LỜI CÁM ƠN . i
LỜI CAM ĐOAN . ii
Danh mục các chữ viết tắt và ký hiệu. . iii
Danh mục các hình và đồ thị . v
Danh mục các bảng . xiv
MỤC LỤC . xvi
MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ HIỆU ỨNG TỪ NHIỆT VÀ VẬT LIỆU
TỪ NHIỆT . 6
1.1. Tổng quan về hiệu ứng từ nhiệt . . 6
1.1.1. Cơ sở nhiệt động học của hiệu ứng từ nhiệt . 6
1.1.2. Phương pháp đánh giá hiệu ứng từ nhiệt của vật liệu. 10
1.1.3. Mối quan hệ giữa chuyển pha và trật tự từ với hiệu ứng từ nhiệt. 11
1.2. Tổng quan về vật liệu từ nhiệt . 14
1.2.1. Quá trình phát triển . 14
1.2.2. Một số vật liệu từ nhiệt tiêu biểu . . 19
1.3. Hệ hợp kim từ nhiệt Ni-Mn-Z . 24
1.3.1. Cấu trúc của hợp kim Heusler Ni-Mn-Z . 24
1.3.2. Hợp kim từ nhiệt Ni-Mn-Z dạng khối . . . 25
1.3.3. Hợp kim từ nhiệt Ni-Mn-Z dạng băng . 29
1.4. Hệ hợp kim từ nhiệt La-Fe-Si . 32
1.4.1. Cấu trúc của hợp kim La-Fe-Si . 32
1.4.2. Hợp kim từ nhiệt La-Fe-Si dạng khối . . 33
1.4.3. Hợp kim từ nhiệt La-Fe-Si dạng băng. . 35
1.5. Hệ hợp kim từ nhiệt vô định hình Fe-M-Zr . 39
1.5.1. Cấu trúc vô định hình của hợp kim . 39
1.5.2. Hiệu ứng từ nhiệt của các hợp kim có cấu trúc vô định hình . 40
1.5.3. Hiệu ứng từ nhiệt của hệ hợp kim vô định hình Fe-M-Zr . 43
1.6. Tóm tắt một số kết quả nghiên cứu về hiệu ứng từ nhiệt ở Việt Nam . 46
Kết luận chương 1 . 49
161 trang |
Chia sẻ: honganh20 | Ngày: 15/03/2022 | Lượt xem: 353 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận án Hiệu ứng từ nhiệt của hợp kim ni - Mn - Sn, La - (Fe, CO) - (si,b) và Fe - (CO, Gd, Dy) - Zr chế tạo bằng phương pháp nguội nhanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
này là khá lớn, nó có thể đạt 18,5 J.kg
-1.K-1
trong từ trường biến thiên 50 kOe [73]. Đặc biệt, trong loại vật liệu này thường
xuất hiện cả hiệu ứng từ nhiệt dương và hiệu ứng từ nhiệt âm. Nhiệt độ chuyển
pha của hệ hợp kim này có thể được điều khiển thông qua việc thay đổi nồng độ
Sn và chế độ xử lý nhiệt. Tuy vậy, hợp kim Heusler Ni-Mn-Sn có cấu trúc và tính
chất từ rất nhạy với hợp phần và các điều kiện chế tạo. Cũng như đã được đề cập
đến trong phần tổng quan, việc sử dụng phương pháp phun băng nguội nhanh có
thể tạo được vật liệu khá đơn pha, thời gian ủ nhiệt ngắn hơn và cũng cải thiện
được các tính chất MCE của vật liệu [4, 91, 148]. Chính vì vậy, trong phần này,
chúng tôi nghiên cứu cấu trúc, tính chất từ và hiệu ứng từ nhiệt của các băng hợp
kim Heusler Ni50Mn50-xSnx (x = 11-15) được chế tạo bằng phương pháp phun băng
nguội nhanh và sau đó ủ nhiệt.
3.1. Cấu trúc của hệ băng hợp kim Ni50Mn50-xSnx
Hợp kim Ni50Mn50-xSnx được phun băng với tốc độ v = 40 m/s. Đây là tốc
độ lớn nhất của trống đồng. Với tốc độ phun băng này, chúng ta sẽ hạn chế được
tối đa sự hình thành các pha tinh thể không mong muốn trong hợp kim. Các băng
thu được có chiều dày khoảng 30 µm. Theo như nghiên cứu trước đây của tác giả
Nguyễn Hữu Đức đã thực hiện cho mẫu khối [2], pha tinh thể Ni2MnSn không tồn
tại trong các hợp kim có x < 11. Nhưng nếu nồng độ Sn quá lớn cũng làm phá vỡ
cấu trúc của pha hợp kim Heusler Ni2MnSn. Bên cạnh đó, các mẫu khối hợp kim
Ni50Mn50-xSnx cũng khá đơn pha Ni2SnMn khi được ủ ở 1123 K trong 5 h. Chính
vì vậy, trong phần nghiên cứu này chúng tôi đã nghiên cứu ảnh hưởng của Sn và
chế độ xử lý nhiệt lên cấu trúc của hệ băng hợp kim Ni50Mn50-xSnx với 11 ≤ x ≤
58
15. Hình 3.1. là giản đồ XRD của các mẫu băng hợp kim Ni50Mn50-xSnx trước và
sau khi ủ nhiệt ở 1123 K trong 5 h. Kết quả cho thấy các băng trước khi ủ nhiệt
đều xuất hiện hai đỉnh nhiễu xạ chính tương ứng với pha Ni2MnSn (cấu trúc lập
phương tâm mặt L21) và tương đối giống nhau khi nồng độ Sn (x) thay đổi. Các
mẫu băng này khá là đơn pha Ni2MnSn so với các mẫu khối đã được nghiên cứu
trước đây [2]. Đây chính là một ưu điểm của băng hợp kim so với hợp kim khối.
Hình 3.1. Giản đồ XRD của băng hợp kim Ni50Mn50-xSnx: chưa ủ nhiệt (a) và ủ
nhiệt ở 1123 K trong 5 h (b), hình lồng trong hình (a) là giản đồ XRD của băng
hợp kim với góc 2 từ 60o tới 65.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng nhận thấy các đỉnh nhiễu xạ của pha tinh thể
chính (Ni2MnSn) dịch nhẹ về phía giá trị góc 2 thấp hơn khi nồng độ Sn tăng nhẹ
(xem hình lồng vào hình 3.1a). Điều này có nghĩa là hằng số mạng của tinh thể
thay đổi khi thay thế một phần Sn cho Mn. Sự thay đổi của hằng số mạng có thể
dẫn tới sự thay đổi của các trật tự từ trong hợp kim như được chỉ ra ở mục 3.2
dưới đây. Ảnh hưởng này cũng được quan sát thấy rất rõ trong các mẫu khối
Ni50Mn50-xSnx [2]. Hằng số mạng của pha Ni2MnSn tăng đáng kể theo nồng độ Sn
[2]. Kết quả này cũng rất phù hợp với kết quả mà Thorsten và cộng sự [73] đã
công bố trước đây trên hệ vật liệu này. Để khảo sát ảnh hưởng của Sn lên cấu trúc
của hợp kim, kích thước hạt tinh thể của các mẫu cũng đã được xác định bằng
cách sử dụng công thức Scherrer–Debye:
59
k
d
cos( )
(4.1)
Trong đó, d: kích thước hạt tinh thể, k: hệ số hình dạng và bằng 0,9, : bước
sóng của tia X, : độ bán rộng của đỉnh nhiễu xạ, : góc Bragg. Kết quả cho thấy
rằng kích thước của hạt tinh thể giảm từ 8,2 nm xuống 4,7 nm khi x tăng từ 13
tới 15. Điều này sẽ ảnh hưởng tới tính chất từ và MCE của hợp kim như được chỉ
ra dưới đây.
Như vậy, các băng hợp kim trước khi ủ nhiệt khá là đơn pha Ni2MnSn.
Với mục đích điều chỉnh chuyển pha từ của hợp kim, chúng tôi đã tiến hảnh ủ
nhiệt các mẫu. Kết quả nghiên cứu trước đây đã cho thấy, các mẫu khối thể hiện
khá đơn pha sau khi được ủ nhiệt ở 1123 K trong 5 h [2]. Tuy nhiên, các mẫu
băng sau khi được ủ nhiệt ở chế độ này lại thể hiện đa pha (hình 3.1b). Sau khi ủ
ở 1123 K trong 5h, cấu trúc của tất cả các mẫu băng này khác biệt rõ rệt so với
các mẫu chưa ủ nhiệt. Ngoài pha tinh thể Ni2MnSn, các pha tinh thể khác như
Ni3Sn2 và Mn1,77Sn đã được hình thành. Số lượng và cường độ các đỉnh nhiễu xạ
của các mẫu băng đã ủ nhiệt này phụ thuộc vào nồng độ Sn. Như vậy, ta có thể
nhận thấy cấu trúc tinh thể của hệ hợp kim Ni50Mn50-xSnx phụ thuộc vào sự biến
đổi về tỷ phần các nguyên tố trong hợp kim. Chế độ xử lý nhiệt có ảnh hưởng
lớn tới sự hình thành và phát triển pha tinh thể Ni2MnSn. Những sự thay đổi về
cấu trúc sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới nhiệt độ chuyển pha từ và hiệu ứng từ nhiệt
của hợp kim.
3.2. Tính chất từ của hợp kim Ni50Mn50-xSnx
Tính chất từ của các hợp kim được khảo sát bởi các phép đo từ độ trên các
hệ đo VSM và SQUID. Hình 3.2 biểu diễn các đường cong từ nhiệt trong từ
trường 12 kOe của băng hợp kim Ni50Mn50-xSnx trước và sau khi ủ nhiệt. Khi
chưa ủ nhiệt, chúng ta nhận thấy có sự xuất hiện của cả hai loại chuyển pha từ,
chuyển pha từ loại một (FOPT) và chuyển pha từ loại hai (SOPT), trong các mẫu
có x = 12, 13 và 14. Sự xuất hiện của FOPT là do sự tồn tại của chuyển pha cấu
trúc từ martensite sang austenite (M - A) và ngược lại. Nhiệt độ chuyển pha
60
martensite - austenite (TM-A) và biên độ của chuyển pha này phụ thuộc mạnh vào
nồng độ Sn. Nhiệt độ TM-A của hợp kim giảm nhanh chóng từ 302 xuống 182 K
bằng sự tăng lên 2% của nồng độ Sn (từ 12 lên 14%). Tuy vậy, chuyển pha này
lại không được quan sát thấy ở các mẫu với nồng độ Sn 11 và 15% trong dải
nhiệt độ từ 100 - 350 K. Như vậy, chuyển pha martensite - austenite là rất nhạy
với nồng độ Sn trong hợp kim. Chuyển pha này tác động mạnh đến hiệu ứng từ
nhiệt của hợp kim như được chỉ ra ở mục 3.3.
100 200 300 400
0
20
40
60
80
100
M
(
e
m
u
/g
)
T (K)
x = 11
x = 12
x = 13
x = 14
x = 15
(a)
100 200 300 400
0
10
20
30
40
50
60
70
80
M
(
e
m
u
/g
)
T (K)
Chua u
T
a
= 1273 K, t
a
= 15 p
T
a
= 1273 K, t
a
= 30 p
(b)
x = 13
100 200 300 400
0
10
20
30
40
50
M
(
e
m
u
/g
)
T (K)
x = 13
x = 14
x = 15
(c)
Hình 3.2. Các đường cong M(T) trong từ trường 12 kOe của băng hợp kim
Ni50Mn50-xSnx: chưa ủ nhiệt (a), ủ nhiệt tại 1273 K trong 15 phút và 30 phút (b) và
ủ tại 1123 K trong 5 h (c).
61
Sau khi ủ nhiệt tại 1273 K trong 15 và 30 phút, chuyển pha M - A vẫn tồn
tại trong hợp kim (hình 3.2b). Bên cạnh đó, ta còn quan sát thấy nhiệt độ chuyển
pha TM-A của mẫu tăng sau khi ủ, và tăng theo thời gian ủ. Như vậy, bằng cách
tăng thời gian ủ nhiệt, TM-A của hợp kim đã dịch chuyển về gần nhiệt độ phòng và
từ độ bị giảm xuống. Tuy nhiên, chuyển pha này không còn được quan sát thấy
sau khi được ủ nhiệt ở thời gian 5 h (hình 3.2c). Trong khi đó, chuyển pha FM –
PM, xuất hiện gần 320 K, là gần như không thay đổi bởi quá trình ủ nhiệt này.
Mặt khác, khi so sánh với kết quả nghiên cứu trước đây về hợp kim khối [2],
chuyển pha M - A chỉ xuất hiện trong các mẫu khối với x = 0,13 - 0,15 khi đã
được ủ nhiệt. Đây chính là điểm khác biệt của mẫu băng so với mẫu khối.
Hình 3.3. Đường cong MZFC(T) và MFC(T) của các băng hợp kim Ni50Mn50-xSnx
được đo ở từ trường 150 Oe (a, b) và 12 kOe (c).
Hình 3.3 biểu diễn các đường từ nhiệt ZFC và FC, MZFC(T) và MFC(T),
của băng hợp kim Ni50Mn50-xSnx (x = 13 và 14) khi chưa ủ nhiệt. Ở từ trường
thấp 150 Oe, hình 3.3a và 3.3b cho thấy rõ đặc trưng của các mẫu với sự đồng
tồn tại chuyển pha cấu trúc và chuyển pha từ [68, 72, 73]. Từ các đường từ độ
62
phụ thuộc nhiệt độ này, chúng tôi đã xác định các nhiệt độ chuyển pha FM - PM
của pha ausenite ( ACT ) và nhiệt độ chuyển pha FM - PM của pha martensite (
M
CT )
cho các mẫu. Để dễ mô tả, ta kí hiệu nhiệt độ bắt đầu và kết thúc của pha
austenite là AsT và
A
fT . Cả hai pha martensite và austenite có thể tồn tại (trong
khoảng AsT đến
A
fT ) ở các hợp kim Ni50Mn50-xSnx với nồng độ Sn thích hợp. Hai
pha này đều là FM. Tuy nhiên, pha martensite có tính FM yếu hơn.
Nhìn chung, khi tăng nhiệt độ, nhiều mẫu hợp kim Ni50Mn50-xSnx thể hiện
tính đa pha từ. Từ độ giảm đến mức tối thiểu tại nhiệt độ MCT , sau đó bắt đầu tăng
nhanh ở nhiệt độ AsT , sự gia tăng này nhanh chóng dừng lại ở nhiệt độ
A
fT . Quá
trình chuyển pha cuối cùng là từ FM sang PM xảy ra ở nhiệt độ Curie của pha
austenite ACT . Với sự tăng lên của nhiệt độ, mẫu x = 13 thể hiện một chuyển pha
tại 250 K, mà được biết là nhiệt độ Curie của pha martensit MCT [128]. Chuyển
pha này không xuất hiện trong mẫu x = 14, bởi vì trong mẫu này pha austenite là
thống trị. Chuyển pha loại một martensite - austennite xuất hiện trong cả hai
mẫu, với TM-A = 255 K cho mẫu x = 13 và TM-A = 182 K cho mẫu x = 14. Sự dịch
chuyển nhiệt độ TM-A xuống dưới nhiệt độ thấp hơn của mẫu x = 14 là phù hợp
với các quan sát trước cho rằng đóng góp của sự thêm vào Sn (tăng nồng độ) làm
phát triển pha austenite, cuối cùng dẫn tới sự biến mất hoàn toàn của chuyển pha
M - A khi x > 18 [68, 72]. Sự chia tách giữa MFC(T) và MZFC(T) xuất hiện tại
nhiệt độ 235 K (< MCT ) đối với mẫu x = 13 và 178 K (< TM-A) với x = 14. Mức độ
chia tách này tăng khi nồng độ Sn giảm, ở đó pha martensit là thống trị [72]. Mặt
khác, sự đồng tồn tại của các tương tác FM và AFM, và/hoặc các đám FM trong
các hợp kim Ni50Mn50-xSnx có thể tạo ra các trạng thái trật tự sắt từ tương tác gần
trong pha mactensit mà được biểu lộ ở sự phân tách của FC - ZFC trên đường
cong từ nhiệt [68, 72]. Khi T > TM-A, một chuyển pha FM - PM (
A
CT ) xuất hiện
trong pha austenite. Các giá trị ACT được xác định từ giá trị cực tiểu của các
đường dM/dT là 302 K cho x = 13 và 310 K cho x = 14. Chú ý rằng, có một gò
63
nhô lên được đánh dấu bởi dấu * trong hình 3.3 có thể liên quan tới sự không
đồng đều trong cấu trúc tinh thể hoặc liên quan tới sự có mặt của các đám FM,
mà thường chỉ có trong các băng Ni50Mn50-xSnx xung quanh nhiệt độ bắt đầu
chuyển sang martensite [72]. Đặc tính này chỉ được quan sát thấy trong các băng
Ni50Mn50-xSnx khi được đo trong các từ trường thấp nhưng không xuất hiện khi
từ trường trở nên đủ cao (xem hình 3.3c, đường cong MFC(T) khi H = 12 kOe).
3.3. Hiệu ứng từ nhiệt của hợp kim Ni50Mn50-xSnx
Để nghiên cứu ảnh hưởng của nồng độ Sn lên hiệu ứng từ nhiệt của hệ hợp
kim Ni50Mn50-xSnx trong biến thiên từ trường 12 kOe, chúng tôi đã tiến hành đo một
loạt các đường từ nhiệt ở các từ trường khác nhau (hình 3.4). Từ các đường cong từ
nhiệt của các mẫu băng hợp kim trong các từ trường khác nhau, chúng tôi suy ra sự
phụ thuộc của từ độ vào từ trường, M(H), ở các nhiệt độ khác nhau (hình 3.5). Các
nghiên cứu trước đây đã cho thấy rằng những số liệu lấy từ các đường cong từ hóa
ban đầu được đo trực tiếp và các số liệu lấy ra từ các đường cong từ nhiệt được đo ở
các từ trường khác nhau là hoàn toàn trùng khớp [2, 25]. Và độ biến thiên entropy
từ Sm được xác định từ các số liệu M(H) bằng cách sử dụng phương trình (1.7).
0
10
20
30
40
50
60
100 150 200 250 300 350 400 450
12 kOe
5 kOe
10 kOe
2 kOe
1 kOe
700 Oe
500 Oe
300 Oe
200 Oe
70 Oe
100 Oe
50 Oe
30 Oe
20 Oe
M
(
e
m
u
.g
-1
)
T (K)(a)
100 200 300 400
0
10
20
30
40
M
(
e
m
u
.g
-1
)
T (K)
12 kOe
10 kOe
5 kOe
2 kOe
1 kOe
700 Oe
500 Oe
300 Oe
200 Oe
100 Oe
70 Oe
50 Oe
30 Oe
20 Oe
Hình 3.4. Các đường cong M(T) của các băng hợp kim Ni50Mn37Sn13 trước khi ủ
nhiệt (a) và sau ủ nhiệt tại 1273 K trong 15 phút (b) được đo trong các từ trường
khác nhau.
(b)
64
0
10
20
30
40
32 9 K
294 K
269 K
T
=
5
K
M
(
e
m
u
/g
)
H (kOe)
T
=
2
K
289 K
0 5 10 15
Hình 3.5. Sự phụ thuộc của từ độ vào từ trường tại các nhiệt độ khác nhau của băng hợp
kim Ni50Mn37Sn3 trước khi ủ nhiệt (a)
250 275 300 325
-2
0
2
4
6
S
m
(
J
.k
g
-1
.K
-1
)
T (K)
Chua u
T
a
= 1273 K,
t
a
= 15 p
Hình 3.6. Các đường cong Sm(T) trong biến thiên từ trường 12 kOe của mẫu băng
Ni50Mn37Sn3 trước và sau khi ủ nhiệt tại 1273 K trong 15 phút.
Các đường cong Sm(T) với H = 12 kOe của mẫu Ni50Mn37Sn13 trước và
sau khi ủ nhiệt tại 1273 K trong 15 phút được trình bày trên hình 3.6. Các đường
Sm(T) của cả hai mẫu đều có hai cực trị ngược dấu nhau. Một cực trị tương ứng
với hiệu ứng từ nhiệt dương và một ứng với hiệu ứng từ nhiệt âm. MCE âm (Sm
65
> 0) tương ứng với chuyển pha loại một và MCE dương (Sm < 0) tương ứng với
chuyển pha loại hai trong vật liệu. Biến thiên entropy từ cực đại dương và âm
tương ứng là |Sm|max = 5,7 J.kg
-1.K-1 và |-Sm|max = 1,4 J.kg
-1.K-1 đối với mẫu chưa
ủ nhiệt, |Sm|max = 5,2 J.kg
-1.K-1 và |-Sm|max = 1,9 J.kg
-1.K-1 (với H = 12 kOe) đối
với mẫu đã ủ nhiệt. Các giá trị |Sm|max này lớn hơn giá trị của hợp kim khối Ni-
Mn-Sn một cách tương ứng là |Sm|max = 1,9 J.kg
-1.K-1 và |-Sm|max = 1,38 J.kg
-
1.K-1 đã được nghiên cứu trước đây [2]. Điều này chứng tỏ MCE trong các mẫu
băng hợp kim đã được cải thiện đáng kể so với mẫu khối. Cần chú ý rằng với chế
độ ủ nhiệt thích hợp, cả biến thiên entropy từ cực đại và dải nhiệt độ hoạt động
của hợp kim có thể điều chỉnh về vùng nhiệt độ phòng. Có thể quan sát thấy
trong hình 3.6, bằng cách ủ nhiệt tại 1273 K trong 15 phút, biến thiên entropy từ
dương cực đại của băng hợp kim Ni50Mn37Sn13 dịch chuyển từ 265 tới 285 K
và biến thiên entropy từ cực đại âm của mẫu này, xuất hiện tại 310 K, tăng từ
1,4 tới 1,9 J.kg-1.K-1. Độ bán rộng của đường cong biến thiên entropy từ âm của
các mẫu băng là khá lớn (> 20 K). Cả hiệu ứng từ nhiệt dương và âm của các
mẫu băng xảy ra gần vùng nhiệt độ phòng. Như vậy, có thể kết hợp tất cả MCE
dương và MCE âm của vật liệu cho ứng dụng làm lạnh bằng từ trường tại nhiệt
độ phòng. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của các điều kiện ủ lên hiệu ứng từ nhiệt của
các băng Ni-Mn-Sn cần phải khảo sát hơn nữa để thu được sự tối ưu của hiệu
ứng này cho các ứng dụng thực tế.
Để tiếp tục nghiên cứu MCE trong các mẫu Ni50Mn50-xSnx (x = 13 và 14)
trong các biến thiên từ trường khác nhau, các đường đẳng nhiệt, M(H), đã được
đo xung quanh nhiệt độ chuyển pha trong các biến thiên từ trường khác nhau lên
tới 50 kOe (hình 3.7). Quan sát trên hình 3.7a, trong vùng nhiệt độ từ 250 tới 258
K, ta nhận thấy có một sự tăng đột ngột của từ độ trong các đường M(H) tại từ
trường 38 kOe, phù hợp với chuyển pha M - A [68, 72, 73]. Mẫu x = 14 cũng có
biểu hiện giống như vậy (các đường M(H) tại 160, 166 và 170 K trong hình 3.7b)
xảy ra tại từ trường 45 kOe. Bên cạnh đó, chúng ta cần chú ý rằng các giá trị của
từ độ bão hòa (Ms) trong pha sắt từ austenite của mẫu x = 14 (Ms 80 emu/g)
66
lớn hơn khá nhiều so với x = 13 (Ms 55 emu/g). Từ các đường cong M(H)
được biểu diễn trong hình 3.7, Sm của các mẫu Ni50Mn50-xSnx (x = 13 và 14) đã
được tính toán bằng cách sử dụng phương trình (1.7).
Hình 3.7. Các đường cong M(H) của các băng hợp kim x = 13 (a) và x = 14 (b) đo
tại các nhiệt độ khác nhau.
Hình 3.8 biểu diễn các đường cong Sm(T) của các mẫu x = 13 và 14 khi
biến thiên từ trường lên tới 50 kOe. Chúng ta có thể quan sát thấy sự xuất hiện
hiệu ứng từ nhiệt dương và âm trong cả hai mẫu hợp kim. Các giá trị Sm tăng
theo từ trường. Khi H = 50 kOe, biến thiên entropy từ cực đại Smmax tương
ứng với MCE âm là 22 J.kg-1.K-1 và 20 J.kg-1.K-1 tại TM-A = 255 K và 165 K lần
lượt cho x = 13 và 14. Các giá trị này lớn hơn của hợp kim khối Ni50Mn37Sn13
(Smmax 18 J.kg
-1.K-1) [73, 128] hoặc Gd5Si2Ge2 (|Sm|max 19 J.kg
-1.K-1)
[49]. Tuy nhiên, các giá trị Smmax chỉ duy trì ở một dải nhiệt độ hẹp (TFWHM
5 K) do bản chất của chuyển pha loại một M - A. Do vậy, các giá trị RC tương
đối nhỏ, như được chỉ ra dưới đây.
67
Hình 3.8. Các đường cong Sm(T) của các băng Ni50Mn50-xSnx với x = 13 (a) và x
= 14 (b) trong biến thiên từ trường lên tới 50 kOe. Hình lồng trong mỗi hình
tương ứng với sự phụ thuộc vào từ trường của RC xung quanh nhiệt độ chuyển
pha TM-A và TC
A.
Đối với trường hợp của MCE dương, cực tiểu của đường cong Sm(T) xuất
hiện tại ACT cho cả hai mẫu. Khi H = 50 kOe, |-Sm|max chỉ đạt cỡ 4 J.kg
-1.K-1,
nhưng các đường cong Sm(T) mở rộng hơn, do bản chất của SOPT. Bên cạnh đó,
ta còn quan sát thấy mẫu x = 13 xuất hiện một đỉnh entropy từ âm |-Sm|max 1
68
J/kg.K khi H = 50 kOe tại 225 K (đặc trưng cho chuyển pha từ tại nhiệt độ Curie
của pha martensite).
Khả năng làm lạnh từ RC phụ thuộc vào biến thiên từ trường H xung
quanh TM-A và
A
CT được biểu diễn trong hình lồng trong hình 3.7. Chúng ta có thể
nhận thấy RC tăng theo nồng độ Sn. Đặc biệt là ở xung quanh ACT , RC tăng từ
160 J.kg-1 (với x = 13) lên 270 J.kg-1 (với x = 14) trong biến thiên từ trường 50
kOe. Một điều đáng lưu ý, ở từ trường 50 kOe, mẫu x = 13 có biến thiên entropy
từ tại TM-A (Smmax 22 J.kg
-1.K-1) lớn gấp hơn năm lần so với tại ACT (-Smmax
4 J.kg-1.K-1), nhưng lại có RC chỉ bằng một nửa (RC 75 J.kg-1 xung quanh TM-A
và 160 J.kg-1 xung quanh ACT ). Một cách tương tự, mẫu x = 14 có RC xung
quanh ACT (RC 270 J.kg
-1) lớn gấp hơn bốn lần tại TM-A (RC 65 J.kg
-1). Như
vậy, sự mở rộng của các đường cong Sm(T) xung quanh
A
CT , do bản chất của
SOPT, đã làm tăng đáng kể RC của vật liệu.
3.4. Chuyển pha và các tham số tới hạn của hợp kim Ni50Mn50-xSnx
Để hiểu rõ hơn sự khác nhau về độ lớn của MCE được xác định xung quanh
các nhiệt độ chuyển pha trong hợp kim Heusler Ni50Mn50-xSnx, chúng tôi đã khảo
sát các biểu hiện tới hạn của chúng ở gần các nhiệt độ chuyển pha này. Hiện tại,
rất khó để phân tích các biểu hiện tới hạn của chuyển pha loại hai martensite của
mẫu băng Ni50Mn50-xSnx (x = 13), khi trạng thái FM và AFM cùng tồn tại, và gần
chuyển pha M - A. Đối với chuyển pha austenite, các biểu hiện tới hạn trong vùng
A
CT được đặc trưng bởi các tham số tới hạn , và , tương ứng với sự phụ thuộc
của từ độ tự phát vào nhiệt độ MS(T) ở T < TC, sự phụ thuộc vào nhiệt độ của
nghịch đảo của độ cảm từ ban đầu 0
-1(T) ở T > TC, và từ độ phụ thuộc từ trường
M(H) tại T = TC. Theo lý thuyết, các hệ thức này được biểu diễn theo các hệ thức
(1.14), (1.15) và (1.16) [121]. Thêm vào đó, trong vùng tới hạn, các giả thiết thống
kê [121] tiên đoán rằng từ độ là một hàm phụ thuộc vào từ trường H và nhiệt độ
rút gọn = (T - ACT )/
A
CT theo phương trình (1.18).
69
Hình 3.9. Các dữ liệu Ms(T) và
1
o T( )
và các đường đã được làm khớp theo các
phương trình (1.14) và (1.16), và theo giả thuyết thống kê (1.18) của hợp kim
Ni50Mn50-xSnx với x = 13 (a, b) và x = 14 (c, d).
Từ độ từ phát MS(T) và nghịch đảo của độ cảm từ ban đầu
1
o T( )
của vật
liệu có thể thu được bằng cách làm khớp tuyến tính các đường Arrot tại từ trường
cao [10]. Từ giao điểm của các đường thẳng làm khớp với các trục M2 và H/M, ta có
thể xác định được từ độ tự phát và nghịch đảo độ cảm từ ban đầu tại các nhiệt độ
khác nhau. Bằng cách làm khớp các số liệu MS(T) và 0
-1(T) theo các hệ thức (1.14)
và (1.16), chúng ta thu được các tham số tới hạn , và ACT . Đối với mẫu x = 13, các
giá trị tới hạn đã được xác định: = 0,385 0,035 và ACT = 303,4 0,6 K từ việc
làm khớp các dữ liệu MS(T) theo phương trình (1.14), và = 1,083 0,060 và
A
CT = 303,9
0,3 K từ việc làm khớp các dữ liệu 0
-1(T) theo phương trình (1.16) đã được xác
70
định (hình 3.9a). Giá trị trung bình ACT của chúng 303,6 K sẽ được sử dụng cho các
phân tích về sau. Với các tham số tới hạn này, việc vẽ các đường M/ theo H/
+
cho thấy các dữ liệu M(H) sẽ ngả về hai phía của đường cong, một tương ứng với
nhiệt độ dưới ACT (nhánh f , tương ứng với pha FM) và nhánh khác tương ứng với
nhiệt độ trên ACT (nhánh f , tương ứng với pha PM) (hình 3.9b). Phân tích tương tự
được thực hiện cho mẫu x = 14. Như được chỉ ra trong hình 3.9c và 3.9d, mẫu này
có = 0,496 0,015, = 1,2024 0,059, và ACT = 304,5 K (đã lấy trung bình từ hai
phép làm khớp). Sử dụng hệ thức Widom (1.17), chúng ta thu được các giá trị là
3,82 và 3,01 tương ứng với x = 13 và 14. Giá trị này gần với các giá trị thu được từ
việc làm khớp các đường từ hóa đẳng nhiệt tại nhiệt độ T ACT theo phương trình
(1.15). Việc tính các tham số tới hạn theo các phương trình (1.14), (1.15) và (1.16),
và kiểm tra lại theo giả thuyết thống kê (phương trình (1.18)) đã chứng tỏ tính chính
xác của các giá trị ACT , và thu được trong công việc thực nghiệm của chúng tôi.
So sánh với các kết quả thu được từ các mô hình tiêu chuẩn, bao gồm thuyết
trường trung bình (MFT), mô hình Heisenberg 3D và mô hình Ising 3D (bảng 1.1)
[121], chúng tôi nhận thấy rằng các giá trị thu được từ các mẫu băng này ( =
1,083 và 1,024 tương ứng cho x = 13 và 14) là rất gần với mô hình MFT. Tuy
nhiên, trong khi giá trị cho x = 13 là gần với giá trị của mô hình Heisenberg 3D
thì giá trị của mẫu x = 14 gần với MFT. Điều này thể hiện sự tồn tại của trật tự sắt
từ tương tác gần trong mẫu x = 13, nhưng lại tồn tại trật tự sắt từ tương tác xa trong
mẫu x = 14 khi T < ACT . Sự xuất hiện của trật tự FM tương tác gần trong mẫu x = 13
là hợp lí, do sự đồng tại của các tương tác FM/AFM tương ứng với pha martensite
và chuyển pha M - A [68, 73]. Kết quả này được thể hiện bởi sự lệch nhỏ của các
dữ liệu Ms(T) xung quanh 294 K khỏi đường làm khớp (hình 3.9a) và sự phân tán
của một vài điểm dữ liệu M(H) tại nhiệt độ T < ACT trên nhánh f (hình 3.9b). Đối
với mẫu x = 14, pha austenite có ưu thế hơn pha martensite, vì vậy tồn tại trật tự FM
tương tác xa. Như vậy, sự biến đổi của các trật tự FM từ tương tác gần sang tương
71
tác xa trong băng hợp kim Ni50Mn50-xSnx thay đổi khi x từ 13 tới 14 làm giảm nhẹ
Sm nhưng lại làm tăng đáng kể RC tại cùng một từ trường.
Kết luận chương 3
Tóm lại, chúng tôi đã nghiên cứu một cách hệ thống cấu trúc, tính chất từ, hiệu
ứng từ nhiệt và các tham số tới hạn trong các băng hợp kim Ni50Mn50-xSnx. Các mẫu
trước khi ủ nhiệt đều xuất hiện các đỉnh nhiễu xạ tương ứng với pha cấu trúc Heusler
đầy đủ Ni2MnSn. Chuyển pha từ gắn với chuyển pha cấu trúc của hợp kim được quan
sát thấy tại dải hẹp của nồng độ Sn (x = 12 - 14) và có thể được điều chỉnh bởi chế độ ủ
nhiệt. Một số mẫu hợp kim cho cả GMCE âm và dương lớn (|Sm|max > 5,2 J.kg
-1.K-1 và
|-Sm|max > 1,4 J.kg
-1.K-1 với H = 12 kOe). Đặc biệt là GMCE âm với giá trị biến thiên
entropy dương rất cao. Tuy nhiên, giá trị này chỉ duy trì trong một dải nhiệt độ hẹp, do
bản chất của chuyển pha loại một. GMCE dương với giá trị ∆Sm nhỏ hơn, nhưng lại có
đường cong ∆Sm(T) mở rộng hơn xung quanh nhiệt độ chuyển pha, vì vậy cho khả
năng làm lạnh từ lớn. Sự thêm vào của Sn đã làm thay đổi trật tự tương tác sắt từ trong
pha austenite của hợp kim Ni50Mn50-xSnx, từ trật tự sắt từ tương tác gần (x = 13) sang
trật tự sắt từ tương tác xa (x = 14).
72
CHƯƠNG 4
CẤU TRÚC, TÍNH CHẤT TỪ VÀ HIỆU ỨNG TỪ NHIỆT CỦA HỢP KIM
NGUỘI NHANH La-(Fe,Co)-(Si,B)
Như đã nói trong phần tổng quan, hiệu ứng từ nhiệt lớn xảy ra ở các vùng
chuyển pha từ và phụ thuộc vào đặc tính của chuyển pha từ (nhiệt độ, biên độ và độ
rộng chuyển pha). Trong số các vật liệu có hiệu ứng từ nhiệt lớn, các nguyên tố đất
hiếm và hợp chất của chúng được coi là một loại vật liệu tốt nhất bởi các mô men từ
lớn của chúng. Kim loại Gd tinh khiết có hiệu ứng từ nhiệt lớn nhất liên quan tới
chuyển pha loại hai (|Sm|max = 9,8 J/kg.K với ∆H = 50 kOe tại TC = 293 K [108]). Hợp
kim Gd5Si2Ge2, dựa trên chuyển pha loại một, có |Sm|max = 18,5 J/kg.K với ∆H = 50
kOe [109]. Tuy nhiên, Gd có giá thành rất đắt do khan hiếm nguyên liệu cùng với công
nghệ chế tạo khắt khe. Mặt khác, các hợp kim chứa Gd cũng còn chưa thỏa đáng cho
một số yêu cầu khác như độ bền, độ dẫn nhiệt...
Các hợp kim nền La-Fe với cấu trúc loại NaZn13 là vật liệu tiềm năng cho sự
làm lạnh bằng từ trường do chúng có từ độ bão hòa cao, giá thành thấp, không độc hại
và độ dẫn nhiệt cao [82, 144]. Bên cạnh đó, một số băng hợp kim nền La-Fe còn có
MCE cao hơn nhiều so với của Gd tinh khiết (ví
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- luan_an_hieu_ung_tu_nhiet_cua_hop_kim_ni_mn_sn_la_fe_co_sib.pdf