MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUANĐẾN ĐỀ TÀI5
1.1. Nghiên cứu về chính sách tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế tại Cộng
hòa dân chủ nhân dân Lào5
1.2. Nghiên cứu về chính sách tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế tại Việt Nam 11
1.3. Nghiên cứu về chính sách tiền tệ và hội nhập kinh tế quốc tế tại các
quốc gia trên thế giới19
1.4. Luận án tiến sĩ quản lý kinh tế với đề tài "Đổi mới điều hành chính sách
tiền tệ của ngân hàng nước cộng hòa dân chủ nhân dân lào trong quá
trình hội nhập kinh tế quốc tế" của nghiên cứu sinh SantyPhonmeuanglao22
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ ĐIỀU
HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI
NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ24
2.1. Cơ sở lý luận về chính sách tiền tệ 24
2.2. Cơ sở lý luận về điều hành chính sách tiền tệ trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế31
2.3. Cơ sở lý luận về điều hành chính sách tiền tệ tác động tới nền kinh tế
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế53
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Chương 3: THỰC TRẠNG ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA
NGÂN HÀNG NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ70
3.1. Bối cảnh kinh tế vĩ mô của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào 70
3.2. Điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nước Cộng hòa dân chủ
nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế75
3.3. Đánh giá thực trạng điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế110
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3Chương 4: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ĐIỀU HÀNH CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
CỦA NGÂN HÀNG NƯỚC CỘNG HÒA DÂN CHỦ NHÂN DÂN
LÀO TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ126
4.1. Định hướng phát triển kinh tế và điều hành chính sách tiền tệ của nước
Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào đến năm 2020126
4.2. Những giải pháp hoàn thiện điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng
nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tếquốc tế132
4.3. Một số khuyến nghị 160
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
KẾT LUẬN 169
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN
171
TÀI LIỆU THAM KHẢO 172
189 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 515 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ của ngân hàng nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trạng
và kết quả điều hành CSTT của Ngân hàng nước CHDCND Lào trong 4 giai đoạn:
(1) từ năm 1997 đến năm 2002, (2) từ năm 2003 đến năm 2005, (3) từ năm 2006
đến 2010, và (4) từ năm 2011 đến nay.
3.2.2.1. Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2002: Chính sách tiền tệ thắt chặt
nhằm kiềm chế lạm phát
Năm 1996, Quốc hội Lào đã ban hành Nghị quyết đại hội đảng lần thứ VI,
thông qua Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 4 (1996 - 2010). Theo
đó, các mục tiêu kinh tế đặt ra cho giai đoạn này bao gồm tốc tăng trưởng kinh tế
bình quân từ 8 - 8,5%/năm, tỷ lệ lạm phát dưới mức 10% vào năm 2000, duy trì ổn
định tỷ giá, cố gắng giảm tình trạng thâm hụt ngân sách Năm 1997 là năm
CHDCND Lào bắt đầu gia nhập sâu vào kinh tế thế giới thông qua việc gia nhập
82
ASEAN và thực hiện chính sách mở cửa về kinh tế và thương mại khi tham gia vào
AFTA. Đây cũng là năm mà cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ nổ ra ở Châu Á
khiến cho nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới gặp phải khủng hoảng tài
chính - kinh tế.
Ngay lập tức, Lào đã phải chịu những ảnh hưởng từ sự biến động bất lợi của
kinh tế khu vực, thể hiện rõ ràng nhất là ở tỷ giá biến động mạnh khi đồng nội tệ
mất giá tới 28,77% và 13,04% so với hai đồng ngoại tệ là USD và THB. Cũng trong
giai đoạn này, nền kinh tế Lào phải đối mặt với nhiều khó khăn khi hoạt động sản
xuất của doanh nghiệp và sinh sống của người dân chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ
thiên tai, sụt giảm từ sản lượng xuất khẩu và vốn đầu tư nước ngoài. Tăng trưởng
kinh tế năm 1998 và 1999 chỉ đạt mức 4,38% và 4,1%, thấp hơn nhiều so với giai
đoạn trước khủng hoảng ở mức 7%/năm. Ngoài ra, hậu quả của việc mở rộng tín
dụng trước đó để đầu tư cho hệ thống cơ sở hạ tầng thủy lợi đã gây ra lạm phát cao
liên tiếp trong hai năm 1998 và 1999, ở mức 141,97% và 86,46% (tỷ lệ lạm phát
bình quân cả năm). Thâm hụt ngân sách nới rộng lên tới 22% GDP khi thu ngân
sách gặp khó khăn do hệ thống doanh nghiệp tư nhân lẫn Nhà nước rơi vào tình
trạng đình đốn, phá sản do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và sự đi
xuống của nền kinh tế trong nước.
Trước tình hình này, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã xác định mục tiêu
ưu tiên của CSTT là phải kiềm chế lạm phát, ổn định giá cả [50, tr.14]. Trên cơ sở
đó, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã triển khai các công cụ CSTT như:
- Yêu cầu tất cả các NHTM tăng mức lãi suất tiền gửi tiết kiệm từ mức
16%/năm lên 19%/năm, và sau đó là từ 19%/năm lên 22%/năm.
- Áp mức trần tăng trưởng tín dụng đối với tất cả các NHTM ở mức 10%
trong suốt năm 1998.
- Tiến hành bán tín phiếu Kho bạc và tín phiếu NHTW với tổng giá trị lên tới
hơn 90 tỷ Kip trong năm 1998.
Sang năm 1999, trước tình hình lạm phát không có dấu hiệu giảm mà chỉ số
giá tiêu dùng tăng liên tục trong bốn tháng đầu năm; Ngân hàng nước CHDCND
Lào tiếp tục sử dụng các công cụ gián tiếp để kiềm chế lạm phát như [51, tr.12]:
- Tiếp tục bán tín phiếu Kho Bạc (với mức lãi suất 24%, 30%/năm) với giá
83
trị 32,7 tỷ Kip, bán tín phiếu NHTW (với mức lãi suất 26%, 30%, 60%/năm) với giá
trị 37,4 tỷ Kip.
- Phát hành tín phiếu lãi suất (với mức lãi suất 48%, 60%/năm) với giá trị
132,37 tỷ Kip trong hai đợt vào tháng 10 và tháng 12.
- Duy trì lãi suất tái chiết khấu ở mức 35%.
Nhìn chung, các công cụ CSTT của Ngân hàng nước CHDCND Lào sử dụng
trong giai đoạn này chủ yếu là các công cụ trực tiếp do các công cụ gián tiếp chưa
được hoàn thiện và điều kiện để truyền dẫn thông qua thị trường chứng khoán là
gần như không có (thị trường cổ phiếu chưa được thành lập trong khi thị trường trái
phiếu Chính phủ chậm phát triển về quy mô lẫn chất lượng). Việc áp dụng hạn mức
tăng trưởng tín dụng, trần lãi suất là các biện pháp mang tính hành chính, kiểm soát
trực tiếp các mục tiêu trung gian trong bối cảnh này là biện pháp mà Ngân hàng
nước CHDCND Lào buộc phải lựa chọn.
Biểu đồ 3.8: Tăng trưởng tín dụng, cung tiền, và tỷ lệ lạm phát
của Lào giai đoạn 1998 - 2002 (%)
Nguồn: [50], [51], [52], [53].
Nhờ thực hiện đồng loạt các biện pháp, sử dụng các công cụ gián tiếp lẫn
trực tiếp, tình hình lạm phát tại Lào đã dẫn được kiểm soát. Tỷ lệ lạm phát giảm
xuống mức 10,56% vào năm 2000, 7,52% vào năm 2001, trước khi tăng lên 15,19%
vào năm 2002. Có thể nhận thấy trong giai đoạn này, Ngân hàng nước CHDCND
Lào không đạt được mục tiêu đề ra khi tăng trưởng tín dụng vẫn ở mức cao hơn
nhiều so với mục tiêu đề ra là tối đa 10% trong năm 1998 và CSTT thắt chặt trong
giai đoạn 1998 - 1999 không được thực hiện khi mà tăng trưởng cung tiền và tín
84
dụng vẫn ở mức khá cao, mặc dù đã thể hiện xu hướng giảm rõ rệt. Nhìn chung,
CSTT đã phát huy được tác dụng phần nào vai trò của mình trong nhiệm vụ kiềm
chế lạm phát. Mặc dù vậy, trong giai đoạn này, có nhiều nhân tố đã ảnh hưởng tiêu
cực tới công tác điều hành CSTT của Ngân hàng nước CHDCND Lào như tính độc
lập của NHTW chưa cao (đơn cử như việc CSTT phải liên tục tài trợ cho thâm hụt
ngân sách), thị trường chứng khoán chưa phát triển, hệ thống ngân hàng yếu kém
(dẫn tới giai đoạn phải thực hiện tái cấu trúc ở giai đoạn sau), các công cụ CSTT
chưa hoàn thiện (công cụ gián tiếp như nghiệp vụ thị trường mở mới ở giai đoạn sơ
khai), chính sách tỷ giá thiếu linh hoạt (neo chặt với đồng THB và USD), khả năng
tăng trưởng của nền kinh tế bị giảm sút do thiên tai, và sự ảnh hưởng từ bên ngoài
nền kinh tế gián tiếp qua hoạt động thương mại và đầu tư (vốn FDI giảm sút)
Bảng 3.1: Tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm lần thứ 4 của CHDCND Lào
Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 Bình quân Kế hoạch
Tốc độ tăng trưởng (%) 6.9 6.9 4.0 7.3 5.8 6.2 8-8.5
Tỷ lệ lạm phát (%) 12.8 26.6 142.0 86.5 10.6 55.7 <10
Thu ngân sách/GDP (%) 13.1 11.4 10.1 10.5 12.3 11.5 13-16
Tỷ giá Kip/USD (%) -4.1 -53.3 -54.6 -40.2 -7.7 -32.0 Ổn định
Nguồn: [50], [51], [52].
Trong giai đoạn 1996 - 2000, nền kinh tế Lào đã không đạt được các mục
tiêu đề ra tại Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 4. Tốc độ tăng
trưởng kinh tế bình quân chỉ đạt 6,2%, thấp hơn nhiều so với kế hoạch 8-8,5%.
Trong khi đó, lạm phát tăng cao liên tục vào các năm 1997 tới 1999 trong và đồng
Kip Lào đã mất giá bình quân 32%/năm. Có thể nhận định, CSTT nới lỏng giai
đoạn trước và thiếu hiệu quả trong việc kiểm soát lượng cung tiền và tín dụng (cung
tiền và tín dụng cho khu vực tư nhân năm 1999 vẫn tăng tới 78,5% và 74,3% bất
chấp tỷ lệ lạm phát ở mức 86,5%) là nguyên nhân quan trọng dẫn tới những hệ lụy
sau này mà nền kinh tế phải gánh chịu.
Điều cần bàn tới ở đây là lạm phát của Lào trong giai đoạn này xuất phát từ
cả phía cung và phía cầu; đồng thời, các doanh nghiệp trong nền kinh tế đã rơi vào
tình trạng khó khăn nên việc thắt chặt CSTT quá mức sẽ khiến cho nền kinh tế rơi
vào tình trạng trì trệ do cả tổng cung lẫn cầu đều quá yếu. Ngoài việc hạ tốc độ tăng
85
trưởng tín dụng và cung tiền dần, để giúp nền kinh tế không gặp phải những ảnh
hưởng tiêu cực từ CSTT thắt chặt quá mức, Ngân hàng nước CHDCND Lào cũng
tiến hàng giảm các mức lãi suất tiết kiệm ngắn hạn trong khi cho phép lãi suất dài
hạn tăng lên. Biện pháp này là để hỗ trợ các NHTM huy động lượng vốn dài hạn,
đưa đường cong lãi suất về với hình dáng phù hợp.
CCTM của Lào liên tục thâm hụt trong các năm từ 1997 đến 2002, là nguyên
nhân chính dẫn tới thực trạng thâm hụt nhẹ cán cân vãng lai. CCTM thâm hụt chủ
yếu do sự sụt giảm trong xuất khẩu bắt nguồn từ chính sách hạn chế xuất khẩu gỗ
của Chính phủ trong khi nhập khẩu tăng do tăng nhu cầu về máy móc, thiết bị [53].
Do vậy, việc thâm hụt CCTM trong giai đoạn này không quá đáng ngại mặc dù đồng
nội tệ đã giảm giá khá mạnh so với đồng ngoại tệ. Xét trên phương diện tỷ giá thực,
đồng Kip đã tăng giá so với hai đồng ngoại tệ còn lại do lạm phát trong thời kỳ này
của Lào ở mức cao hơn rất nhiều so với Mỹ và Thái Lan. Bù lại mức thâm hụt trong
CCTM là cán cân vốn thặng dư đã tăng mạnh trở lại kể từ năm 2000 sau khi nền kinh
tế khu vực và thế giới dần đi vào ổn. Dự trữ ngoại hối tăng lên mức 181,7 triệu USD,
tương đương 4,4 tháng nhập khẩu.
Biểu đồ 3.9: Giá trị xuất khẩu, nhập khẩu, cán cân vãng lai, đầu tư trực tiếp
nước ngoài, và dự trữ ngoại hối của Lào giai đoạn 1995 - 2002
Nguồn: ADB statistics.
Cộng hưởng với thâm hụt thương mại là nền kinh tế Lào bị đô la hóa và THB
hóa nặng nề khiến cho khả năng kiểm soát cung tiền của Ngân hàng nước
CHDCND Lào bị ảnh hưởng nặng nề. Một sự gia tăng cung ứng tiền Kip trên thị
trường có thể tạo ra sức ép làm giảm giá đồng Kip và đẩy lạm phát. Hơn nữa, do
86
đồng Kip đã gắn chặt với đồng THB nên khi khủng hoảng tài chính nổ ra ở Thái
Lan, sự mất giá của đồng THB đã kéo theo sự mất giá của đồng Kip. Sự yếu kém
của hệ thống tài chính, nhất là hệ thống ngân hàng, đã khiến cho lưu thông tiền tệ
trở nên thiếu thông suốt và khả năng kiểm soát ngoại tệ bị của Ngân hàng nước
CHDCND Lào ở mức thấp. Việc phụ thuộc vào lượng vốn ODA và FDI khiến cho
nền kinh tế Lào gặp phải khó khăn khi hai nguồn vốn này sụt giảm mạnh. Nhu cầu
ngoại tệ do thâm hụt cán cân thương mại không được đáp ứng đầy đủ do hai cán cân
vốn bị thu hẹp là nguyên nhân làm cho ngoại tệ khan hiếm và tỷ giá tăng mạnh là hệ
quả tất yếu.
Những phân tích trên cho thấy việc hội nhập vào kinh tế quốc tế trong khi
các chính sách vĩ mô, đơn cử như trường hợp của CSTT, chưa có sự chuẩn bị và
năng lực điều hành tốt, là nguyên nhân khiến cho nền kinh tế Lào phải đối mặt với
nhiều bất ổn kinh tế vĩ mô, không hoàn thành được các mục tiêu kinh tế - xã hội.
3.2.2.2. Giai đoạn từ năm 2003 đến năm 2005: Chính sách tiền tệ thắt chặt
hợp lý nhằm ổn định kinh tế vĩ mô
Giai đoạn từ năm 2002 đến 2005, nền kinh tế Lào tập trung vào các mục tiêu
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sau giai đoạn tăng trưởng thấp và lạm phát cao trước
đó. Các mục tiêu này được cụ thể hóa trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5
năm lần thứ 5 (2001 - 2005) được Đại hội Đảng lần thứ VII thông qua vào năm
2001. Nghị quyết của Đại hội yêu cầu Chính phủ tập trung thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế bình quân 7-7,5%/năm, kiểm soát tỷ lệ lạm phát dưới mức 10%, giảm thâm
hụt ngân sách xuống còn 6% GDP vào năm 2005, duy trì tỷ giá ổn định và thúc đẩy
hoạt động thương mại quốc tế
Mặc dù Chính phủ nước CHDCND Lào đã kiềm chế được lạm phát xuống
còn 7,52% trong năm 2001 nhưng sang đến năm 2002, lạm phát đã quay trở lại vào
nữa cuối năm và bùng phát mạnh trong năm 2003. Nguyên nhân của lạm phát bắt
nguồn từ việc lượng tiền cơ sở và cung tiền tăng mạnh khi tiền trong lưu thông tăng
tới tới 78,9% do Ngân hàng nước CHDCND Lào mua lại lượng tín phiếu từ nền
kinh tế với tổng giá trị 120 tỷ Kíp. Thâm hụt ngân sách ở mức 4,71% GDP buộc
Ngân hàng nước CHDCND Lào phải bơm một lượng tiền để tài trợ cho bội chi
ngân sách. Ngoài ra, việc đồng Kip mất giá liên tục với USD và THB cũng khiến
87
cho lượng cung ứng tiền khi quy đổi ra đồng Kip tăng lên đáng kể [54, tr.4]. Trước
tình hình lạm phát tăng cao, đe dọa việc thực hiện các mục tiêu trong Kế hoạch kinh
tế - xã hội năm năm lần thứ 5, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã xác định mục tiêu
ổn định kinh tế vĩ mô, tiến hành thắt chặt CSTT với mức độ vừa phải nhằm quản lý
lượng cung tiền đúng theo kế hoạch đề ra.
Cụ thể, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã phát hành tín phiếu NHTW với
giá trị 50 tỷ Kip cho công chúng vào tháng 9 năm 2003, sau đó mua lại vào tháng
12 năm 2003. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc được duy trì ở mức 8% đối với đồng nội tệ và
15% đối với đồng ngoại tệ. Ngoài ra, Ngân hàng nước CHDCND Lào cũng áp dụng
hạn mức đối với tăng trưởng tín dụng của các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước. Nhờ
vậy, tín dụng đối với nền kinh tế đã giảm 8% so với năm 2002, do các NHTM đã
tập trung vào chất lượng các khoản tín dụng mới, thực hiện các biện pháp hạn mức
tín dụng tạm thời, đồng thời thực hiện các giải pháp tái cấu trúc hệ thống ngân hàng.
Biểu đồ 3.10: Tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát
của Lào giai đoạn 2002 - 2005
Nguồn: [53], [54], [55], [56].
Mặc dù CSTT đã được điều hành theo hướng thắt chặt, tốc độ tăng trưởng
cung tiền và tín dụng đều giảm xuống nhưng tỷ lệ lạm phát trong năm 2003 vẫn ở
mức hai con số, 12,63% so với cuối năm 2002 và so với bình quân năm 2002 là
15,49%. Tuy nhiên, hiệu lực của CSTT thắt chặt đã phát huy rõ ràng hơn trong năm
2004 và 2005 khi tỷ lệ lạm phát giảm xuống chỉ còn lần lượt 8,65% và 8,78%.
Trong giai đoạn này, công tác điều hành CSTT là một trong những nguyên
nhân dẫn tới tình trạng lạm phát tái diễn. Do nóng vội thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
88
CSTT nới lỏng thông qua tài trợ cho thâm hụt ngân sách và mua lại lượng tín phiếu
đã khiến cung tiền tăng mạnh. Tương tự như giai đoạn trước đó, các giải pháp mà
Ngân hàng nước CHDCND Lào áp dụng là phát hành tín phiếu NHTW, và áp dụng
hạn mức tăng trưởng tín dụng. Tuy nhiên, điểm thay đổi tích cực trong giai đoạn
này là việc Ngân hàng nước CHDCND Lào đã không tăng mạnh tỷ lệ dự trữ bắt
buộc (qua đó hạn chế rủi ro thanh khoản đối với hệ thống ngân hàng đang trong giai
đoạn tái cơ cấu), tập trung vào giải quyết chất lượng tín dụng, chỉ áp dụng hạn mức
tăng trưởng tín dụng đối với các NHTM thuộc sở hữu Nhà nước (giảm phạm vi sử
dụng các công cụ mang tính hành chính cao) Dù vậy, độ trễ tác động của CSTT
vẫn ở mức cao như đã chỉ ra ở trên, xuất phát từ việc dự báo nguy cơ lạm phát kém,
khả năng truyền dẫn CSTT thấp do thị trường liên ngân hàng và thị trường chứng
khoán chậm phát triển, hệ thống TCTD trong giai đoạn tái cơ cấu do tồn tại nhiều
yếu kém
Bảng 3.2: Diễn biến lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay
của Lào giai đoạn 2003 - 2005 (%)
2003 2004 2005 2003 2004 2005 2003 2004 2005
Lãi suất tiền gửi Tiền gửi nội tệ Tiền gửi ngoại tệ THB Tiền gửi ngoại tệ USD
Tiền gửi không kỳ hạn 0 0 0 0 0 0 0 0 0
Tiền gửi tiết kiệm 4-13 4-8 0,25-0,75 0,25-0,5 0,2-0,75 0,25-0,75 0,13-0,5 0,13-0,75
Tiền gửi có kỳ hạn
3 tháng 6-16 8-15 5-10 0,5-1,25 0,25-0,75 0,25-0,75 0,25-1,25 0,13-0,6 0,13-0,25
6 tháng 8-18 10-16 6-12 0,5-1,5 0,25-1 0,25-1,5 0,5-1,5 0,13-0,8 0,13-1,5
12 tháng 10-21 10-16 7-14 0,5-2 0,25-1,25 0,25-2 0,75-2 0,13-1 0,13-2
>12 tháng 12-22 16-17 9-16 1,5-2 1,5% 1,5-2 1,5-3 0,7 1-1,5
Lãi suất cho vay Vay nội tệ Vay ngoại tệ THB Vay ngoại tệ USD
Nông lâm nghiệp 19-22 6,5-18 6-14
Công nghiệp & thủ công 22-24 6,5-18 6-14
Xây dựng và vận tải 24-26 6,5-18 6-14
Thương mại & dịch vụ 20-27 6,5-18 6-14
Ngắn hạn 14-24 15,5-24 5-8 5-18 6-14 7,58-14
Trung hạn 16-26 15,5-26 7-18 7,88-18 7-16,5 8,75-14
Dài hạn 19-33 15,5-26 7,5-18 7,88-18 7,88-18,5 8,75-14
Nguồn: [56].
Năm 2005 là năm mà nền kinh tế Lào bị ảnh hưởng từ cú sốc bên ngoài sau
khi ngày càng hội nhập hơn vào nền kinh tế thế giới. Ảnh hưởng rõ ràng nhất đối
với nền kinh tế trong nước là giá dầu và giá lương thực trên thế giới tăng cao kết
89
hợp với sự biến động của tỷ giá. Do lạm phát tăng lên chủ yếu bắt nguồn từ cú sốc
phía cung (mặc dù lạm phát của Lào đã xuống thấp nhưng ba cấu thành quan trọng
trong chỉ số giá tiêu dùng đã tăng lên đáng kể là thực thẩm (tăng 11,97%), quần áo
(tăng 8,98%), và giao thông, liên lạc (tăng 8,45%). Ngoài ra, đồng Kip bị mất giá so
với đồng USD trong nửa đầu năm 2004 và nửa đầu năm 2005 cũng đóng góp vào
việc làm cho tỷ lệ lạm phát gia tăng) nên giải pháp CSTT mà Ngân hàng nước
CHDCND Lào thực hiện là hạn chế kích thích tổng cầu quá mức đồng thời duy trì
tỷ giá ổn định. Ngân hàng nước CHDCND Lào đã tiến hành điều hành CSTT theo
định hướng ổn định giá trị của đồng nội tệ và kiểm soát lượng cung tiền phù hợp
với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Cung tiền và tín dụng được điều chỉnh nhằm
bảo đảm đủ vốn cho hoạt động kinh tế nhưng đồng thời kiểm soát tốt lạm phát có
nguy cơ bùng nổ. Cụ thể, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã thực hiện các biện
pháp sau [56, tr.16, 17]:
Chiết khấu các tín phiếu Kho bạc từ các NHTM gặp khó khăn thanh khoản
và cung cấp các khoản vay tái cấp vốn ngắn hạn cho các NHTM dựa trên bảo đảm
bằng tín phiếu Kho Bạc, thể hiện ở lượng tiền cơ sở tăng lên đáng kể trong năm 2005.
Duy trì tỷ lệ dự trữ bắt buộc ở mức 8% đối với tiền gửi Kip và 15% đối với
tiền gửi USD và THB.
Can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ổn định giá trị của đồng Kip.
Khuyến khích các NHTM tham gia cho vay lẫn nhau nhằm hạn chế căng
thẳng thanh khoản xảy ra trong hệ thống.
Phát triển thị trường tiền tệ, đặc biệt là thị trường thứ cấp để tăng cường
hiệu quả điều hành của CSTT.
Tăng cường huy động vốn từ nền kinh tế, đặc biệt là tiền gửi của Chính
phủ, vừa tăng thanh khoản hệ thống, vừa hạn chế lượng cung tiền tăng cao, tạo áp
lực lên lạm phát.
Nhờ các biện pháp này, các chỉ tiêu tiền tệ được kiểm soát tốt hơn khi lượng
tiền cơ sở và cung tiền năm 2005 tăng lần lượt 18% và 8,3% so với năm 2004. Mức
lãi suất huy động và cho vay trong năm 2005 nhìn chung đều ở mức thấp hơn so với
năm 2004 đã giúp Ngân hàng nước CHDCND Lào đạt được tốt hai mục tiêu của
CSTT. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng dần lên mức 7,29% so với mức 6,88% năm
2004, trong khi lạm phát chỉ ở mức 8,78%.
90
Biểu đồ 3.11: Tăng trưởng tín dụng, tiền cơ sở, và cung tiền
của Lào giai đoạn 2003 - 2005
Nguồn: [56].
Về cân bằng bên ngoài của Lào, cán cân thanh toán đã được cải thiện tương
đối trong năm 2005, mặc dù nền kinh tế gặp phải những ảnh hưởng bất lợi từ các cú
sốc bên ngoài. Sự tăng lên trong giá trị xuất khẩu khoáng sản đã giúp cân bằng sự
sụt giảm của ngành may mặc và sự gia tăng của giá dầu. Nhập khẩu thiết bị cho nhà
máy thủy điện Nam Theun 2 là một trong những nhân tố khiến thâm hụt cán cân
vãng lai tăng lên mức 16% GDP, cho dù mức thâm hụt này được bù đắp bằng sự gia
tăng đáng kể trong lượng vốn đầu tư từ nước ngoài. Mặc dù dự trữ ngoại hối diễn
biến tương đối ổn định trong năm 2005, vào khoảng 230 triệu USD, tương đương 3
tháng nhập khẩu nhưng nợ nước ngoài ở mức khá cao, lên tới 80% GDP.
Bảng 3.3.: Tình hình thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm lần thứ 5 của CHDCND Lào
Chỉ tiêu 2001 2002 2003 2004 2005 Bình quân Kế hoạch
Tăng trưởng kinh tế (%) 5.8 5.9 5.8 6.9 7.3 6.2 7-7.5
Tỷ lệ lạm phát (%) 7.5 15.2 12.6 8.7 8.8 10.6 <10
Thu ngân sách/GDP(%) 15.8 14.0 13.0 12.1 13.3 13.6 18
Thâm hụt ngân sách/GDP (%) 4.2 3.2 5.8 2.5 4.5 4.0 6
Tỷ giá Kip/USD -15.5 -12.5 2.0 0.9 -3.5 -5.7 Ổn định
Nguồn: [53], [54], [55], [56].
Kết quả thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 5 cho
thấy sự cải thiện trong việc tiến tới các mục tiêu đề ra của Chính phủ CHDCND
Lào. Mặc dù tốc độ tăng trưởng kinh tế không đạt được mục tiêu đề ra nhưng vẫn
91
cao hơn giai đoạn trước. Nguy cơ lạm phát đã dần được kiểm soát tốt hơn. Ngoài ra,
các chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ lạm phát cho thấy xu hướng tích cực
và ổn định kể từ năm 2003 trở đi. Những hệ quả lâu dài của bất ổn kinh tế vĩ mô
giai đoạn trước đây đã dần được kiểm soát và loại bỏ. Ổn định kinh tế vĩ mô đã góp
phần giúp thị trường ngoại tệ trở nên ổn định hơn, chênh lệch giữa tỷ giá thị trường
chính thức và phi chính thức giảm dần; dự trữ ngoại hối tăng từ mức 2,6 tuần nhập
khẩu vào năm 2001 lên 12,8 tuần nhập khẩu vào năm 2005.
Đóng góp vào sự cải thiện này có nỗ lực của Ngân hàng nước CHDCND Lào
trong công tác điều hành CSTT, đặc biệt là trong công tác kiểm soát và giảm tỷ lệ
lạm phát. Việc xây dựng và thực thi CSTT ngày càng được củng cố trong quá trình
triển khai Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 5. Tăng trưởng cung
tiền bình quân 5 năm đạt 20%, huy động tiền gửi của hệ thống ngân hàng đạt
19,2%, bám sát mục tiêu đề ra, hệ thống tổ chức tín dụng đã được cơ cấu lại theo
hướng lành mạnh hơn, mức độ linh hoạt trong điều hành tỷ giá được cải thiện giúp
ổn định tỷ giá hơn nhiều so với giai đoạn trước.
3.2.2.3. Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2010: Chính sách tiền tệ nới lỏng
nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
Chính phủ Lào nhận định trong giai đoạn thực hiện kế hoạch kinh tế - xã hội
5 năm lần thứ 6 thì cải cách thương mại đóng vai trò quan trọng đối với sự phát
triển của khu vực tư nhân. Trong quá trình tiến tới thực hiện các cam kết khi tham
gia vào AFTA, Chính phủ nước CHDCND Lào đã ký kết các hiệp định song
phương nhằm phát triển hoạt động thương mại với Mỹ, đồng thời thực hiện các
bước đầu tiên trong quá trình đàm phán chính thức tham gia vào Tổ chức thương
mại thế giới WTO. Đây là bước đi đúng đắn trong quá trình nền kinh tế Lào hội
nhập hơn vào kinh tế tại khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, quá trình này cũng đặt
ra không ít thử thách cho nền kinh tế khi buộc phải nhanh chóng nâng cao năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và năng lực cạnh tranh của hệ thống doanh
nghiệp trong nước, trong đó có cả các DNNN.
Để đóng góp vào tiến trình thực hiện của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội
5 năm lần thứ 6 (2006-2010) với mục tiêu tăng trưởng kinh tế 7,5-8%, duy trì tỷ lệ
lạm phát ở mức một con số (bình quân ở mức 7%) và tỷ giá hối đoái ổn định, Ngân
92
hàng nước CHDCND Lào đã thiết lập mục tiêu hoạt động duy trì sự tăng trưởng của
cung tiền không quá 18% thông qua việc giới hạn tăng trưởng lượng tiền cơ sở ở
mức 14%, đảm bảo mức độ dự trữ ngoại hối tương đương với hơn bốn tháng nhập
khẩu, tiếp tục đổi mới và tăng cường hệ thống ngân hàng hướng tới nền tài chính
lành mạnh và hiện đại [57].
Trong năm 2006, hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế, Ngân hàng nước
CHDCND Lào đã thực hiện các biện pháp nới lỏng CSTT như sau [57, tr.23]:
Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 8% xuống còn 5% đối với tiền gửi là đồng Kip.
Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 15% xuống còn 10% đối với tiền gửi ngoại tệ.
Khuyến khích hoạt động của thị trường liên ngân hàng, bao gồm cả giao
dịch đồng Kip và ngoại tệ nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản của hệ thống NHTM,
hỗ trợ CSTK thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Khuyến khích hệ thống NHTM điều chỉnh lãi suất phù hợp với tình hình
kinh tế trong nước và mức lãi suất trên thế giới.
Tiến hành tái cấu trúc hoạt động của hệ thống NHTM để tăng cường hiệu
quả truyền tải CSTT. Vốn của hệ thống NHTM Nhà nước đã được cấp bổ sung 350
tỷ Kip, trong khi các khoản nợ xấu được xử lý dứt khoát bởi các biện pháp sử dụng
dự phòng hoặc xoá nợ, dự phòng cho các khoản nợ xấu còn lại được trích lập đầy đủ.
Thực hiện CSTT nới lỏng, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã để cung tiền
tăng vượt quá mục tiêu đề ra, với tốc độ 30,3% trong năm 2006, xuất phát từ lượng
tiền ngoại tệ chảy vào nền kinh tế thông qua các kênh [57, tr.16]:
Vốn đầu tư nước ngoài chảy vào thông qua hệ thống ngân hàng tăng lên
mức 187 triệu USD, tăng 28 triệu USD so với năm 2005.
Xuất khẩu tăng trưởng mạnh, đặc biệt từ xuất khẩu khoáng sản, từ mức
553 triệu USD trong năm 2005 lên 882 triệu USD trong năm 2006.
Nguồn thu ngoại tệ từ du lịch tăng từ 140 triệu USD năm 2005 lên mức
150 triệu USD năm 2006.
Lượng ngoại tệ chảy vào nền kinh tế tăng mạnh là nguyên nhân dẫn đến
đồng Kip tăng giá mạnh so với đồng USD. Tính đến cuối năm, đồng Kip đã lên giá
10,3% so với đồng USD.
93
Mặc dù cung tiền tăng cao, nhưng hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM
không tăng trưởng mạnh mẽ mặc dù Ngân hàng nước CHDCND Lào thực hiện
CSTT nới lỏng do hệ thống NHTM tiến hành tái câu cấu trong mục tiêu cải thiện
hoạt động quản lý tín dụng. Tăng trưởng tín dụng chỉ ở mức 4,6% so với năm 2005.
Do vậy, năm 2006, mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế giảm nhẹ so với năm 2005.
Dựa trên tiền đề này, sang các năm tiếp theo, Ngân hàng nước CHDCND Lào tiếp
tục thực hiện CSTT nới lỏng cho các năm tiếp theo với mục tiêu thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế khi mà tiềm lực phát triển vẫn ở mức cao.
Trong năm 2007, Ngân hàng nước CHDCND Lào đã điều chỉnh lãi suất cho
vay ngắn hạn từ 20%/năm xuống còn 12%/ năm đối với đồng Kip và giảm tỷ lệ
phòng ngừa rủi ro (risk-weighted reserve ratio) từ 3% đến 1% để hỗ trợ các NHTM
giảm lãi suất của các khoản cho vay. Ngoài ra, nghiệp vụ thị trường mở được thực
hiện với giá trị 34 tỷ Kip để giải quyết thanh khoản ngắn hạn của các NHTM. Qua
hàng loạt các công cụ CSTT trên, cung tiền tiếp tục tăng 38,72% so với năm 2006.
Biểu đồ 3.12: Tiền dự trữ, cung tiền hẹp, và cung tiền rộng
của Lào giai đoạn 2006 - 2010
Nguồn: Thống kê tài chính quốc tế, IMF.
Tương tự như năm 2006, cung tiền năm 2007 tăng lên một phần do sự tăng
lên của tài sản có ngoại tệ ròng bao gồm nguồn vốn FDI thông qua hệ thống ngân
hàng tăng 72,63%, xuất khẩu tăng 4,61% chủ yếu là từ xuất khẩu khoáng sản,
nguồn thu từ du lịch tăng lên 189,42 triệu USD. Lượng tiền cơ sở năm 2007 đã tăng
58,82% so với năm 2006. Cả tốc độ tăng cung tiền và tốc độ tăng trưởng tín dụng
năm 2007 đều lớn hơn năm trước. Tổng phương tiện thanh toán tuy tăng cao nhưng
94
lại phù hợp với mức tăng trưởng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tv_doi_moi_dieu_hanh_chinh_sach_tien_te_cua_ngan_hang_nuoc_cong_hoa_dan_chu_nhan_dan_lao_trong_qua_t.pdf