Luận án Đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 7

1.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài 7

1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước 13

Chương 2: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC TUYÊN

TRUYỀN CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP

QUỐC TẾ 20

2.1. Những vấn đề lý luận về tuyên truyền và công tác tuyên

truyền của Đảng 20

2.2. Những vấn đề lý luận về hội nhập quốc tế và yêu cầu của hội

nhập quốc tế đối với công tác tuyên truyền của Đảng 34

Chương 3: THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CÔNG

TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU

HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 58

3.1. Thực trạng công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu

hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 58

3.2. Vấn đề đặt ra đối với công tác tuyên truyền của Đảng đáp

ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 97

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI CÔNG

TÁC TUYÊN TRUYỀN CỦA ĐẢNG ĐÁP ỨNG YÊU CẦU

HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 102

4.1. Phương hướng đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp

ứng yêu cầu hội nhập quốc tế 102

4.2. Giải pháp về đổi mới công tác tuyên truyền đáp ứng yêu cầu

hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay 103

KẾT LUẬN 140

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG

BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 145

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 146

pdf159 trang | Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 621 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đổi mới công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hân dân. Nhiều ấn phẩm có chất lượng vừa có giá trị định hướng, vừa gắn với thực tiễn, góp phần nâng cao hiệu quả tuyên truyền của Đảng, nhưBáo nhân dân, Tạp chí Cộng sản, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật; các tạp chí của các cơ quan (cán Ban) như Tạp chí Lý luận chính trị (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chi Minh), Tạp chí Tuyên giáo (Ban Tuyên giáo Trung ương), Tạp chí Thông tin đối ngoại (Ban Tuyên giáo Trung ương), Tạp chí Dân vận (Ban Dân vận Trung ương), Tạp chí Xây dựng Đảng (Ban Tổ chức Trung ương), v.v.bằng tạp chí in, tạp chí điện tử, tiếng Việt và nhiều thứ tiếng trên thế giới thu hút sự chú ý của được bạn đọc trong và ngoài nước; các Báo của các Tỉnh ủy, Thành ủy trực thuộc Trung ương [39]. Thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW ngày 25/3/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khóa 9) khẳng định: Sự nghiệp xuất bản là một lĩnh vực hoạt động tư tưởng sắc bén của Đảng, Nhà nước và nhân dân; là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, thời gian qua ngành xuất bản đang cố gắng thực hiện: các nhà xuất bản là những cơ quan làm nhiệm vụ tư tưởng - văn hóa, với các ấn phẩm tốt, định hướng cho bạn đọc và xã hội phát triển đúng đắn, góp phần giữ vững ổn định chính trị tư tưởng, góp phần bảo vệ các giá trị truyền thống của dân tộc và cổ vũ động viên các cấp, các ngành, các địa phương tham gia tích cực hội nhập khu vực và quốc tế. Để khắc phục từng bước tình trạng cơ sở vật chất của CTTT không đáp ứng yêu cầu HNQT, Đảng đã ban hành Quyết định 100 nhằm tạo điều kiện 72 thuận lợi cho các cơ quan tuyên truyền hoạt động. Từ 2007 đến nay, nhiều nơi đã tăng cường một bước cơ sở vật chất và phương tiện cho CTTT của Đảng như trang bị máy thu hình, thu thanh, ghi âm, projector, máy tính xách tay cho cán bộ tuyên giáo; nhiều nơi được trang bị máy fax, máy photocopy. Hệ thống báo chí, xuất bản trong địa bàn cả nước đã phát triển nhanh cả về số lượng, hình thức và nội dung đáp ứng yêu cầu thông tin phong phú, nhanh, nhạy của nhân dân. Tại nhiều công sở, cơ quan tuyên truyền đều đã được lắp đặt wifi phục vụ nhu cầu cập nhật và đưa thông tin kịp thời hơn. Phát hành các tài liệu tuyên truyền, hoạt động thông tin tuyên truyền của các báo cáo viên, tuyên truyền viên đã giúp cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận rõ âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch đồng thời chủ động trong HNQT. Tổ chức bộ máy làm CTTT của Đảng được chú trọng, đầu tư và từng bước đáp ứng yêu cầu của NHQT. Trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập, tình hình quốc tế có nhiều diễn biến, khó lường, đời sống tư tưởng thế giới tiếp tục ngày càng phức tạp trước sự hiện diện, cạnh tranh giữa nhiều khuynh hướng tư tưởng khác đã ảnh hưởng tới sự phát triển của đất nước. Trước điều kiện mới của HNQT này, bộ máy làm CTTT của Đảng càng có vai trò quan trọng trong việc tạo ra sự thống nhất về tư tưởng hành động và sức mạnh tổng hợp cho thành công của HNQT của Việt Nam. Chẳng hạn, Ban Tuyên giáo với chức năng tham mưu cho cấp ủy về công tác tư tưởng, trực tiếp chỉ đạo, kiểm tra, hướng dẫn, đôn đốc đánh giá hoạt động của công tác tuyên truyền để báo cáo cấp ủy. Đã chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch tuyên truyền đồng thời chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ cho Ban Tuyên giáo cấp dưới. Với vai trò là nòng cốt trong CTTT, Ban Tuyên giáo các cấp đã làm tốt chức năng thông tin tuyên truyền các chỉ thị, nghị quyết tới đông đảo các tầng lớp nhân dân. Hoạt động tuyên truyền chú trọng từ tuyên truyền trực quan đến nắm và định hướng dư luận xã hội. Đã kịp thời tham mưu cho Đảng nghiên cứu và phát triển lý luận cũng như tổng kết thực 73 tiễn trong từng giai đoạn của HNQT. Hệ thống tuyên giáo các cấp được xây dựng và kiện toàn theo hướng nâng cao chất lượng, đảm bảo số lượng. Hoạt động tuyên truyền của báo cáo viên, tuyên truyền viên của Đảng. Đội ngũ báo cáo viên được kiện toàn về tổ chức, bộ máy, được cung cấp tài liệu và đảm bảo các điều kiện thông tin để nâng cao trình độ nghiệp vụ. Họ đã góp phần quan trọng vào việc đưa đường lối, chính sách của đảng đến với quần chúng, góp phần nắm tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Hàng năm Ban Tuyên giáo Trung ương mở các lớp bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo các tỉnh thành, ngành và đoàn thể; thường xuyên bồi dưỡng, cung cấp thông tin cho đội ngũ báo cáo viên cũng như nâng cao chất lượng hoạt động của Trung tâm thông tin công tác tư tưởng. Các hoạt động bồi dưỡng nghiệp vụ tuyên truyền, thông tin, cổ động, báo chí, xuất bản, tuyên truyền miệng, diễn ra thường xuyên và có kết quả hơn. Ngày càng có nhiều hơn, chất lượng hoạt động chuyên nghiệp hơn các cơ quan đại diện và phóng viên của các cơ quan thông tin, tuyên truyền của Đảng ở các nước và các tổ chức quốc tế. Đến nay bộ máy trực tiếp làm công tác tuyên truyền của Đảng ở Trung ương gồm có hơn 300 người; trong đó: giáo sư, phó giáo sư 4,6%; tiến sỹ, thạc sỹ 26%; đại học, cao đẳng 55%; trình độ lý luận cử nhân và cao cấp 40,8% [128]. Ban Tuyên giáo cấp tỉnh, thành phố có từ 20 - 25 cán bộ. Các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có trung bình khoảng 45 - 50 người gồm từ 5 - 7 phòng chuyên môn. Trưởng ban Tuyên giáo là ủy viên thường vụ tỉnh, thành ủy. Trung tâm thông tin công tác tư tưởng cấp tỉnh có biên chế từ 5 - 7 người. Các đơn vị còn lại giao cho phòng tuyên truyền, riêng khối các cơ quan Trung ương, Đảng ủy Khối doanh nghiệp Trung ương đã thành lập Trung tâm bồi dưỡng chính trị. Đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp tỉnh có khoảng 70% có trình độ đại học trở lên, còn lại là cao đẳng. Trình độ lý luận chính trị cử nhân và cao cấp chiếm 52,36% [15]. Ban Tuyên giáo cấp huyện có từ 3 - 6 cán bộ, Trưởng Ban Tuyên 74 giáo là ủy viên thường vụ cấp huyện. Về trình độ học vấn tiến sỹ, thạc sĩ 3,42%. Đại học 76,02%, cao đẳng 5,7%. Các đồng chí công tác tại Ban Tuyên giáo cấp huyện có trình độ lý luận từ cao cấp trở lên chiếm 52,91% [15]. Đến nay đã có gần 6000 cán bộ tuyên giáo chuyên trách cấp xã, còn lại là kiêm nhiệm. Đây cũng là sự quyết tâm rất lớn của các cấp ủy Đảng địa phương tới bộ máy tuyên giáo cấp xã, nơi trực tiếp đưa Nghị quyết chủ trương của Đảng và Nhà nước tới người dân. Mặc dù Trung ương chưa có quy định chính thức về bộ máy, tổ chức và cán bộ đối với mô hình Ban tuyên giáo cấp xã nhưng xuất phát từ tình hình thực tế của CTTT của Đảng, cần thiết phải tăng cường cán bộ tuyên truyền cho Đảng tại địa bàn và quan trọng để tạo hiệu quả công tác thông tin tuyên truyền, nên những tỉnh thành đã chủ động bố trí sắp xếp bộ máy và xây dựng cơ chế hoạt động cho đội ngũ này. Đến nay, mô hình Ban tuyên giáo cấp xã hoạt động bước đầu có kết quả và khẳng định vai trò cần thiết phải có Ban tuyên giáo cấp xã, làm cho CTTT của Đảng đến tận các tổ dân phố, cụm dân cư, ấp, bản làng. Phần lớn cán bộ hệ thống tuyên giáo từ Trung ương tới địa phương có trình độ và được đào tạo từ chuyên môn khác nhau, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, tâm huyết với nghề nghiệp. Các cấp ủy Đảng đã chú trọng quan tâm từ khâu tuyển chọn, đến bồi dưỡng đào tạo, qua đó đã góp phần nâng cao chất lượng, đảm bảo số lượng nhiều cán bộ tuyên giáo có trình độ cao, cán bộ được rèn luyện trong thực tiễn công tác tuyên giáo và bồi dưỡng nghiệp vụ thường xuyên. - Từ sự phân tích trên đây đã cho thấy ở những giai đoạn này của HNQT, CTTT của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng mà tổng quan lại đó là: + Về chất lượng tuyên truyền: Thực tiễn cho thấy, CTTT của Đảng thời gian qua đã ngày càng chủ động, sáng tạo, nhận thức rõ các yêu cầu đổi mới để hoàn thành mục tiêu đề 75 ra.Nói đến CTTT của Đảng, trước hết là nhiệm vụ tiến hành nghiên cứu và phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn, giải đáp cho được những câu hỏi do HNQT đặt ra. CTTT của Đảng đã từng bước hoàn thiện và phát triển hệ tư tưởng, góp phần xây dựng đường lối chiến lược, đề ra các biện pháp sách lược cho công cuộc HNQT. Xây dựng và bổ sung những chuẩn mực và thang bậc giá trị, đạo đức qua từng giai đoạn hội nhập. Công tác tuyên truyền của Đảng đã thực hiện việc truyền bá lý luận và tuyên truyền, cổ động ngày càng có tính thuyết phục, đi vào lòng người, củng cố lòng tin và thống nhất hành động. Phương pháp và hình thức tuyên truyền từng bước đáp ứng và phù hợp với điều kiện khách quan của hội nhập, đặc điểm tâm lý và trình độ nhận thức của các tầng lớp nhân dân. Trong cuộc đấu tranh với âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, CTTT của Đảng đã đấu tranh kiên quyết với các tư tưởng đối lập, lạc hậu và thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng trên mọi cấp độ và phương diện, từng bước làm thất bại âm mưu và thủ đoạn của chúng. Công tác tuyên truyền là nhiệm vụ của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên, do đặc điểm của CTTT cần thiết phải có lực lượng chuyên môn, những người làm CTTT. Việc tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ được Đảng quan tâm, từng bước kiện toàn, tạo điều kiện đội ngũ này đáp ứng yêu cầu CTTT trong từng giai đoạn cách mạng, chính điều này có ý nghĩa quan trọng đến nâng cao hiệu quả CTTT của Đảng trước yêu cầu HNQT. + Về hiệu quả tuyên truyền: Thứ nhất, CTTT của Đảng đã và đang tranh thủ, tận dụng thời cơ, đổi mới và đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động tuyên truyền, xây dựng chiến lược phát triển CTTT phù hợp với tình hình mới. CTTT của Đảng đã góp phần tạo thế và lực cho Việt Nam trong HNQT. Những năm qua việc thực hiện chủ trương chủ động HNQT của Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát 76 triển kinh tế - xã hội, gia tăng sức mạnh tổng hợp quốc gia, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; cải thiện đời sống nhân dân, củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới; nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Quan hệ giữa nước ta với các nước trên thế giới ngày càng đi vào chiều sâu; hợp tác về chính trị, quốc phòng, an ninh, văn hóa, xã hội và các lĩnh vực khác được mở rộng. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện; năng lực cạnh tranh quốc gia và của các doanh nghiệp được nâng lên; đội ngũ doanh nhân nước ta đã có bước trưởng thành đã tranh thủ được khối lượng lớn vốn đầu tư, tri thức, công nghệ và các nguồn lực quan trọng khác, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đã có sự đổi mới mạnh mẽ tư duy về xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh HNQT. Năng lực của đội ngũ cán bộ từ Trung ương đến địa phương được nâng lên một bước; tổ chức, bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước về hội nhập quốc tế và các hoạt động đối ngoại khác được quan tâm củng cố. Công tác tuyên truyền của Đảng đã giữ vai trò quan trọng trong giữ gìn sự ổn định chính trị - xã hội; góp phần đảm bảo cho hệ thống chính trị vận hành tốt, quyền lực chính trị và quyền lực Nhà nước được thực thi trên thực tế. Đảng đã tập trung tuyên truyền xây dựng nền dân chủ XHCN; phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân do nhân dân và vì nhân dân. Bằng việc mở các lớp, các Hội nghị quán triệt, thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tấn báo chí về mục tiêu, yêu cầu, nguyên tắc cơ bản của sự nghiệp đổi mới, về con đường đi lên CNXH của Việt Nam hay cập nhật những kết quả đạt được trong quá trình thực hiện chủ trương, đường lối đổi mới, những bất cập, băn khoăn, tâm 77 tư nguyện vọng của nhân dân được phản ánh kịp thời đã giúp nhân dân tuyên truyền ngấm sâu vào các tầng lớp nhân dân trong cả nước. Thứ hai, CTTT của Đảng đã tập trung động viên các tầng lớp nhân dân hưởng ứng tích cực các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng lối sống văn hóa lành mạnh cho nhân dân góp phần xây dựng đối với phát triển toàn diện. Trong những năm qua, việc tuyên truyền đạo đức cách mạng, lối sống văn hóa cho nhân dân được chú trọng. Các nội dung tư tưởng được tiến hành ở khắp các lĩnh vực. CTTT của Đảng đã tập trung tuyên truyền người dân sống có đạo đức cách mạng, yêu Tổ quốc Việt Nam XHCN, đoàn kết cộng đồng, giúp nhau vượt qua khó khăn gian khổ, có tinh thần quốc tế trong sáng. Đặc biệt, CTTT của Đảng đóng góp vào những kết quả HNQT của Việt Nam cho đến nay: Trên lĩnh vực kinh tế: Đến nay, Việt Nam đã tham gia tích cực vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế khu vực và thế giới, bình thường hóa quan hệ với nhiều thể chế tài chính khu vực và quốc tế. Khái quát: Tháng 1/1995 gửi đơn gia nhập và tiến hành đàm phán với WTO; tháng 6/1995 gia nhập ASEAN; tháng 3/1996 trở thành sáng lập viên ASEM; tháng 11/1998 trở thành thành viên APEC; tháng 1/2006 tham gia AFTA; tháng 11/2006 tham gia WTO, tháng1/2007 là thành viên chính thức WTO; thiết lập quan hệ thương mại với các thể chế tài chính, tiền tệ quốc tế IMF, WB, ADB, v.v.; có quan hệ ngoại giao với 181 nước; quan hệ kinh tế - thương mại với trên 200 nước và vùng lãnh thổ; nhận đầu tư từ hơn 70 quốc gia và vùng lãnh thổ; tổng kim ngạch ngoại thương đã vượt hơn rất nhiều so với tổng sản phẩm trong nước. Cũng với các thị trường chủ lực là Nhật Bản, ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, EU, Hoa Kỳ, Nga Australia, hàng hóa Việt Nam đã vươn ra nhiều thị trường lớn khác như Trung Đông, Mỹ Latinh và Châu Phi. Đặc biệt, tháng 10/2015 chính thức thông qua Hiệp định Đối tác Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) với sự tham gia của 12 nước xuyên Thái Bình Dương và dự kiến ký kết chính 78 thức vào tháng 2/2016 (Ngày 05/10/2015, sau hơn 5 năm đàm phán, Hiệp định Đối tác Thương mại xuyên Thái Bình Dương (TPP) chính thức được thông qua tại Atlanta (Hoa Kỳ), với sự tham gia của 12 nước Australia, Bru- nây, Ca-na-đa, Chi-lê, Nhật Bản, Ma-lai-xi-a, Mê-hi-cô, Niu Di-lân, Pê-ru, Xinh-ga-po, Hoa Kỳ và Việt Nam. Hiệp định TPP được xem là hình mẫu cho hợp tác kinh tế khu vực trong những năm đầu của thế kỷ XXI. Hiệp định TPP (gồm 30 chương) đề cập không chỉ các lĩnh vực truyền thống như hàng hóa, dịch vụ, đầu tư mà còn cả các vấn đề mới như thương mại điện tử, tạo thuận lợi cho dây chuyền cung ứng, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp vừa và nhỏ. Lễ ký kết chính thức Hiệp định TPP được nhất trí diễn ra ngày 04/02/2016 tại New Zealand) [58]. Trên lĩnh vực chính trị: Đưa đất nước thoát khỏi cô lập về chính trị, nâng cao vị thế và uy tín chính trị của Việt Nam trên trường quốc tế. Khái quát: Bình thường hóa quan hệ Việt - Trung; tháng 7/1995 bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ; tháng 6/1995, trở thành thành viên của ASEAN, xây dựng Cộng đồng ASEAN (dựa trên 3 trụ cột là cộng đồng kinh tế, cộng đồng chính trị - an ninh, cộng đồng văn hóa - xã hội); tháng 3/1996 tham gia ASEM cả trong lĩnh vực chính trị và ngoại giao; năm 2001 xác lập mối quan hệ đối tác chiến lược với Nga. Tháng 7/2007 ký tuyên bố chung về đối tác chiến lược mới với Ấn Độ; tháng 10/2007 trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; củng cố và phát triển quan hệ ba nước Đông Dương; thúc đẩy quan hệ hợp tác nhiều mặt với Nhật Bản; ký nhiều hiệp định với hầu hết các nước EU; tham gia hầu hết các tổ chức, diễn đàn quan trọng trên thế giới [58]. Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội: Văn hóa, xã hội của các nước ngày càng tác động và du nhập vào Việt Nam và văn hóa, hội của Việt Nam cũng ngày càng ra với thế giới. Khái quát: Đa dạng hóa các hình thức giao lưu văn hóa với thế giới (festival, du lịch, lễ hội, hội thi; liên hoan nghệ thuật, điện ảnh, 79 sân khấu; hội thảo, triển lãm; lễ hội văn hóa, tôn giáo; công nhận di sản thế giới; hợp tác trên các lĩnh vực y tế (phòng chống dịch bệnh, chăm sóc sức khỏe, v.v.; phòng chống thiên tai, bảo vệ môi trường, v.v.; tham gia nhiều tổ chức quốc tế về văn hóa, xã hội. Trên lĩnh vực quốc phòng - an ninh: Mở rộng hợp tác với các nước, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển kinh tế - xã hội. Khái quát: Hoàn thành phân định biên giới trên bộ với các nước láng giềng, tiến hành cắm mốc biên giới, phân định ranh giới lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế trong Vịnh Bắc Bộ, Vịnh Thái Lan; tham gia nhiều cơ chế hợp tác quốc phòng - an ninh của khu vực và thế giới (Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng các nước ASEAN; diễn đàn khu vực ASEAN (ARF); tổ chức Cảnh sát quốc tế (INTERPOL) [58]. Khái quát, CTTT của Đảng đã có những đóng góp vào việc thực hiệnnhững bước đi thận trọng, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, từng bước xây dựng và hoàn thiện đường lối, chính sách HNQT một cách phù hợp. 3.1.1.2. Nguyên nhân của những kết quả - Nguyên nhân khách quan Thứ nhất, những thành tựu trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại của đất nước trong 30 năm đổi mới và hộinhập quốc tế vừa qua là thực tiễn sinh động làm căn cứ, cơ sở thuyết phục cho CTTT của Đảng. Thứ hai, những thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, nhất là công nghệ thông tin, sự phát triển của các giao lưu quốc tế và hợp tác quốc tế; nội dung thông tin ngày càng đa dạng, phong phú, v.v. đã giúp cho CTTT của Đảng có nhiều thuận lợi, nhanh chóng và kịp thời hơn. - Nguyên nhân chủ quan Thứ nhất, đó là sự quan tâm tập trung lãnh đạo, chỉ đạo các cấp ủy Đảng đối với CTTT. Đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết chuyên đề về công 80 tác tư tưởng, trong đó có công tác tuyên truyền, đặc biệt là Nghị quyết Trung ương 5 (khóa X) về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trong tình hình mới. Đã chú trọng ban hành một số chủ trương, quan điểm của Đảng về lĩnh vực tuyên truyền. Thứ hai, sự phối hợp thường xuyên và chặt chẽ giữa các nội dung và hình thức của công tác tuyên truyền ngày càng có hiệu quả, như: tuyên truyền miệng, báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, thông tin đối ngoại. Thứ ba, đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền trên tất cả các lĩnh vực: báo chí, xuất bản, văn hóa, văn nghệ, thông tin, cổ động, v.v. được rèn luyện và trưởng thành hơn trong thực tiễn cuộc sống, được kế thừa truyền thống cách mạng, truyền thống anh hùng của Đảng và dân tộc. Phần lớn có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng với sự nghiệp đổi mới. Đồng thời với việc phát huy sức mạnh của các binh chủng làm công tác tư tưởng, cán bộ, các ngành, các cấp và toàn dân tham gia làm công tác tuyên truyền thì đội ngũ cán bộ chuyên trách của ban tuyên giáo luôn giữ vai trò nòng cốt. Thứ tư, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ CTTT của Đảng được bổ sung, nâng cấp, từng bước như các trạm tin, điểm xây dựng pa-nô tấm lớn, bảng tin điện tử, phương tiện cho cán bộ tuyên truyền. 3.1.2. Hạn chế của công tác tuyên truyền của Đảng đáp ứng yêu cầu của hội nhập quốc tế ở Việt Nam và nguyên nhân 3.1.2.1. Hạn chế của công tác tuyên truyền - Hạn chế về nội dung tuyên truyền: Hạn chế lớn nhất của nội dung tuyên truyền là việc thể hiện tính lý luận của CTTT còn nhiều lạc hậu. Thông thường, CTTT thường tiến hành tuyên truyền những chủ trương, đường lối mang tính chất lý luận của Đảng. Tuy nhiên, bản thân CTTT cũng còn chưa bắt kịp và nắm hết được những nội dung để tuyên truyền. Nhiều chủ trương, đường lối của Đảng mới được đưa 81 ra, nhưng cán bộ tuyên truyền chưa cập nhật, dẫn đến nhiều nội dung phải mất thời gian dài mới được tiếp cận được và tuyên truyền cho nhân dân. Chính vì vậy, CTTT làm cho lý luận bị lạc hậu so với thực tiễn. Cán bộ tuyên truyền trình độ chưa cao và đồng đều, chưa năng động, kịp thời nắm bắt đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Chưa có sự bổ sung, cập nhật thường xuyên vào nội dung tuyên truyền, nên CTTT vẫn có nhiều vấn đề trùng lặp, hoặc không có hiệu quả, thậm chí sai luật, sai đường lối. Việc cung cấp thông tin thường xuyên, liên tục, còn hạn chế dẫn đến CTTT kém hiệu quả. Khả năng, trình độ nhận thức và vận dụng lý luận vào thực tiễn của cán bộ tuyên truyền còn kém, dẫn đến không chính xác, hoặc không bắt kịp với thực tiễn, làm cho nội dung của CTTT thường bị lặp đi lặp lại, mang tính hình thức, rập khuôn, máy móc, không tạo ra sự hứng thú cho người được tuyên truyền. Từ việc, không có sự đổi mới về mặt nội dung, cho nên ảnh hưởng kéo theo đến việc sử dụng phương pháp, phương tiện thông tin, hiệu quả của CTTT kém, chưa đạt được yêu cầu mong muốn. Nội dung tuyên truyền về HNQT, cung cấp tình hình các bước đi của hội nhập cho công nhân các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, xí nghiệp liên doanh còn bất cập, rất khó khăn và hầu như chưa thực hiện được nhiều vì yếu tố thời gian chủ yếu là lao động sản xuất, không còn thời gian để tiếp nhận các thông tin, hoặc chủ doanh nghiệp không quan tâm tới vấn đề này. Việc nghiên cứu, lựa chọn nội dung thông tin để cung cấp cho cán bộ, đảng viên trong sinh hoạt Đảng chưa thực sự được coi trọng, còn khá nhiều các chi bộ không thường xuyên thực hiện cung cấp thông tin về HNQT tại buổi sinh hoạt chi bộ. Có tới 95% các chi bộ không có hoặc có ít các tài liệu liên quan tới HNQT. Do cập nhật thông tin chậm, nội dung cố định, máy móc dẫn đến có nhiều nơi che giấu thông tin. Đây là một trong những hạn chế nguy hiểm đối với CTTT. Thông tin với mục đích là hướng đến cho người dân biết và nắm 82 được; nhưng nếu thông tin bị che giấu, sẽ là nguy cơ mất ổn định lớn trong xã hội. Bởi thông tin bị bưng bít hoặc lảng tránh các vấn đề nhân dân tìm hiểu sẽ khiến cho người dân hiểu không đúng về đường lối, tình hình gây nghi ngờ, phân tâm của người dân vào các cơ quan Đảng, chính quyền. Điều này sẽ tạo điều kiện cho những thế lực thù địch xuyên tạc sự thật, bôi nhọ, nói xấu chính quyền và toàn Đảng, gây mất ổn định chính trị - xã hội. Chẳng hạn, con đường đi lên CNXH ở nước ta là như thế nào, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ra sao trong bối cảnh HNQT ngày càng rộng rãi và sâu sắc. Trong sự lạc hậu của lý luận, có trách nhiệm lớn của CTTT, trong đó những vấn đề do thực tiễn đề ra như các nguy cơ chưa bị đẩy lùi, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ Đảng viên, sự xuống cấp đạo đức trong xã hội, sự suy giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, v.v. đã không được CTTT phản ánh một cách đầy đủ chân thực. Nhiều thông tin bị che giấu vì cho rằng nếu biết, sẽ gây dư luận không tốt ảnh hưởng tới nhận thức niềm tin của nhân dân vào Đảng; hoặc nhiều thông tin định hướng đến với nhân dân còn chậm, qua nhiều cơ quan bộ phận kiểm duyệt rồi mới đến với nhân dân. Đó là chưa kể những tin đồn lan tràn trong nhân dân và không được quan tâm làm rõ, kịp thời đã gây những hoài nghi, nghi ngờ. Sự vào cuộc chưa chủ động, lúng túng trong việc tham mưu của cơ quan tuyên truyền với các cơ quan có trách nhiệm trong xử lý thông tin đã gây ra nhiều bức xúc không đáng có của nhân dân về quan điểm, thái độ và cách xử lý của các cơ quan hữu quan trước những vấn đề này.Nếu những vấn đề này không được giải quyết triệt để sẽ không những không đạt được kết quả tuyên truyền, thậm chí còn làm tăng nguy cơ gây mất ổn định chính trị, hậu quả càng nặng nề hơn. Có thể thấy điều đó qua dẫn chứng như vấn đề mở rộng địa giới hành chính Hà Nội; vấn đề cắm mốc biên giới Việt - Trung; vấn đề bô-xít ở Tây Nguyên; vấn đề thái độ và cách làm của Việt Nam trước hành động ngang ngược của Trung Quốc tại Biển Đông; các vụ lộn xộn, phá phách 83 của phần tử xấu ở các khu công nghiệp ở Hà Tĩnh, Bình Dương khi Tàu khoan 981 của Trung Quốc xâm phạm lãnh hải Việt Nam. Thứ hai, CTTT thiếu chủ động, sắc bén trong xử lý với việc xâm nhập của các quan điểm thù địch sai trái đang lan truyền trong xã hội. Lợi dụng chủ trương mở cửa hội nhập, các thế lực thù địch và những phần tử cơ hội, bằng các phương tiện hiện đại, chúng truyền bá, tán phát một khối lượng khổng lồ những tài liệu phản động, phá hoại về mặt tư tưởng trong Đảng và nhân dân. Theo số liệu thống kê của Ban Tuyên giáo Trung ương năm 2013, chúng tung vào Việt Nam 18.321 tài liệu, năm 2014 chúng tung vào Việt Nam 29.098 tài liệu, quý I năm 2015 chúng tung vào Việt Nam 8060 tài liệu để chống phá ta. Trong khi đó, chúng ta chưa có chiến lược công tác tư tưởng dài hạn. Mặc dù bộ Thông tin truyền thông mà trực tiếp là Cục An toàn thông tin các doanh nghiệp cùng các dịch vụ viễn thông đã có các biện pháp kiểm tra, xử lý tình trạng này vẫn còn nhiều bởi phức tạp. Người dân vẫn có thể dễ dàng đọc được các thông tin sai phạm trên internet và việc quản lý này vẫn còn khó khăn. Cuộc thăm dò dư luận năm 2014, do Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội Ban Tuyên giáo Trung ương thực hiện cho thấy 45% nhân dân cho rằng hoạt động phá hoại tư tưởng của kẻ thù tác động đến sự phai nhạc lý tưởng cách mạng, lý tưởng xã hội chủ nghĩa trong xã hội. Gần đây, chúng trắng trợn dựng đứng các sự kiện không có thật để xuyên tạc lịch sử, v

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftv_doi_moi_cong_tac_tuyen_truyen_cua_dang_dap_ung_yeu_cau_hoi_nhap_quoc_te_o_viet_nam_hien_nay_2845.pdf
Tài liệu liên quan