiến theo hướng dân chủ, dựa trên quan điểm
đề cao vai trò của cử tri, tin tưởng vào trình độ, ý thức chính trị của nhân dân, tôn
trọng ý kiến của tập thể người lao động ở cơ sở, không gò ép, áp đặt, mệnh lệnh.
Khi cử tri có quyền bày tỏ ý kiến, nếu ý kiến cử tri khác với ý kiến của MTTQ thì
phải xem xét nghiêm túc. Trong trường hợp cần thiết phải thay đổi nhân sự ứng cử
(Nghị quyết 779 NQ/HĐNN7). Luật bầu cử năm 1992 lần đầu tiên quy định cụ thể về
thủ tục hiệp thương, trao quyền cho hội nghị hiệp thương thỏa thuận về cơ cấu, thành
phần và phân bổ số lượng người ứng cử. Cử tri có điều kiện tham gia nhận xét, góp ý
kiến và bày tỏ sự tín nhiệm về người ứng cử. Đây là một bước tiến trong tiến trình
dân chủ hóa đời sống chính trị, thực hiện dân chủ XHCN vào đầu thời kỳ Đổi mới.
Các luật bầu cử được sửa đổi, bổ sung đã tiếp tục quy định cụ thể các bước
hiệp thương bầu cử ĐBQH. Về mặt pháp lý, vai trò chủ trì của MTTQ trong hiệp
thương bầu cử được đề cao. Nội dung hiệp thương không chỉ giới hạn trong việc
giới thiệu nhân sự ứng cử mà còn thỏa thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng
ĐBQH được bầu trên cơ sở dự kiến của UBTVQH và có quyền biểu quyết lựa chọn
người để giới thiệu ứng cử. Quy trình hiệp thương gồm 5 bước. Cách thức tổ chức
giới thiệu người ứng cử của các cơ quan, tổ chức; việc lấy ý kiến cử tri nơi cư trú,
nơi công tác tiếp tục được cải tiến. Mặc dù trên thực tế, công tác hiệp thương còn
84
nhiều bất cập nhưng những sự sửa đổi, bổ sung của Luật bầu cử đã góp phần phát
huy quyền làm chủ của nhân dân vào quá trình giới thiệu người ứng cử ĐBQH.
Những cải tiến, đổi mới quy trình hiệp thương đã góp phần nâng cao chất
lượng người ứng cử ĐBQH. Đồng thời, còn bảo đảm tỷ lệ người tham gia ứng cử và
tỷ lệ thích đáng đại biểu đại diện cho các dân tộc thiểu số, phụ nữ trong Quốc hội.
Luật bầu cử 2015 lần đầu tiên quy định về tỷ lệ ứng cử viên là người dân tộc thiểu
số, phụ nữ. Trong cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV, có 339 người ứng cử là phụ nữ
chiếm tỷ lệ 38,97%; người dân tộc thiểu số là 204 người chiếm 23,45% trong tổng
số 870 người ứng cử ĐBQH cao hơn so với các tỷ lệ này trong cuộc bầu cử khóa
XIII lần lượt là 32,16% và 15,11%. Qua đó thúc đẩy việc thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng và Nhà nước, chiến lược quốc gia và cam kết của Việt Nam về bình
đẳng giới theo công ước quốc tế.
Trên cơ sở ghi nhận quyền ứng cử của công dân, pháp luật trong giai đoạn
này đã quy định cụ thể về quy trình, thủ tục để công dân nộp hồ sơ tự ứng cử
ĐBQH. Những người tự ứng cử phải đáp ứng các tiêu chuẩn của ĐBQH và trải qua
các bước hiệp thương để MTTQ lập danh sách chính thức những người ứng cử
ĐBQH. Tuy nhiên, việc thực hành quyền tự ứng cử gặp nhiều khó khăn ngay từ các
cuộc bầu cử ĐBQH khóa IX (1992), khóa X (1997) [165, tr.27, 163], đến nay vẫn
chưa có giải pháp khắc phục.
Quy trình vận động bầu cử từng bước được đổi mới. Ban đầu, các hội nghị
tiếp xúc cử tri được cải tiến để khắc phục tính hình thức, tạo điều kiện để cử tri nắm
được ý định, chương trình hành động, năng lực và trình độ của ứng cử viên. Việc tổ
chức các hội nghị tiếp xúc cử tri không mang tính chất vận động tranh cử [165, tr.24].
Trải qua các lần sửa đổi, bổ sung, ban hành mới luật bầu cử ĐBQH, quy trình vận
động bầu cử tiếp tục được cải tiến theo hướng đặt ra các nguyên tắc vận động bầu cử,
quy định các hành vi bị cấm, bổ sung thêm hình thức vận động bầu cử qua phương
tiện thông tin đại chúng, đổi mới cách thức tổ chức hội nghị tiếp xúc cử tri, Số
lượng các hội nghị tiếp xúc cử tri vận động bầu cử tăng lên. Cuộc bầu cử ĐBQH
khóa IX (1992) tổ chức được 1.500 hội nghị [165, tr.24], đến khóa XIII (2011) tổ
85
chức được 2.192 hội nghị [15] và khóa XIV (2016) tổ chức được 2.081 hội nghị [16].
Quy trình, thủ tục bỏ phiếu tiếp tục được kế thừa, thực hiện theo nguyên tắc
trực tiếp và kín. Để bảo đảm tính minh bạch, công khai trong quá trình tổ chức bỏ
phiếu và kiểm phiếu, bên cạnh sự chứng kiến của đại diện cử tri, pháp luật về bầu
cử đã bổ sung quy định đại diện của cơ quan, tổ chức giới thiệu người ứng cử, đại
diện người tự ứng cử được ủy nhiệm và phóng viên báo chí được quyền chứng kiến
việc kiểm phiếu. Việc các phóng viên báo chí tham gia giám sát, đưa tin về bầu cử
bắt đầu được thực hiện từ cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV (2016).
3.1.3.5. Về các cơ quan quản lý bầu cử đại biểu Quốc hội
Hệ thống các tổ chức phụ trách bầu cử được đổi mới theo hướng độc lập hơn
về mặt pháp lý. Hội đồng bầu cử ở trung ương được bổ sung thêm một số quyền hạn
trong lãnh đạo tổ chức bầu cử, thành lập thêm Ủy ban bầu cử ở tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương nhằm đáp ứng yêu cầu công tác quản lý bầu cử trong điều kiện
các tỉnh, thành phố được chia thành nhiều đơn vị bầu cử. Nguyên tắc hoạt động theo
chế độ tập thể, biểu quyết theo đa số được ghi nhận. Một số công việc trước đây do
các cơ quan Đảng trực tiếp thực hiện đã chuyển giao cho các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền và các tổ chức phụ trách bầu cử.
Thực hiện Kết luận của Hội nghị trung ương 5 khóa XI về việc “tăng cường
hình thức dân chủ trực tiếp theo hướng hoàn thiện chế độ bầu cử”, Hiến pháp 2013
đã hiến định vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của HĐBCQG. Xác định "thành lập
HĐBCQG nhằm góp phần thể hiện tính khách quan trong chỉ đạo tổ chức bầu cử
ĐBQH, đại biểu HĐND" [149]. Trên cơ sở đó, Luật bầu cử 2015 đã quy định
HĐBCQG do Quốc hội thành lập, Chủ tịch HĐBCQG do Quốc hội bầu, miễn
nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của UBTVQH, các thành viên do Quốc hội phê
chuẩn theo đề nghị của Chủ tịch HĐBCQG. Một số nhiệm vụ trước đây thuộc thẩm
quyền của UBTVQH được chuyển giao cho HĐBCQG thực hiện như công bố số
đơn vị bầu cử và số lượng ĐBQH được bầu; quản lý và phân bổ kinh phí tổ chức
bầu cử ĐBQH. HĐBCQG có bộ máy giúp việc và kinh phí hoạt động do ngân sách
nhà nước đảm bảo. Luật bầu cử cũng quy định mối quan hệ công tác giữa
86
HĐBCQG với UBTVQH, Chính phủ và Ủy ban trung ương MTTQ Việt Nam. Các
quy định này tạo cho HĐBCQG vị trí pháp lý độc lập hơn so với Hội đồng bầu cử
trung ương trước đây, là điều kiện để từng bước cải tiến công tác quản lý bầu cử
ĐBQH theo hướng khách quan, công khai, minh bạch.
3.1.3.6. Về cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử đại biểu Quốc hội
Cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo tiếp tục kế thừa theo mô hình trước đây,
thực hiện theo cơ chế hành chính. Trước yêu cầu giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu
cử ngày càng tăng, các văn bản hướng dẫn bầu cử, Luật bầu cử năm 2015 đã quy
định thành lập tiểu ban giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử thuộc HĐBCQG và
các Ủy ban bầu cử. Tiểu ban là đầu mối tiếp nhận, phân loại, phối hợp và theo dõi
tiến độ giải quyết. Việc xem xét, giải quyết trực tiếp các khiếu nại, tố cáo do các cơ
quan hữu quan thực hiện, tùy thuộc vào nội dung và đối tượng bị khiếu nại, tố cáo.
Cơ chế giải quyết khiếu nại, tố cáo về bầu cử có sự phối hợp của nhiều cơ
quan, tổ chức. Đối với các khiếu nại, tố cáo về người ứng cử ĐBQH thuộc thẩm
quyền xem xét, xác minh của các cơ quan Đảng và chính quyền. Sau khi có kết quả,
cơ quan phụ trách bầu cử đưa ra kết luận. Có một số trường hợp tự nguyện rút,
không tham gia ứng cử hoặc bị xóa tên khỏi danh sách ứng cử. Những trường hợp
khiếu nại, tố cáo phức tạp, không đủ thời gian để kết luận trước cuộc bầu cử được
bàn giao lại để Ủy ban thẩm tra tư cách đại biểu, HĐBCQG hoặc UBTVQH tiếp tục
giải quyết. Trong cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV, có 2 người trúng cử nhưng không
được công nhận tư cách ĐBQH. Đối với các khiếu nại, tố cáo về công tác bầu cử do
các tổ chức phụ trách bầu cử xem xét giải quyết.
Thực hiện đường lối đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, đổi
mới, cải tiến chế độ bầu cử ĐBQH được xác định là giải pháp trọng tâm để cải cách
bộ máy nhà nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát huy dân chủ XHCN. Ngay
trong giai đoạn đầu Đổi mới, chế độ bầu cử ĐBQH có những thay đổi mạnh mẽ
theo hướng tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân, hạn chế trình trạng gò ép, áp đặt,
hình thức, cải thiện tính cạnh tranh Trong nhiều năm tiếp theo, khuôn khổ pháp
luật và thực tiễn tổ chức bầu cử ĐBQH tiếp tục được hoàn thiện theo các định
87
hướng lớn đã được đề ra.
Chế độ bầu cử từ năm 1986 đến nay đã kế thừa và phát huy được những ưu
điểm: (i) Bầu cử theo các nguyên tắc tiến bộ là phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ
phiếu kín; (ii) Quyền tự ứng cử được ghi nhận, quyền bầu cử được thực hành rộng
rãi, cử tri đi bỏ phiếu luôn đạt tỷ lệ rất cao; (iii) Bảo đảm tỷ lệ thích đáng đại biểu
dân tộc thiểu số, phụ nữ trong Quốc hội (đại biểu dân tộc thiểu số chiếm 15-17%,
tương ứng với tỷ lệ dân số; tỷ lệ đại biểu nữ tăng từ 18% khóa VIII lên 26,8% khóa
XIV); (iv) Tính cạnh tranh trong bầu cử được nâng lên qua việc thu hẹp phạm vi
đơn vị bầu cử, tăng số dư người ứng cử, cải thiện chất lượng các ứng cử viên; (v)
Hiến pháp 2013 đã hiến định nguyên tắc quyền con người, quyền công dân, trong
đó có quyền bầu cử và ứng cử chỉ bị hạn chế theo quy định của luật trong trường
hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, đạo đức
xã hội, sức khỏe cộng đồng; quy định HĐBCQG là thiết chế hiến định độc lập đặt
nền móng về mặt pháp lý cho sự hoàn thiện chế độ bầu cử ĐBQH
3.2. Những hạn chế, bất cập của chế độ bầu cử đại biểu quốc hội ở nước
ta hiện nay
Trong hơn ba mươi năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, chế
độ bầu cử ĐBQH đã có những bước đổi mới, phát triển. Tuy nhiên, trước những
biến đổi trên nhiều mặt của đời sống chính trị - xã hội đất nước, đến nay chế độ bầu
cử ĐBQH bộc lộ những hạn chế, bất cập.
3.2.1. Những hạn chế, bất cập trong quy định pháp luật về quyền bầu cử,
ứng cử và thực tiễn thực hiện quyền bầu cử, ứng cử đại biểu Quốc hội
3.2.1.1. Về quyền bầu cử và thực tiễn thực hiện quyền bầu cử đại biểu Quốc hội
Quyền bầu cử ĐBQH của công dân được quy định rất rộng rãi, bảo đảm
nguyên tắc phổ thông trong bầu cử. Các báo cáo tổng kết bầu cử cho thấy cử tri đi
bầu luôn đạt tỷ lệ cao trên 99% (khóa XII đạt tỷ lệ 99,64% [66]; khóa XIII đạt tỷ lệ
99,51% [68]; khóa XIV đạt tỷ lệ 99,35% [71]). Tuy nhiên, thực tiễn bầu cử đang đặt
ra những vấn đề liên quan đến việc bảo đảm thực chất quyền bầu cử và trách nhiệm
chính trị của công dân để bầu cử thực sự dân chủ. Thể hiện ở những điểm sau:
88
- Chưa có cơ chế bảo đảm thực hiện quyền bầu cử của cử tri là công dân Việt
Nam ở nước ngoài. Theo số liệu thống kê năm 2014, có khoảng 4,5 triệu người Việt
Nam định cư ở trên 100 quốc gia và vùng lãnh thổ [21]. Cùng với quá trình toàn cầu
hóa, mở rộng hợp tác quốc tế và khu vực trong những năm qua, số lượng công dân
đi làm việc, lao động, học tập ở nước ngoài theo nhiệm kỳ, có thời hạn ngày càng
nhiều. Vấn đề bảo đảm quyền bầu cử cho công dân Việt Nam ở nước ngoài đã được
đặt ra nhưng đến nay chưa có giải pháp để giải quyết.
- Quyền bãi nhiệm ĐBQH cũng là quyền bầu cử hiểu theo nghĩa rộng nhưng
chưa được quy định cụ thể nên khó thực hiện trong thực tế. Quyền bãi nhiệm
ĐBQH của cử tri được quy định từ Hiến pháp 1946. Tuy vậy, việc tổ chức để cử tri
bãi nhiệm đại biểu mới chỉ được một lần vào năm 1979 ở đơn vị bầu cử số 4 tỉnh
Thanh Hóa [110, tr.785]. Cử tri không có điều kiện để bãi nhiệm đại biểu đã làm
hạn chế quyền bầu cử của cử tri, nhất là trong bối cảnh thực hiện chủ trương tăng
cường các hình thức dân chủ trực tiếp để người dân phát huy quyền làm chủ của
mình. GS. TS. Trần Ngọc Đường cho rằng, chế độ bãi nhiệm đại biểu cũng có ý
nghĩa chính trị và pháp lý quan trọng như chế độ bầu ra người đại biểu [51, tr.117],
công dân có quyền bầu cử mà không có quyền bãi nhiệm thì quyền bầu cử mang
tính hình thức [51, tr.190].
- Quyền bầu cử thêm, bầu cử bổ sung ĐBQH của cử tri để bảo đảm quyền
được đại diện không có tính khả thi. Cuộc bầu cử ĐBQH khóa XII bầu thiếu 7 đại
biểu (TP. Hồ Chí Minh thiếu 3 đại biểu) nhưng không tổ chức bầu cử bổ sung.
Trong cuộc bầu cử ĐBQH khóa XIV, bầu cử lần đầu thiếu 6 đại biểu ở 5 tỉnh, thành
phố. Tuy nhiên, chỉ có Thành phố Cần Thơ được tổ chức bầu cử bổ sung 2 đại biểu.
Điểm đáng lưu ý là đa số những đơn vị không bầu cử bổ sung là các đơn vị chỉ bầu
thiếu đại biểu thuộc cơ cấu kết hợp (nữ, dân tộc thiểu số, trẻ tuổi và tái cử). Nhiều
tỉnh, thành phố khuyết đại biểu trong nhiệm kỳ nhưng không được bầu cử bổ sung.
Hiện nay, Luật bầu cử 2015 quy định chỉ tổ chức bầu cử bổ sung khi thiếu trên
mười phần trăm tổng số ĐBQH đã làm cho quyền bầu cử bổ sung ĐBQH khó có cơ
hội được thực hiện.
89
- Chưa có cơ chế để cử tri có đầy đủ thông tin về người ứng cử trước khi
quyết định bỏ phiếu lựa chọn người đại diện cho mình. Cử tri chủ yếu vẫn dựa vào
những thông tin được cung cấp qua tiểu sử được niêm yết. Theo một kết quả khảo
sát năm 2011 thì có 59.5% số người được hỏi cho biết đã sử dụng kênh thông tin
này. Tuy nhiên, cử tri thường chỉ đến điểm bỏ phiếu trong thời gian rất ngắn vào
ngày bầu cử nên không có nhiều thông tin để lựa chọn đại biểu [164, tr.25]. Thực tế
đó làm cho việc lựa chọn của cử tri trở nên cảm tính. Hơn nữa, việc tổ chức đồng
thời hai cuộc bầu cử cùng một thời điểm với số lượng rất nhiều ứng cử viên thì cử
tri càng khó khăn hơn khi tìm hiểu về người ứng cử.
- Cử tri không có nhiều cơ hội gi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_doi_moi_che_do_bau_cu_dai_bieu_quoc_hoi_o_nuoc_ta_hi.pdf