MỤC LỤC
A. PHẦN DẪN NHẬP .2
I. Tính cấp thiết của đề tài:.2
II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu: .4
III. Đối tƣợng và nhiệm vụ nghiên cứu.7
IV. Những đóng góp của luận án:.8
V. Phƣơng pháp nghiên cứu.9
B. PHẦN NỘI DUNG .11
CHƢƠNG I QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA GIẢNG VĂN Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
TRUNG HỌC VIỆT NAM.11
I. Các chặng đƣờng phát triển của giảng văn ở trƣờng phổ thông trung học: .11
1. Sự phân chia thời kì: .11
2. Tìm hiểu các thời kì phát triển của giảng văn ở trƣờng trung học Việt Nam .11
2.1 - Thời kỳ nhà trƣờng phong kiến : .11
2.2- Thời kỳ nhà trƣờng Pháp - Việt :.16
2.3- Thời kì nhà trƣờng mới sau Cách mạng tháng Tám:.21
a) Giai đoạn 1945 -1954 .22
1) Giảng văn Chinh phụ ngâm (Đặng Thai Mai - 1950).23
2) Việt Nam thi văn giảng luận (Hà Nhƣ Chi - 1951) .25
b) Giai đoạn 1954 - 1975 : .28
3) Tu từ học với vấn đề giảng văn ( Đinh Trọng Lạc - 1969 ).31
4) Rèn luyện tƣ duy qua giảng dạy văn học. (Phan Trọng Luận-1969).33
5) Vấn đề giảng dạy tác phẩm văn học theo loại thể (Trần Thanh Đạm, Huỳnh
Lý, Hoàng Nhƣ Mai, Phan Sĩ Tấn, Đàm Gia Cẩn - 1970).36
6) Những vấn đề nghiên cứu khoa học về giảng văn ( Trần Thanh Đạm -1971).38
7) Dạy Văn là một quá trình rèn luyện toàn diện (Phạm Văn Đồng - 1973). .43
8) Về dạy văn trong nhà trƣờng (Đặng Thai Mai - 1974).45
9) Văn học phân tích toàn thƣ (Thạch Trung Giả - 1973)).47
10) Quốc văn (Vũ Quế Viên - 1974) .52
c) Giai đoạn từ 1975 đến nay :.54
11) Phân tích tác phẩm văn học trong nhà trƣờng (Phan Trọng Luận - 1977) .58
12) Giảng văn dƣới ánh sáng ngôn ngữ học. (Đái Xuân Ninh-1985).63
13) Dạy văn dạy cái hay cái đẹp (Nguyễn Duy Bình - 1983).67213
14) Suy nghĩ về môn giảng văn (Lê Trí Viễn).72
II. Bƣớc tiến của môn giảng văn ở trƣờng phổ thông trung học.75
1. Chuyển từ việc thiên về mô phỏng ứng dụng sang hƣớng tìm tòi,
nghiên cứu lí luận, từ lối truyền thụ kinh nghiệm sang việc xây dụng hệ thống phƣơng
pháp dạy học phù hợp. .76
2. Sự định hình cơ sở phƣơng pháp luận của việc dạy học giảng văn.78
3. Hƣớng mở rộng, hòa nhập với xu thế chung. .80
CHƢƠNG II: NHŨNG VẤN ĐỀ VỀ GIẢNG VĂN ĐẶT RA Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG
TRUNG HỌC HIỆN NAY .82
I. Những thành tựu và hạn chế của việc dạy học ở giảng văn ở trƣờng phổ thông trung
học trong thời gian qua. .82
II. Những vấn đề về dạy học giảng văn đặt ra ở trƣờng phổ thông trung học hiện nay .92
1. Yêu cầu đổi mới hoàn thiện giảng văn: .92
2. Nhũng vấn đề cụ thể về đổi mới dạy học giảng văn:.94
2.1- Về mục tiêu dạy và học văn: .97
2.2- Về nội dung dạy học văn:.102
2.3 Vấn đề phƣơng pháp dạy và học văn:.108
CHƢƠNG III: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ, ĐỔI MỚI DẠY HỌC GIẢNG VĂN Ở
TRƢỜNG PHỔ THÔNG TRUNG HỌC. .114
I. Bối cảnh hiện nay của việc dạy học giảng văn ở trƣờng phổ thông trung học.114
II. Vấn đề môn học giảng văn:.120
1. Việc xóa bỏ Giảng văn.120
2. Lí do tồn tại của Giảng văn.122
III.Vấn đề đối tƣợng, vị trí và nhiệm vụ của giảng văn ở trƣờng phổ thông trung học.125
1. Nhận diện đối tƣợng văn dạy ở trƣờng phổ thông trung học.126
2. Vị trí của giảng văn ở trƣờng phổ thông trung học.131
3. Nhiệm vụ của giảng văn ở trƣờng phổ thông trung học .135
3.1- Mục đích tự thân của việc tiếp nhận tác phẩm văn chƣơng: .136
3.2- Mục đích trong những quan hệ với các phân môn : .140
3.2.1- Mối liên kết Giảng văn - Văn học sử.140
3.2.2 Mối liên kết Giảng văn - Làm văn:.142
3.2.3 Mối liên kết Giảng văn - Lí luận văn học:.146
IV. Một số ý kiến đề nghị đổi mới phƣơng pháp dạy học giảng văn ở phổ thông trunghọc.148
1. Tính cấp thiết của việc đổi mới phƣơng pháp giảng văn :.148
2. Vấn đề cơ bản của việc đổi mới phƣơng pháp giảng văn :.152
214 trang |
Chia sẻ: lavie11 | Lượt xem: 531 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Giảng văn ở trường phổ thông trung học (lịch sử và triển vọng), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phục vụ thay sách lớp 7 CCGD) đã
106
nêu lên những quan điểm cơ bản của việc dạy học văn theo tinh thần CCGD. Chúng ta có thể
rút ra những điểm quan trọng sau đây:
1/ Trƣớc tiên, cần phải thấy môn văn có một đối tƣợng đặc biệt đó là tác phẩm văn
thơ. Về bản chất nó là sản phẩm của hoạt động tinh thần của con ngƣời "nhằm chiếm lĩnh
thực tại theo qui luật cái đẹp" (Mác). Chân lý nghệ thuật bao giờ cũng là một điều kì diệu,
khiến ta kinh ngạc xúc động, sảng khoái về tâm hồn trí tuệ. Thế giới nghệ thuật bao giờ cũng
đầy ắp những rung động mãnh liệt kết quả của những "Hiểu biết, khám phá, sáng tạo" (Phạm
Văn Đồng) nằm trong bản thân nó. Ở trung tâm, môn văn phải là cái đẹp mỹ học. Từ đó tác
giả rút ra hệ quả: "Chương trình sách giáo khoa, phương pháp dạy học như thế nào đây mà
không làm nổi bật cái đẹp này, không tạo ra những rung động thẩm mỹ sâu sắc không khiến
người ta say mê thì dạy học văn không thể là "một niềm vui lớn" "một hạnh phúc lớn"...
(54.2,4).
2/ Tiếp đến, nhƣ ta vẫn thƣờng nói văn chƣơng là "nghệ thuật ngôn từ" do đó ngôn
ngữ đặc trưng của văn chương như một loại hình nghệ thuật là hình tượng bằng lời. Cần
phải nắm cấu tạo, bản chất của hình tƣợng bao hàm ở trong nó cái riêng và cái chung, cái cá
thể và cái phổ biến, cái cụ thể sinh động và cái trừu tƣợng xúc động cảm tính và ý thức tƣ
tƣởng, nội dung và hình thức. Chính sự thống nhất của những mặt đối lập ấy tạo ra sức mạnh
riêng của văn chƣơng nghệ thuật, làm nên sự nhiệm mầu của chân lý nghệ thuật. Từ đó, tác
giả cũng nêu ra hệ quả: "Chương trình sách giáo khoa, phương pháp dạy và học như thế nào
đây mà chỉ làm nổi bật một trong những mặt đó (ví dụ như thiên về cái khách quan, cái phổ
biến, cái khái quát như thường xảy ra trong nhà trường) thì tức là đi ngược lại đặc trưng bản
chất của nó, thủ tiêu sức tác
107
động của nó đối với tâm hồn và trí tuệ của cơn người" (54.2,6).
Những quan điểm góp phần làm nổi rõ bản chất, đặc trƣng của văn chƣơng vừa đề cập
thật ra không phải là điều khám phá mới về lí luận. Bởi vì từ lâu nay các nhà nghiên cứu lí
luận, các nhà sƣ phạm quan tâm tới việc dạy học văn đã từng nêu mặt hạn chế của chất lƣợng
dạy học do không quan tâm đầy đủ, đúng mức tới điều quan trọng nói trên. Đúng nhƣ
Nguyễn Đức Nam đã nhận xét đó là một trong những nguyên nhân khiến cho việc dạy học
văn từ trƣớc đến nay không thành công. Do đó, những điều tác giả đề cập có ý nghĩa nhƣ một
khẳng định hƣớng giải quyết khâu nhận thức vê quan điểm dạy văn khi bƣớc vào triển khai
CCGD. Đó là những suy nghĩ đã chín muồi thể hiện những nhu cầu bức thiết đặt ra từ thực
tiễn dạy văn mà dƣ luận từng quan tâm.
3/ Những điểm then chốt trong hƣớng triển khai dạy học văn nhƣ vậy tất yếu sẽ dẫn
đến đổi mới chƣơng trình sách giáo khoa môn văn nhƣ mong muốn. Bài viết của Nguyễn
Đức Nam nêu một số điểm cốt yếu dùng làm cơ sở cho việc biên soạn sách giáo khoa mới:
a/ Môn văn phải góp phần phục vụ một cách tích cực cho mục tiêu đào tạo (đã trình
bày ở mục 2.1). tác giả nêu ra một nhận xét xác đáng: "Về mặt nội dung giáo đục, môn văn có
những yêu cầu đòng tâm với môn dạo đức chính trị nhưng nó phải dược thể hiện dưới dạng
văn học, phải đi vào tâm trí mỗi học sinh theo con đường cảm xúc thẩm mỹ" (54.2,8).
b/ Chƣơng trình có sự thay đổi thiết kế một cách thích hợp
+ Lựa chọn những tác phẩm thực sự có giá trị về tƣ tƣởng và nghệ thuật từ trong di
sản nghệ thuật của dân tộc và nhân loại. Đơn vị
108
học tập là những tác phẩm hoàn chỉnh, từ một câu ca dao, một bài thơ, một truyện cổ cho đến
một trƣờng ca, một truyện ngắn, một vở kịch hay một cuốn tiểu thuyết. Cần chú ý bảo đảm
tính chính thể của tác phẩm. Hình tƣợng phải hoàn chỉnh, tứ thơ phải trọn vẹn, cốt truyện
phải có đầu có đuôi mới gây hứng thú cho ngƣời đọc.
+ Chú ý tỉ lệ hợp lý, cân đối giữa các mảng văn học: các sáng tác dân gian, văn thơ
trƣớc cách mạng tháng tám, tinh hoa văn thế giới đƣợc nâng lên rõ rệt. Phần văn học hiện đại
có sự tinh tuyển kỹ càng không chạy theo các chủ đề nhƣ trƣớc. Văn thơ cổ điển đƣợc chú ý
hơn (có sự lựa chọn cho phù hợp với trình độ cảm và hiểu của học sinh PTCS).
+ Bổ sung những tác phẩm đọc ở ngoài lớp (không phải là hình thức ngoại khóa nhƣ
trƣớc đây).
c/ Có sự thay đổi trong việc cấu tạo môn học: môn tiếng Việt, văn học đƣợc tách
thành hai môn độc lập (không ghép thành ngữ-văn nhƣ trƣớc), hình thành hai môn học khác
nhau nhƣng có quan hệ gắn bó mật thiết với nhau.
Chƣơng trình môn văn học trƣờng PTTH (1989) cũng tiếp tục đƣợc xây dựng từ
những quan điểm cơ bản nói trên.
2.3 Vấn đề phƣơng pháp dạy và học văn:
Tài liệu đề cập nhiều tới việc dạy học tác phẩm văn chƣơng. Qua đây, có thể nhận ra
những quan điểm đổi mới nổi bật:
a/ Phê phán lối giảng văn theo phƣơng pháp truyền thống, tác giả cho rằng phân môn
này gần nhƣ là hình thức duy nhất để tiếp cận văn bản, nó bao gồm một nguy cơ: Thầy giảng
- trò nghe, thầy phân tích-trò tiếp nhận. Vì thế "đầu có phát huy tính tích cực của học sinh
109
đến mức nào thì khuynh hướng chung của phương pháp này cũng là áp đạt cách hiểu, cách
cảm thụ của thầy (hay của người biên soạn sách) cho học trò. Từ đó vai trò chủ thể của học
sinh với tư cách người đọc không được tôn trọng"(54.2,10).
Dễ thấy, bƣớc vào triển khai CCGD, GIẢNG VĂN với tên gọi và cách thức thực hiện
nó nhƣ cách làm từ xƣa nay bị xóa bỏ. Do đó,"Có người đề nghị khai tử cái tên bộ môn
"giảng văn" và ý kiến hình như đã được chấp nhận" (43.7,106).
b/ Không xác định hẳn một tên gọi mới nhƣng điểm cơ bản của lối dạy theo CCGD
"là ở chỗ xử lý văn bản, đem tác phẩm đến người đọc"(54.2,10) hay còn đƣợc gọi là "Phương
pháp tổ chức những hình thức hoạt động để giúp học sinh chiếm lĩnh tác phẩm" (65,3).
c/ Để thực hiện việc chiếm lĩnh văn bản, tác giả nêu ra những hình thức hoạt động đó
nhƣ sau: Trƣớc hết là đọc (đọc thầm, đọc to, đọc có tƣởng tƣợng, đọc có phân vai, đọc diễn
cảm) 2. Học thuộc lòng tác phẩm 3. Ghi chép về tác phẩm, tóm tắt tác phẩm 4. Phân tích suy
nghĩ về tác phẩm 5. Thuyết trình tác phẩm - 6. Đọc tác phẩm kết hợp với sự giảng giải của
giáo viên ở lớp 7. Thảo luận, trao đổi về tác phẩm ở tổ, ở lớp theo những vấn đề do giáo viên
nêu ra 8. Biểu diễn tác phẩm (ngâm thơ, diễn kịch, chuyển thể...) 9. Vẽ tranh theo tác phẩm
10.Viết cảm nghĩ về tác phẩm.
Các hình thức hoạt động để chiếm lĩnh văn bản nói trên đƣợc "tạm gọi là đọc sáng
tạo" theo Vũ Ngọc Khánh và Tống Trần Ngọc giải thích vì "chưa có một thuật ngữ nào hay
hơn, đúng hơn", đây là cách thức "Đọc văn để học, phải có một tiến trình tự sáng tạo mà
thâm nhập tác phẩm, tiếp cận văn chương" (35,60).
110
Cùng với việc đƣa ra các hình thức dạy học nhằm giúp học sinh chiếm lĩnh tác phẩm,
qua chỉ đạo cải cách, ngƣời dạy còn đƣợc hƣớng dẫn phá bỏ triệt để những gì còn liên hệ tới
lối dạy học truyền thống: giáo án đƣợc đổi thành "Thiết kế giờ dạy", mục đích yêu cầu đƣợc
gọi là "việc cần làm"; cấu trúc giảng văn cũ chuyển sang cấu trúc mới lấy đọc làm trung tâm:
bài phân tích tác phẩm dựa vào trình tự: 1. Đọc và hƣớng dẫn đọc 2. Đọc phân tích 3. Đọc
luyện tập. Sau đó, qua một thời gian thực hiện thấy chƣa hợp lý lại điều chỉnh: 1. Đọc và
hƣớng dẫn đọc 2. Giới thiệu tác giả và tác phẩm 3. Hƣớng dẫn tìm hiểu bài 4.Luyện tập
(59,7).
Rõ ràng việc triển khai cải cách dạy văn ở các lớp đầu cấp PTCS có tạo đƣợc sức
chuyển mới, gây đƣợc ấn tƣợng mạnh về ý đồ cải cách dạy học. Song do việc đúc kết cơ sở lí
luận còn phiến diện, quan điểm chỉ đạo có phần áp đặt, khiên cƣỡng, bởi vậy sức thuyết phục
của phƣơng pháp dạy học mới còn bị hạn chế. Càng trở về cuối càng nhƣ bị hụt hẫng về sự
chuẩn bị cũng nhƣ khả năng tiềm lực cần có để dốc sức cho một cuộc "ra quân" rầm rộ nhƣ
dự kiến.
Đến bƣớc thực hiện thay sách giáo khoa văn ở PTTH, từ những kết quả ban đầu đạt
đƣợc cũng nhƣ những thiếu sót hạn chế sau 4 năm đổi mới việc dạy văn ở PTCS, chúng ta đã
nhìn thấy những vấn đề bức thiết đặt ra cho việc tiến hành CCGD sắp tới. Đặc biệt trƣớc
bƣớc tiến mau lẹ của công cuộc đổi mới trƣớc hết là tƣ duy lí luận các nhà nghiên cứu văn
học, nghiên cứu giáo dục và các giáo viên văn đƣợc tiếp nhận nhiều quan điểm mới nảy sinh
từ đời sống văn học sinh động ở nƣớc ngoài cũng nhƣ trong nƣớc. Hầu nhƣ những vấn đề
đang đặt ra từ thực tiễn văn học đều làm cho mọi ngƣời trải qua sự "nhận thức lại",
111
"đánh giá lại" những nhận thức cũ. Và cũng do việc định hƣớng đổi mới ở thời kỳ đầu còn
lúng túng, có xu hƣớng nóng vội, cực đoan khi muốn phủ nhận những giá trị cũ, không khí
trao đổi, tranh luận các vấn đề có liên quan tới việc dạy học văn lại rộ lên sôi động. Trong bồi
cảnh đó, bƣớc triển khai cải cách môn văn ở trƣờng PTTH đƣợc tính từ trƣớc, sẽ không tránh
khỏi sự sửa đổi, điều chỉnh...
Bƣớc vào chặng đƣờng mới - chặng đƣờng có sự chuyển biến quan trọng về cả "chất"
và "lượng" đối với việc dạy học văn ở trƣờng PTTH - những vƣớng mắc khó khăn chắc chắn
còn nhiều. Để đáp ứng đòi hỏi bức xúc nói đó, từ năm 1988, một số cuộc hội nghị, hội thảo
về đổi mới dạy học văn ở PTTH đƣợc tổ chức. Tại diễn đàn các cuộc hội thảo này, các báo
cáo và ý kiến trao đổi thảo luận đều xoay quanh yêu cầu giải quyết những vấn đề lí luận và
thực tiễn đang đặt ra cho việc xoay chuyển chất lƣợng dạy học văn trong tình hình mới. Ý
kiến trao đổi cũng đƣợc tiếp tục đăng trên các tờ báo, tạp chí đã dấy lên một không khí sôi
nổi, lôi cuốn sự chú ý của dƣ luận trong và ngoài nhà trƣờng. Các vấn đề đặt ra thật phong
phú, đa dạng: Từ lí luận về bản chất, đặc trƣng môn học với cách nhìn mới cho tới các quan
điểm nhận xét, đánh giá các hiện tƣợng văn học cụ thể. Những nội dung đề cập có tác dụng
tạo không khí đối thoại cởi mở trong hƣớng giải quyết những vấn đề vốn chứa đựng nhiều
mâu thuẫn. Tuy vậy, có điều dễ thấy là việc đổi mới tƣ duy lí luận về môn văn khá rộng, thực
tiễn văn học lại phong phú phức tạp, tính chất, phạm vi của một sự đổi mới nhƣ nói đó lại
chƣa có tiền lệ. Do đó, hiệu quả của những cuộc thảo luận chƣa cao, chƣa đạt đƣợc mục đích
cần thiết là tạo ra một chuyển biến thực sự đối với việc cải cách dạy học văn ở PTTH. Đối
với đa số giáo viên
112
văn ở PTTH, nhƣ dƣ luận cho thấy, những vấn đề trao đổi thảo luận nặng tính lí luận chƣa
thiết thực góp sức lôi cuốn, giúp đỡ họ đi vào giải quyết những nhu cầu cấp thiết đặt ra trong
quá trình dạy học giảng văn. Đúng nhƣ lời tâm sự của một giáo viên: "Tôi cần một minh triết
dể hướng dẫn cho việc dạy, cách dạy của tôi. Những biện pháp, những lời khuyên về phương
pháp dạy hiện nay cần được đặt trên một cơ sở lí luận có tính thuyết phục"(14,14).
Bởi lẽ đó, nhƣ thực tế cho thấy, trong những năm thay sách giáo khoa văn ở cấp
PTTH, có tình trạng gần nhƣ buông lỏng việc xác định đầy đủ những vấn đề có liên quan tới
bản chất vai trò, nhiệm vụ của môn giảng văn. Quanh những vấn đề giảng văn, ý kiến có
phần trái ngƣợc nhau khá rõ. Từ đó, không tránh khỏi những ngộ nhận khi đi vào xử lý các
yếu tố cụ thể của quá trình giảng văn (tác phẩm văn, vai trò chủ thể cảm thụ của học sinh, vị
trí của ngƣời giáo viên...). Từ khi thay sách giáo khoa văn PTTH, mùa hè nào cũng có chuyện
tập trung cán bộ chỉ đạo và giáo viên cốt cán để bồi dƣỡng việc sử dụng sách giáo khoa mới.
"Nhung ở hầu hết nhũng cuộc tập huấn ấy chỉ dược nghe sự giải thích chương trình, giải
thích việc chọn lựa tác phẩm văn chương, giải thích việc biên soạn hướng dẫn, mà không có
hoặc ít có sự bồi dưỡng về phương pháp dể dạy học và học tốt nhũng tác phẩm văn chương
dó" (29.1,5).
Ngay cả vấn đề thiết kế chƣơng trình sách giáo khoa mới, không phải không còn
những chỗ bất hợp lý cần điều chỉnh sửa đổi. Đó là chƣa đề cập tới chủ trƣơng đã đƣợc thực
hiện thí điểm và gần nhƣ sẽ đƣợc thực hiện trong tƣơng lai gần: việc phân ban ở PTTH mà
chắc chắn có tác động tới việc xây dựng quan điểm dạy văn, vấn đề xác định
113
mục tiêu - nội dung và phƣơng pháp dạy học văn nói chung và dạy tác phẩm văn nói riêng sẽ
còn là một vấn đề cần đƣợc trao đổi thảo luận nghiêm túc chu đáo hơn. Đặc biệt về phƣơng
pháp dạy học, các nhà sƣ phạm - trƣớc hết là đội ngũ những ngƣời làm phƣơng pháp - cần có
nỗ lực lớn lao để làm cho việc đổi mới dạy học văn tạo đƣợc sức chuyển biến thực sự, có cơ
sở khoa học khách quan, có tác dụng biến những ý đồ đặt ra trong CCGD thành bƣớc tiến
quan trọng của khoa học dạy văn ở trƣờng PTTH. Bởi vì trên phƣơng diện lí luận chung,
những quan điểm về đổi mới phƣơng pháp dạy học đƣợc đề cập qua CCGD "về căn bản phù
hợp với nhũng thành tựu mới mẻ nhất của khoa học sư phạm trên lĩnh vực dạy học văn.
Nhưng đây chỉ mới là những tư tưởng, những quan điểm có tính chất phương pháp luận -
chúng tôi nhấn mạnh NĐA - từ đây đến những phương pháp, biện pháp cụ thể sinh động vẫn
còn là một khoảng cách... Hiện nay tuyệt đại bộ phận giáo viên vẫn đang dạy theo phương
pháp cũ. Nếu có cải tiến chăng thì vẫn là ở mức cải lương. Trong thực tế, tư tưởng mới này
chưa tạo ra được một quĩ đạo mới về phương pháp trong nhà trường chúng ta" (25,63).
114
CHƢƠNG III: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ NGHỊ, ĐỔI MỚI DẠY HỌC GIẢNG
VĂN Ở TRƢỜNG PHỔ THÔNG TRUNG HỌC.
I. Bối cảnh hiện nay của việc dạy học giảng văn ở trƣờng phổ thông trung
học
1. Đến nay bƣớc triển khai thay sách giáo khoa CCGD môn văn ở PTTH đã hoàn
thành. Từ thực tiễn của việc triển khai CCGD, chúng ta thấy sức tác động của cuộc sống với
việc mở ra những khả năng để nâng cao chất lƣợng dạy văn vốn là bài toán đặt ra từ lâu nay.
Tuy chƣa có một đánh giá chính thức đƣợc công bố về kết quả của CCGD bộ môn văn,
nhƣng qua ý kiến trao đổi, và dƣ luận chung, có thể nổi lên hai hƣớng:
a/- Bày tỏ sự lạc quan về công việc đạt đƣợc qua triển khai thay sách giáo khoa, đổi
mới nội dung và phƣơng pháp dạy học. Với việc xác định: "một trong những nhiệm vụ quan
trọng của phân môn văn trong CCGD là phải khắc phục kiểu dạy học theo lối xã hội học
dung tục tồn tại mấy chục năm qua"(78, 27), chúng ta đã thấy "nhiều tiết văn trên lớp thành
công, tạo nên một sự hào hứng phấn khởi học tập của học sinh, học sinh thực sự chiếm lĩnh
tác phẩm, thực sự trở thành tác phẩm trong học sinh, học sinh tái tạo và sáng tạo sau khi học
tác phẩm chính là đã quan niệm được một cách chính xác và linh hoạt phương pháp dạy văn
trong CCGD mà Bộ đã hướng dẫn" (65,9). Cũng cần lƣu ý những nhận xét trên chủ yếu xuất
hiện trong chặng đầu thay sách CCGD.
b/- Trên báo chí, trong dƣ luận vẫn có ý kiến biểu hiện sự lo lắng về chất lƣợng dạy
học văn. Theo đó, nội dung chƣơng trình sách giáo khoa văn có đƣợc cải tiến, chất văn đƣợc
chú ý, song khối lƣợng kiến thức còn nặng, sắp xếp chƣa hài hòa. Khi chủ trƣơng khắc phục
hiện
115
tƣợng xã hội học dung tục, chính trị hóa thì lại nảy sinh xu hƣớng phiến diện đối với yêu cầu
giáo dục dạy học văn (nhấn mạnh cảm xúc, coi nhẹ vai trò hiểu biết và tƣ tƣởng, cô lập các
chức năng). Đặc biệt gần đây, một số ý kiến báo động về sự trì trệ và dẫm chân tại chỗ của
phƣơng pháp dạy học văn ở trƣờng PTTH "Liệu đến bao giờ ngành giáo dục lại có thể khôi
phục được phương pháp dạy học văn truyền thống như cha ông ta xưa kia từng coi trọng,
như những năm đầu thay sách bộ môn văn CCGD?"(29.2, 27) hoặc nêu yêu câu "đổi mới
phương pháp dạy học văn ở PTTH vừa là một vấn đề cấp bách của nhà trường, vừa là một
mong đợi nhiều năm nay của đông đảo giáo viên" (4,8).
Muốn đánh giá đúng đắn, khách quan kết quả đổi mới dạy học văn chúng ta cần căn
cứ vào những mục tiêu CCGD đã vạch. Cũng cần phải thấy việc đổi mới là một quá trình, vả
chăng kết quả chỉ có thể xây dựng vững chắc khi đội ngũ giáo viên ý thức đầy đủ, sâu sắc về
những vấn đề thuộc khoa học và nghệ thuật dạy văn. Dạy văn khó là ở chỗ đó, đánh giá hiệu
quả lại càng khó hơn. Vì thế, ý đồ cải cách có mạnh mẽ, táo bạo nhƣng ngƣời giáo viên chƣa
đủ điều kiện để biến mọi ý đồ cạch tân dạy học thành sự tự thân vận động tức là "biến quá
trình đào tạo thành tự đào tạo" thì chừng đó kết quả của cách tân còn bấp bênh. Cho nên đến
nay, lĩnh vực phƣơng pháp cơ bản vẫn còn là một khoảng trống chƣa đƣợc giải quyết một
cách có hệ thống.
1.2- Nói tới những tồn tại nhƣ trên để thấy hƣớng nỗ lực tiếp tục cải tổ việc dạy học
văn cần có chiến lƣợc đúng đắn, chuyển biến đồng bộ. Chiến lƣợc phát triển giáo dục luôn
đặt các nhà giáo dục quan tâm khắc phục những mặt yếu kém, đƣa trình độ giáo dục tiến kịp
với thành tựu của khoa học kỹ thuật hiện đại. Chẳng hạn ở Mỹ, khi nghiên
116
cứu cải tiến việc dạy học Văn chƣơng ngƣời ta cũng bàn luận trao đổi các vấn đề về môn học,
ngƣời học và cách dạy học khá thƣờng xuyên và rộng rãi. Các nhà giáo dục Mỹ đã đề cập cụ
thể thực trạng của việc dạy văn chƣơng cũng nhƣ cập nhật hóa những thành tựu mới về
nghiên cứu, thực hành dạy văn để giúp giáo viên có thông tin phong phú về các lĩnh vực mà
họ quan tâm. Judith A.Langer đồng Giám đốc, Trung tâm nghiên cứu dạy và học văn chƣơng
tại Đại học Albany, Newyork trong công trình "Cảm thụ văn chương và giảng dạy văn
chương” (Literary understanding and Literature instruction) đã đƣa ra nhận xét: "Nghệ thuật
ngôn ngữ Anh đã chứng kiến sự cải cách rộng lớn suốt 20 năm qua. Sự cải cách này tập
trung chủ yếu vào việc dạy viết và mặc dù sự kiện gần 75% của việc viết tiến hành trong các
lớp tiếng Anh là việc viết về văn chương, việc dạy học văn chương vẫn bị xao nhãng trầm
trọng. Như thế, những sự hiểu biết thông thường về các phương pháp dạy nghệ thuật ngôn từ
tiếng Anh sẽ khó hoàn thiện."(102, 1-2). Tác giả cũng cho thấy cách thức dạy học văn chƣơng
trong nhà trƣờng Mỹ "Vẫn còn bị thống trị bởi các phương pháp dựa vào văn bản mà tập
trung vào các câu trả lời "đúng" với những giải thích đã định trước" và phê phán: "Việc
giảng dạy văn chương xem như là một cách thức nhồi nhét, áp đặt kiến thức văn học cho học
sinh mà bỏ qua vai trò của việc giảng dạy văn chương trong sự phát triển một tinh thần độc
đáo sắc sảo cho tính chất phê phán". Từ đó Langer nhấn mạnh tới những nỗ lực của các nhà
sƣ phạm hƣớng tới sự "Nhận thức lại việc dạy văn chương dưới ánh sáng của sự nghiên cứu
cần yếu đối với quá trình tìm ý nghĩa trong việc đọc-viết, dưới ánh sáng của những phong
trào chính trong phạm vi bản thân lí thuyết Văn học." Tác giả nêu bật "việc dạy học văn
chương đã
117
chuyển mục đích giáo dục từ việc bảo đảm cho học sinh giải thích văn bản theo một cách
thức đúng đắn riêng lẻ đến chỗ hướng tới giúp đỡ họ học cách khám phá những hiểu biết
đang phát triển của họ về những bài văn mà họ đọc, nghiên cứu và viết". Các nhà giáo dục
Mỹ dựa vào lí thuyết "học sinh là nhân vật trung tâm" do John Dewey (1915) khởi xƣớng
"đòi hỏi phải có nhũng chương trình dựa trên kinh nghiệm và sự tham gia chủ động của học
sinh vào việc học", cũng nhƣ chịu ảnh hƣởng sâu sắc quan điểm của Vygotsky và "trường
phái Vygotsky mới" xem "việc nhận thức như là quá trình dựa trên căn bản xã hội và sự hiểu
biết (đặc biệt là các phương pháp suy nghĩ) nảy sinh ra từ những kinh nghiệm xã hội này".
Theo tác giả, những quan điểm nhƣ vậy đã "dẫn đến một sự thay đổi thực sự trong những
cách thức theo đó khả năng đọc, viết, việc học đọc viết, cũng như các đề tài giáo dục được
trình bày (nói trước công chứng). Nó bắt chúng ta phải nhìn vào những cách thức trong đó
khả năng đọc viết được sử dụng cái có giá trị như hiểu biết, nó được minh họa và truyền đạt
như thế nào và các loại suy nghĩ cũng như các loại nội dung kiến thức sinh ra từ
đó".(107.2,4). Tác giả cũng lƣu ý: "Mặc dù ý định của giáo viên sử dụng hình thức thảo luận
để học sinh tự khám phá và phân tích sâu hơn về tác phẩm đang được đọc, trong thực tế các
giáo viên cứ điều khiển các chủ đề thảo luận, những điểm tập trung vào bước đi và tổ chức
của các buổi thảo luận lớp". Theo Langer qua kết quả của 2 cuộc đánh giá quốc gia (1980,
1986) ngƣời ta đã nhận thấy những mặt thành công và thiếu sót của việc nỗ lực hƣớng tới cải
cách dạy văn. Đặc biệt từ năm 1980, những cuộc tranh luận đã thu hút sự quan tâm vào vấn
đề giảng dạy tác phẩm văn chƣơng, tập trung vào tìm hiểu sự vận động của văn bản với sự
hiểu biết riêng, kinh
118
nghiệm của cá nhân ngƣời đọc, đối với hoạt động đọc. Các nhà giáo dục đi vào việc nghiên
cứu, thực nghiệm những phƣơng pháp dạy học có hiệu quả hơn. Từ đó hình thành một loạt
các phƣơng pháp dạy học văn mới nhƣ phƣơng pháp lấy văn bản làm trung tâm, phƣơng pháp
phê bình mới (bao gồm sự phân tích văn bản sâu sắc kỹ lƣỡng theo loại thể), phƣơng pháp
dựa trên ngƣời đọc (lí thuyết về phản ứng của độc giả, xem ý nghĩa tồn tại nơi độc giả trong
sự tƣơng tác giữa độc giả với văn bản).
2. Nhƣ vậy, nhìn ra bên ngoài, chúng ta thấy cuộc chạy đua đổi mới phƣơng pháp dạy
học tác phẩm văn chƣơng đã trở thành một xu thế của thế giới theo hƣớng hiện đại hóa giáo
dục. Liên hệ tới bối cảnh nói đó, chúng ta cần nỗ lực vƣợt bậc để sớm hội nhập cùng trào lƣu
chung. Xu thế của thời đại hiện nay là sự phát triển: phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa
học. Bƣớc chuyển biến của thời đại "bùng nổ thông tin" nói đó đã tác động tới giáo dục tạo
nên những áp lực, những gợi ý để giáo dục phải có những thay đổi phù hợp và để giáo dục
cũng có những tác động trở lại đối với những thay đổi nói trên. Theo yêu cầu của xã hội "nhà
trường ngày nay có vai trò lớn không chỉ trong việc truyền thụ những kiến thức khoa học kỹ
thuật mà còn trong việc phát triển những thái độ khả năng cần thiết để đảm bảo cho con
người nắm vững được những kiến thức và sử dụng những kiến thức đó. Những thái độ như: ý
thức trách nhiệm, tinh thần tự chủ, thái độ nghiêm túc và những khả năng nhu: xác định rõ
được cái chính, cái bản chất, khái quát hóa đúng đắn; phân biệt được mục đích với phương
tiện; gắn nối được nguyên nhân và hiệu quả... trở thành ưu tiên so với kiến thức"(69,75).
Nhƣ vậy, nhà trƣờng không chỉ đơn giản là nơi diễn ra quá trình dạy
119
học, hoặc nói cách khác, quá trình nắm vững kiến thức, mà nhà trƣờng còn cần phải trở thành
một thiết chế bảo đảm sự phát triển toàn diện nhân cách. Chƣơng trình học mới phải chú
trọng đặc biệt đến yêu cầu làm việc cá nhân và phát hiện tƣ duy cá nhân. Việc học đƣợc tổ
chức tùy thuộc những khái niệm cơ bản về khoa học. Việc duyệt lại các chƣơng trình, kế
hoạch học tập phải hƣớng vào mục đích thúc đẩy năng lực của học sinh về mặt tƣ duy bởi
chính mình và chính mình ra những quyết định phù hợp. Xuất phát từ nội dung đào tạo đó,
mấy thập kỷ qua cuộc cách tân giáo dục trên thế giới đã làm "đảo lộn" các quan điểm vê
phƣơng pháp giáo dục cổ truyền từ chƣơng trình "lấy môn học làm trung tâm" chuyển sang
"chương trình lấy người học làm trung tâm", các nhà giáo dục đã phải chuyển đổi cách thức
dạy học: từ sự chú ý vai trò độc tôn của giáo viên sang phát huy vai trò chủ thể của học sinh.
Chính vì thế khoa học giáo dục đã chứng kiến cuộc cách mạng về phƣơng pháp bằng việc ra
đời của những phƣơng pháp dạy học mới: Phƣơng pháp tích cực, Phƣơng pháp hợp tác,
Phƣơng pháp cá biệt hóa, Phƣơng pháp chƣơng trình hóa, Phƣơng pháp nêu vấn đề...
Ngọn trào của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ đã làm thay đổi bộ mặt thế giới,
vƣợt qua mọi biên giới quốc gia lay chuyển ý thức, hành động của con ngƣời với nếp nghĩ,
thói quen từng có. Văn học nghệ thuật giờ đây cũng đang trải qua những thử thách mới.
Ngƣời ta đã đƣa ra những dự báo rất đối nghịch nhau về tƣơng lai của nó vào thời kỳ văn
minh hậu công nghiệp. Chúng ta còn nhớ những năm đầu thập niên 60 khi Liên xô (cũ) đƣa
con tầu Phƣơng Đông cùng nhà du hành vũ trụ Gagarin lên quĩ đạo trái đất, cả loài ngƣời
sửng sốt trƣớc
120
thành tựu khoa học kỹ thuật tuyệt vời, và từ đó ngƣời ta bắt đầu hoài nghi về vai trò của Văn
học với phƣơng thức suy nghĩ tƣởng tƣợng bằng trực cảm phỏng có thể làm đƣợc gì trong
thời đại của tự động hóa, tin học hóa của kỹ thuật nghe-nhìn hiện đại?. Chuyện nêu giả thiết,
chuyện hoài nghi là có thực và còn dai dẳng đeo bám trong tƣ duy của một số nhà tƣơng lai
học. Còn đối với đa số chúng ta - những ngƣời còn có lòng say mê văn chƣơng- vẫn còn tìm
thấy ý nghĩa của nó trong nhu cầu đời sống tinh thần của con ngƣời về tình cảm, thẩm mỹ thì
những điều nói trên có tác dụng nhƣ một lời nhắc nhở để làm sao góp phần đƣa Văn chƣơng
"tác động một cách sâu sắc không chỉ đến tình cảm mà đến cả trí tuệ của con người, làm cho
tinh thần họ thêm phong phú, giúp họ thấy rõ chính bản thân mình và mục đích cuộc sống
của mình, củng cố ý chí của họ trong cuộc đấu tranh vì những lý tưởng cao cả của loài
người" (96,145).
Đổi mới dạy học tác phẩm văn chƣơng, và thế phải đƣợc xem xét trong bối cảnh xã
hội-lịch sử rộng lớn, phong phú, đa dạng nói đó.
II. Vấn đề môn học giảng văn:
1. Việc xóa bỏ Giảng văn
Vào thay sách giáo khoa CCGD môn văn, quan điểm giảng văn truyền thống bị phê
phán, khi trình bày quan điểm dạy học tác phẩm văn chƣơng theo tinh thần CCGD, các nhà
các
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tv_giang_van_o_truong_pho_thong_trung_hoc_lich_su_va_trien_vong_9021_1921601.pdf